Thursday, 17 April 2014

ĐỊNH MỆNH CỦA VIỆT NAM (Robert D. Kaplan)




Robert D. Kaplan

Người dịch: Trà Điêu  (blog Xuyên Sơn)
Chủ Nhật, ngày 13 tháng 4 năm 2014

Giới thiệu  :

Robert D. Kaplan là Trưởng nhóm phân tích địa chính trị của Stratfor, một Công ty phân tích thông tin toàn cầu tư. Ông là tác giả của mười lăm tựa sách về bang giao quốc tế và du lịch, như Cuộc báo thù của địa lý: những gì bản đồ nói với chúng ta về các xung đột sắp tới và trận chiến chống lại định mệnh; Cơn gió mùa: Ấn Độ Dương và tương lai của sức mạnh Hoa Kỳ, Những bóng ma Balkan: chuyến du hành qua lịch sử, và Chính trị chiến binh: tại sao quyền lãnh đạo đòi hỏi một tính cách Pagan. 

Ông đã từng làm phóng viên quốc tế cho The Atlantic gần ba thập kỷ. Vào năm 2011 và năm 2012 ông được nêu tên trên tập chí Foreign Policy như một trong số 100 nhà tư tưởng của thế giới.

Từ 2009 đến 2011 Kaplan tham gia vào Hội đồng Chính sách Quốc phòng của Lầu Năm góc, được chỉ định bởi Bộ trưởng Quốc phòng Robert Gates. Từ 2008 ông là nghiên cứu sinh cao cấp tại Trung tâm An ninh Tân Hoa Kỳ tại Washington. Từ 2006 đến 2008 ông là Giáo sư thỉnh giảng đặc biệt Thế hệ 1960 của Học viện Hàng hải Hoa Kỳ tại Annapolis.

Quyển sách Chảo dầu tại Châu Á – Biển Đông và sự kết thúc của một Thái Bình Dương ổn định (Asia’s Caudron – The South China Sea and the End of a Stable Pacific) của ông xuất bản đầu năm 2014.  Sách gồm 8 chương, trong đó tác giả dành riêng Chương III để đề cập đến Việt Nam, mối quan hệ lịch sử với Trung Quốc và những nhìn nhận của người Việt Nam về mối quan hệ đó, về mối đe dọa của một Trung Hoa đang tìm cách khuynh loát cán cân quyền lực trong khu vực và đặc biệt  về quan điểm bảo vệ chủ quyền Biển Đông, bảo vệ nền tự chủ quốc gia của Việt Nam.

Xin được giới thiệu phần dịch của chương nói về Việt Nam.

------------------------------------

Robert D. Kaplan


Ảnh hưởng của Hà Nội là đáng để suy nghĩ: những gì thủ đô của Việt Nam đạt được tại thời điểm, tự thân nó là tiến trình của lịch sử. Tôi không hàm ý là lịch sử đơn thuần đã là một định mệnh nào đó, đã được xác định trước do vị trí địa lý, hình thành nên các triều đại và các cuộc nổi dậy kế tiếp nhau, tuy nhiên lịch sử là tổng hòa của các hành động dũng cảm đơn lẻ và những toan tính không ngừng nghỉ. Những bản đồ, đồ họa và một số lớn bia đá tại Bảo tàng Lịch sử đã dành để kỷ niệm cho những cuộc kháng chiến gian nan của Việt Nam chống lại các triều đại Tống, Minh và Thanh của Trung Hoa vào các thế kỷ XI, XV và XVIII: cho dù Việt Nam đã từng bị sát nhập vào Trung Hoa cho đến thế kỷ X, đặc tính chia tách về mặt chính trị với đế chế Trung Hoa (Middle Kingdom) từ lâu đã là một điều kỳ diệu mà không lý luận nào trong quá khứ có thể biện giải đầy đủ.

Một số nhiều hơn các bia dựng từ hậu bán thế kỷ XV ở Văn miếu, đã sâu sắc ghi giữ lại tên tuổi và đóng góp của tám mươi hai học giả tiền nhân, vượt lên trên sự lãng quên. Trên thực tế, đó là một ấn tượng đặc biệt về hình dung lịch sử của Việt Nam. Sự thâm trầm và náo nhiệt của Đền Ngọc Sơn (xây dựng để ghi nhớ chiến thắng trước nhà Nguyên Trung Hoa vào thế kỷ XIII), với bức tượng Phật uy nghi sơn son thếp vàng mờ trong khói trầm, bao quanh bởi một hồ nước mờ sương và rậm lá, là sự dọn chỗ về mặt tâm linh cho một ngôi lăng Hồ Chí Minh chân phương hơn. Hồ, một trong những nhân vật nhược tiểu vĩ đại của thế kỷ XX, và là một trong những nhà thực dụng vĩ đại nhất lịch sử, đã hợp nhất chủ nghĩa Mác, tư tưởng Khổng giáo và tinh thần quốc gia vào chung thành một thứ vũ khí chống lại người Trung Quốc, người Pháp và người Mỹ; là nền tảng thành công trong các cuộc kháng chiến của Việt Nam chống lại ba đế quốc mang tầm vóc toàn cầu. Tượng mạ vàng như Phật của ông được đặt khắp các phòng hội nghị tại thủ đô này.  Lăng của ông ta nhô cao giữa những ngôi nhà và nhà thờ kiểu Âu châu đã xưa hàng thế kỷ, nơi từng là đầu não chính trị của Đông Dương thuộc Pháp, một xứ phụ thuộc không chắc chắn mà Paris đã cố sức và quyết liệt nắm lại sau Chiến tranh Thế giới thứ hai, dẫn đến cuộc chiến tranh chống lại người Việt mà đỉnh điểm của nó là một sự kiện quá bẽ bàng cho người Pháp: Trận Điện Biên Phủ năm 1954.

Đông Dương thuộc Pháp bao gồm cà Lào và Campuchia, nhưng với chỉ Hà Nội là đầu não chính trị và Sài Gòn là thủ phủ thương mại. Việt Nam đã thống trị Đông Dương, nói cách khác, điều đó đã dẫn đến chỗ các lực lượng Thái và Khơ me đôi khi có các mối liên kết ít ỏi với Trung Hoa để chống lại sức mạnh của Việt Nam. Trên thực tế, khi mà Hoa Kỳ bảo hộ cho một Nam Việt Nam độc lập chống lại Phía Bắc cộng sản, thì sự thống nhất của Việt Nam dưới chế độ cộng sản và thất bại của người Mỹ đã minh họa cho một mối đe dọa lớn hơn rất nhiều cho Trung Hoa hơn là cho Hoa Kỳ. Đó là một dấu ấn cho động lực Việt Nam trong khu vực.

Bên dưới những công trình kiến trúc kiểu Pháp là cuộc đấu tranh mới nhất mang tính sử thi chống lại định mệnh của lịch sử: những khu phố thương mại Hà Nội ồn ào náo nhiệt, với hàng đoàn xe máy - người lái ô tô ngồi nhắn tin điện thoại di động khi tắc đường – những mặt tiền mới đầy vẻ hiện đại chen lấn với những gian hàng cũ kỹ ngay kế bên. Đó là cái không gian mua bán tiền tư bản, với hàng cà phê khắp nơi – mỗi hàng là một kiểu cách và bài trí riêng biệt – cung cấp những món cà phê thuộc hàng ngon nhất thế giới, và vẫn chưa có Starbucks hiện diện ở đây. Hà Nội, với bề dày lịch sử của nó, lại không có những bảo tàng ngoài trời như những thành phố lớn tại Châu Âu. Nó vẫn còn trong một tiến trình vụng về để trở thành, và vẫn gần gũi với sự hỗn loạn rối rắm của Ấn Độ hơn là sự cằn cỗi khó gần của Singapore. Người Việt Nam đang dò dẫm tìm hướng đi vào thế giới hiện đại, vì lợi ích đầy hứa hẹn của bản thân họ và gia đình, nhưng cũng phải làm sao để bảo toàn sự độc lập của mình trước một Trung Hoa cũng có động lực ngang bằng.

Hà Nội, như từ thời cổ xưa, là một thành phố đầu não của những tính toán chính trị: sự nổi lên thời gian gần đây của thành phần trung lưu đầy tiềm năng – nước đông dân thứ mười ba thế giới – với một bờ biển dài ngay tại ngã tư đường của nhiều tuyến hàng hài quan trọng và gần với những nguồn năng lượng dự trữ ngoài khơi. Việt Nam là “vai diễn chính” của Đông Nam Á trong cuộc tranh chấp tại Biển Đông, đã tuyên bố chủ quyền của mình đối với cả hai quần đảo Hoàng Sa và Trường Sa, “trên cơ sở cứ liệu lịch sử có ít nhất là từ thế kỷ XVII”, theo các nhà nghiên cứu Clive Scholfield và Ian Storey.  “Nếu Trung Quốc cản trở được Việt Nam, họ sẽ chiếm được Biển Đông,” một quan chức cấp cao chính phủ Hoa Kỳ nói với tôi như vậy. “Malaysia đã buông tay, Brunei đã giải quyết những vấn đề của họ với Trung Quốc, Indonesia không xác định rõ ràng lập trường của mình trong vấn đề này, Philippines không có nhiều lá bài để đi ngoại trừ những phản ứng quyết liệt và tuyên bố kích động, Singapore có khả năng nhưng quy mô lại nhỏ bé”. 

Tất cả đổ dồn lên Việt Nam, nói một cách khác.

Bước đi của Việt Nam tại thời khắc này đang là những bước đi chậm. Ngô Quang Xuân, Phó Chủ nhiệm Ủy ban Đối ngoại Quốc hội, đã nói với tôi trong một cuộc trao đổi kéo dài nhiều tuần lễ, rằng, năm tháng mang tính then chốt đối với nước Việt Nam mới không phải là năm 1975, khi Nam Việt Nam bị Miền Bắc cộng sản thôn tính; mà là năm 1995; khi quan hệ được bình thường hóa với Hoa Kỳ và cũng là khi Việt Nam gia nhập ASEAN, và bước vào một thỏa ước “khung” với Liên minh Châu Âu. “Chúng tôi hội nhập với thế giới, nói một cách khác.” Ông thừa nhận rằng trước khi đi đến những quyết định đó, “chúng tôi đã có những cuộc tranh luận quyết liệt trong nội bộ.” Sự thật là, cho dù liên tiếp chiến thắng trước người Pháp và người Mỹ, những người cộng sản Việt Nam, như những viên chức của họ giải thích với tôi trong một loạt những cuộc trao đổi kéo dài nhiều tuần, thì sau đó họ vẫn tiếp tục cảm thấy thua kém.

Hãy ghi nhận: Việt Nam đã tiến chiếm Cambodia vào năm 1978, giải phóng đất nước này thoát khỏi cơn điên diệt chủng dưới chế độ Khơ-me Đỏ của Pol Pot. Cho dù cuộc tiến chiếm là một hành động mang tính hiện thực chủ nghĩa thật lạnh lùng - do Khơ-me Đỏ thân Trung Quốc đã đại diện cho sự de dọa mang tính chiến lược đối với Việt Nam – thì những hệ quả của nó lại mang tính nhân bản tích cực rộng lớn và sâu sắc. Tuy nhiên, chính vì hành động mấu chốt mang tính nhân từ đó mà Việt Nam thân Liên Xô đã bị cấm vận bởi một liên minh thân Trung Quốc bao gồm cả Hoa Kỳ, mà kể từ chuyến đi của Tổng thống Nixon năm 1972 đến Trung Quốc, đã ngả về hướng Bắc Kinh. Năm 1979, Trung Quốc chính họ cũng đã xâm lấn Việt Nam, nhằm giữ chân không cho Việt Nam tiến quân vượt qua Cambodia vào Thái Lan. Trong khi đó, Liên bang Xô viết đã không bước đến trợ giúp cho đất nước nằm trong tầm ảnh hưởng của mình ở Hà Nội. Việt Nam đã trơ trọi về mặt ngoại giao, sa vào một vũng lầy tiêu hao sinh lực tại Cambodia, oằn lưng bởi sự đói nghèo cùng cực, chủ yếu do chính sách quân sự hóa. Thăm Hà Nội vào những năm 1970, Thủ tướng Singapore khi đó là Lý Quang Diệu đã viết, ông phát hiện ra rằng các nhà lãnh đạo Việt Nam là “không thể chịu đựng được”, hãnh diện tự cho họ như là “những người Phổ” ở vùng Đông Nam châu Á. Nhưng sự tự cao, như những nhà lãnh đạo Việt Nam nói với tôi, đã kéo dài không lâu. Qua những lần thiếu thực phẩm nghiêm trọng và sự sụp đổ của Đế chế Xô viết những năm 1989-1991, Việt Nam cuối cùng đã rút quân khỏi Cambodia. Việt Nam đã trở nên không còn bạn bè – chiến thắng người Mỹ đã thành một ký vãng xa xôi. “Cảm giác chiến thắng trong cuộc chiến đó luôn bị lắng xuống vì đã không bao giờ có được sự yên bình,” một nhà ngoại giao Việt Nam giải thích.

“Người Việt Nam không quên về cuộc chiến với Hoa Kỳ những năm 1960-1970,” một nhà ngoại giao Phương Tây nói với tôi. “Huống hồ là, một vài thế hệ người Mỹ vẫn còn nằm trong vũng lầy của thời gian.” Người Việt Nam không quên rằng hai mươi phần trăm đất nước họ không thể ở được hoặc do bom mìn Mỹ còn chưa được rà phá hết; hoặc vì tác động của chất độc màu da cam, không thứ gì có thể sinh sôi được trên phần đất đai đáng kể đó. Có đến ba phần tư người Việt Nam ra đời sau “Kháng chiến chống Mỹ”, như họ gọi – để phân biệt với những cuộc đấu tranh mà họ tiến hành trước và sau đó. Và thậm chí một tỷ lệ người còn nhiều hơn không có bất cứ ký ức gì về cuộc chiến đó.

Các sinh viên và viên chức trẻ tuổi tôi gặp tại Học viện Ngoại giao, một nhánh trực thuộc của Bộ Ngoại giao, còn thoát ra được khỏi cuộc Kháng chiến chống Mỹ hơn là những đứa trẻ của giai đoạn bùng nổ sinh đẻ sau Chiến tranh Thế giới thứ hai. Tại một hội trường địa phương – nơi thường diễn ra những cuộc gặp gỡ mà họ dành cho tôi, trên thực tế, họ đã phê phán Hoa Kỳ nhung không có gì liên quan đến chiến tranh. Họ đã bực bội trước việc Hoa Kỳ không hề can thiệp với Trung Quốc vào năm 1990 khi Bắc Kinh đe dọa chủ quyền của Philippines đối với Đá Vành Khăn thuộc Quần đảo Trường Sa tại Biển Đông; và với việc Hoa Kỳ không gắn kết về mặt kinh tế và ngoại giao với Myanmar nhiều hơn trước năm 2011, để có thể ngăn chặn đất nước này trở thành vệ tinh của Bắc Kinh. Một sinh viên tổng kết: “Sức mạnh của Hoa Kỳ là cần thiết cho nền an ninh của thế giới.” Thật vậy, các sinh viên và viên chức kế tiếp nhau sử dụng thuật ngữ “cân bằng sức mạnh [với Trung Quốc]” để miêu tả Hoa Kỳ. “Người Trung Hoa quá mạnh, quá tham vọng,” một nhà nghiên cứu nữ nói, “đó là lý do tại sao Thời Đại Trung Hoa là mối đe dọa to lớn đối với chúng ta.”

Cả Việt Nam và Hoa Kỳ “chia sẻ lợi ích trong việc ngăn ngừa Trung Quốc… có thể thống trị xương sống thương mại hàng hải và gia tăng những đòi hỏi lãnh thổ thông qua con đường cưỡng chiếm,” Giáo sư Carlyle A. Thayer của Học viện Quốc phòng Australia tại Canberra đã nói như vậy. “Việt Nam xem sự hiện diện của Hoa Kỳ như là một rào cản ngăn chặn việc gia tăng sức mạnh quân sự của Trung Quốc.”

David Lamb, người đã từng theo dõi cuộc chiến những năm 1960 cũng như đã trở lại đây vào những năm 1990 với tư cách phóng viên của Thời báo Los Angeles tại Hà Nội, nói rằng, đơn giản là “Người Việt Nam thích người Mỹ… Họ đã mất ba triệu người [một trong số mười người bị chết hoặc bị thương], đã bị dội lên người 15 triệu tấn đạn dược – gấp hai lần số dội xuống cả Châu Âu và Châu Á trong Chiến tranh Thế giới thứ hai, và đã phải sống qua một cuộc chiến tranh khiến cho 7 triệu người Nam Việt Nam phải di tản và tàn phá toàn bộ công nghiệp và hạ tầng của Miền Bắc Việt Nam. Vâng,” ông viết tiếp, “họ đã bỏ lại cuộc chiến sau lưng họ theo cái cách mà nhiều người Mỹ đã không thể làm. Bệnh viện của họ đầy những cựu chiến binh với những cơn ác mộng hậu chiến, nhưng họ không có được một tượng đài kỷ niệm quốc gia như kiểu Bức tường Việt Nam tại Washington. Họ không viết sách về chiến tranh. Cựu chiến binh không ngồi quanh vại bia để nói về điều dó. Học sinh học về điều đó chỉ như là vài trang ngắn gọn trong suốt quá trình lịch sử 2500 năm của đất nước họ.

Trên thực tế, do cái cung cách nhạo báng và làm trầm trọng hóa vấn đề mà một vài người Âu châu và các thành viên phe hữu của Hoa Kỳ thể hiện khi đánh giá hàng năm, nước Mỹ đã hoàn toàn vắng bóng tại Việt Nam.  Tóm lược quan điểm chung ở đây, Nguyễn Đức Hùng, cựu Đại sứ tại Canada, đã nói với tôi: “cũng như Việt Nam đã mở rộng về phương nam hàng thế kỷ để xác định mình như là một quốc gia, người Mỹ cũng tiến về hướng tây – và điều đó không phải vì vàng ở California, mà vì sự tự do.”

Được đăng bởi Sơn Xuyên vào lúc 21:50


-------------------------------------

Robert D. Kaplan

Người dịch: Trà Điêu  (blog Xuyên Sơn)
Chủ Nhật, ngày 13 tháng 4 năm 2014

Tuy nhiên, trong khi mà Hoa Kỳ chỉ là một cấu thành bên lề của quá khứ Việt Nam, Trung Hoa lại là một thành tố cốt tử. Thuật ngữ đặc biệt Đông Dương [Indochina- người dịch lặp lại nguyên văn cho phù hợp logic phân tích của tác giả] đã phản ánh chính xác phạm vi mà ảnh hưởng của Ấn Độ đã hiện hữu suốt phần còn lại của Đông Nam Á, trong khi mà ảnh hưởng của Trung Hoa tập trung chủ yếu vào phần lớn của phía bắc Việt Nam. Có thể nói là sự “hỗn loạn kéo dài” của thời kỳ cuối Nhà Đường và thời kỳ chuyển tiếp mang tính bán hỗn độn tiếp theo sau của giai đoạn Ngũ Đại Thập Quốc vào thế kỷ X tại Trung Hoa đã tạo thời cơ cho nền độc lập của Việt Nam thành hình. “Lịch sử chính thống Việt Nam đã nhấn mạnh rất nhiều đến các cuộc phản kháng, chủ yếu là chống lại Trung Hoa.” Robert Templer đã viết như thế trong một quyển sách khảo cứu của ông về Việt Nam hiện đại: Bóng tối và cơn gió: một cái nhìn về nước Việt Nam mới. “Nỗi lo sợ bị đô hộ là bất biến và vượt qua mọi khác biệt về hệ tư tưởng, nó đã tạo ra cảm giác mỏng manh của sự lo âu và tinh thần phản kháng vì một cội gốc Việt.” Nỗi lo sợ của Việt Nam là một tất yếu sâu sắc vì Viêt Nam không thể chạy trốn thoát khỏi sự vây tỏa của người láng giềng khổng lồ phương bắc, có dân số đông gấp mười lăm lần Việt Nam. Người Việt Nam hiểu rằng vị trí địa lý đã chỉ định cho cách thức quan hệ với Trung Hoa: họ có thể chiến thắng trên chiến trường, nhưng sau đó vẫn phải cử người đến Bắc Kinh thể hiện sự thần phục. Đó là tình huống lạ lùng đối với một quốc gia trên thực tế là một hòn đảo như nước Mỹ.

Một nhà ngoại giao Việt Nam khác gỉải thích: “Trung Hoa xâm lấn Việt Nam mười bảy lần. Nước Mỹ xâm lấn Mexico chỉ có một lần, và hãy nhìn xem người Mexico nhạy cảm ra sao về điều đó. Chúng tôi lớn lên giữa những trang sách giáo khoa đầy ắp hình ảnh các anh hùng dân tộc chống lại ách đô hộ của Trung Hoa.” Hoặc như một chuyên gia Phương Tây về Việt Nam nhận xét: “hãy nghĩ xem người Canada ác cảm với Mỹ như thế nào, và rồi hãy tưởng tượng giả thử Hoa Kỳ đem quân vào Canada.”

Sự thù địch mang tính lịch sử của người Việt Nam đối với Trung Quốc, phần nào là do con người tạo ra, thời gian gần đây người Việt Nam thường nhấn mạnh đến những cuộc nổi dậy chống lại sự đô hộ của Trung Hoa trong thời kỳ cổ đại và cận đại, trong khi hạ thấp đi vai trò của nhiều thế kỷ “mô phỏng sát sao” Trung Hoa và những mối quan hệ tốt đẹp với nó, để phục vụ yêu cầu về một nguồn gốc quốc gia vững chắc. Tuy nhiên, ít có sự phủ nhận đối với việc Việt Nam hướng sự quan ngại của họ đến nước láng giềng phía bắc.

Nguồn gốc của Việt Nam thật là đặc thù vì nó đã hình thành “trên cơ sở và đối lập với” ảnh hưởng của Trung Hoa, theo như một bản tin của BBC. Việt Nam đã bắt đầu như là một tiền đồn phương nam của nền văn hóa Hoa hóa. Nó đã bị sát nhập bằng vũ lực vào Đế chế Hán của Trung Hoa vào năm 111 trước CN.  Từ đó về sau nó đã bị chiếm đóng bởi Trung Hoa hoặc bị buộc phải giữ vai phụ thuộc trong suốt gần một thiên niên kỷ, cho đến khi, như tôi đã đề cập, cuối cùng đã tự mình thoát ra khỏi ách đô hộ đó vào buổi hoàng hôn của Nhà Đường năm 939 sau CN. Từ đó trở về sau, các triều đại Việt Nam như Lý, Trần và Lê đã xác định vị thế to lớn của mình qua các cuộc kháng chiến loại bỏ sự kiểm soát của Trung Hoa ở phía bắc, đẩy lùi được những làn sóng xâm lăng của một đội quân to lớn hơn nhiều, như Neil L. Jamieson – cựu học giả của George Mason University đã viết trong Hiểu về Việt Nam. Không phải khi nào Việt Nam cũng thành công: đã có một thời kỳ Nhà Minh chiếm đóng từ 1407 đến 1427, điều đó minh chứng cho việc người Trung Hoa từ cuối thời kỳ Trung đại đã chưa bao giờ từ bỏ ý định xâm phạm nền độc lập của Việt Nam. Sự giải thích cho việc Nhà Thanh chấp nhận cho một Việt Nam độc lập vào thế kỷ XIX là ở chỗ do nước Pháp-“kẻ vẽ bản đồ” cứ khăng khăng vẽ phần lãnh thổ Đông Dương của mình vào phần này của Trung Hoa.

“Sự đóng góp mang tính Hoa hóa bao hàm tất cà mọi mặt của văn hóa, xã hội, và chính quyền, tử đôi đũa người nông dân cầm trên tay cho đến chiếc bút người học giả và viên chức sử dụng,” nhà nghiên cứu Keith Weller Taylor đến từ Cornell University đã viết như thế trong Sự ra đời của Việt Nam. Họ của người Việt Nam cũng như văn phạm và ngữ pháp, phong cách nghệ thuật và văn chương, đã phản chiếu sự ảnh hưởng sâu sắc của Trung Hoa. Thậm chí, văn học Việt Nam đã “thụ thai” với di sản Khổng giáo của Trung Hoa. Tiếng Hoa đã từng được sử dụng như ngôn ngữ của giới học giả như là chữ La tinh đã từng được sử dụng ở Châu Âu: và, cho dù gắn chặt với tiếng Hoa, tiếng Việt lại có ngồn gốc Môn – Khơ me và Thái. Trong suốt quá trình đó, văn hóa bình dânViệt Nam vẫn giữ được nét riêng biệt bên cạnh sự bành trướng của văn hóa xây nên bởi giới ưu tú của Việt Nam. Trong giới ưu tú, theo như lời chuyên gia Đông Nam Á Victor Lieberman của Michgan University, các quy tắc hành chính Trung Hoa đã được “tiếp thu tới mức nguồn gốc ngoại lai của nó là không thể chấp nhận.” Điều thúc đẩy cho mong muốn to lớn của Việt Nam tách khỏi Trung Hoa chính là sự tiếp xúc của họ với người Chăm và người Khơ me ở phương nam, những người mà bản thân họ chịu sự ảnh hưởng của các nền văn minh phi Hoa, đặc biệt là của Ấn Độ. Chính vì sự tương đồng quá to lớn với người Trung Hoa, người Việt Nam – như tôi đã đề cập - đã rất tự hào về những dị biệt nhỏ, và điều đó thậm chí đã có từ trong quá khứ và mãi tiếp thêm sức sống cho họ.

Chiến thắng quân sự ở phía bắc trước Trung Hoa, như chiến thắng của Hoàng đế Lê Lợi gần Hà Nội năm 1426, và ở phía nam chống lại người Chăm và người Khơ me vào những năm 1471 và 1778, tất cả những cái đó đã tạo nên một nguồn gốc quốc gia thật riêng biệt, được tô đậm thêm trong bối cảnh mà cho đến thời kỳ hiện đại, Trung Hoa hiếm khi để yên cho Việt Nam. Vào năm 1946, người Trung Hoa thông đồng với người Pháp để tiến quân chiếm đóng bắc Việt Nam để rồi sau đó được thay thế bởi quân Pháp. Năm 1979, như chúng ta đã biết, bốn năm sau khi Hoa Kỳ từ bỏ Việt Nam, 100 000 quân Trung Quốc đã tiến công xâm lược. Lãnh đạo Trung Quốc Đặng Tiểu Bình “chưa bao giờ đánh mất sự căm thù tận xương tủy đối với người Việt Nam,” Robert Templer viết, và do đó đã âm mưu một chính sách “hút sạch máu Hà Nội”, qua việc đẩy Việt Nam vướng vào một cuộc chiến tranh du kích tại Cambodia. Hiện nay, những sự việc đang xảy ra như những xung đột tuyên bố chủ quyền của Trung Quốc và Việt Nam tại Biển Đông, việc tàu chiến Trung Quốc xâm phạm Vịnh Bắc Bộ, nỗi thèm khát của Trung Quốc đối với một bờ biển dài 1,900 dặm của Việt Nam mở rộng ra các tuyến giao thương nối liền Ấn Độ Dương và Tây Thái Bình Dương, tất cả những cái đó trở thành lịch sử đang vận hành; trong khi cuộc chiến của Việt Nam với Mỹ thì đơn giản là không phải, ngoại trừ một điểm. Do Việt Nam đã từng chiến thắng nước Mỹ trong chiến tranh cho nên họ xem mình là bên chiếm ưu thế trong mối quan hệ song phương:  họ không có gì phải khổ tâm, đề phòng hay mất mặt trong một mối liên minh quân sụ trên thực tế trong tương lại với người Mỹ. Từ sâu thẳm, ngưởi Việt ít nhạy cảm với cuộc chiến với nước Mỹ vì họ đã là người chiến thắng.

Cuộc Kháng chiến chống Mỹ, như là cuộc xâm lược của Trung Quốc tiếp sau đó, và cuộc tiến chiếm của chính Việt Nam đối với Cambodia đã đưa cuộc xâm lược của Trung Quốc lên vị trí hàng đầu, tất cả là một phần của một quá trình lịch sử từ rất lâu đã là tương tự như thế. Đó là lịch sử của những cuộc chiến tranh trên bộ, phần nào dựa trên quá trình giải thực dân Phương Tây hóa. Ngày nay khi vấn đề biên giới trên đất liền đã được giải quyết, cuộc tranh đấu quốc gia chủ nghĩa tại nhiều nước Châu Á đã mở rộng ra biển; đặc biệt là tại Biển Đông. Thực tế là, Việt Nam có một truyền thuyết lập quốc qua đó đất nước được thành lập từ sự hợp nhất của Chúa Rồng Lạc Long Quân và nàng tiên Âu Cơ. Cùng nhau họ sinh ra 100 người con trai, năm mươi theo mẹ lên núi và năm mươi còn lại theo cha xuống biển. Di sản của người cha ngày nay dường như gắn chặt với số phận của Việt Nam, sau hàng mấy mươi năm bị chi phối bởi phần từ người mẹ.

“Biên giới trên bộ giờ đây không còn quan trọng đối với chúng tôi so với vấn đề Biển Đông,” Nguyễn Duy Chiến, Phó Chủ nhiệm Ủy ban biên giới Chính phủ, phát biểu. Chiến thể hiện trước tôi một phong cách làm nhớ lại ấn tượng của Lý Quang Diệu về các nhà lãnh đạo Việt Nam những năm 1970 quá sức nghiêm trọng và đặc sệt Nho phong. Chúng tôi gặp nhau trong một văn phòng đơn sơ và giản dị. Chiến vận một bộ đồ đơn giản. Cuộc gặp gỡ bắt đầu và kết thúc đúng thời gian hạn định và ông ta đã dùng suốt thời gian để trình bày một bản PowerPoint thật chi tiết, liên tục phản bác  mọi luận điểm của Trung Quốc trên mọi khía cạnh có thể.

Chiến bắt đầu với một giới thiệu tổng quát về tình hình biên giới: hai trăm điểm tranh chấp với Trung Quốc đã được giải quyết qua tám năm thương lượng vào những năm 1990, với công tác phân chia hoàn tất vào năm 2008. “So với 314 cột mốc biên giới có với Nhà Thanh Trung Hoa [khi bước vào thế kỷ XX], thì nay đã có tới 1,971 cột. Vấn đề không phải ở trên đất liền, mà là ở ngoài khơi.” Một phần ba dân số Việt Nam sống dọc theo bờ biển, ông ta nói với tôi, và lĩnh vực liên quan đến biển chiếm 50% GDP của Việt Nam. Việt Nam yêu cầu chủ quyền đối với một thềm lục địa hai trăm dặm tại Biển “Nam Trung Hoa” [ngoặc kép của người dịch] mà họ gọi là Biển Đông và bác bỏ chữ  “Trung Hoa” trong tên gọi đó. Điều dó cũng phù hợp với vùng đặc quyền kinh tế  theo định nghĩa của Công ước Liên hiệp quốc về Luật biển. Nhưng Chiến cũng nhấn mạnh, thềm lục địa này có “phần chồng lấn” với vùng biển tuyên bố của Trung Quốc và của Malaysia, cũng như với phần của Cambodia và Thái Lan kế bên Vịnh Thái Lan. Địa hình của Vịnh Bắc Bộ đã tạo ra một vấn đề nan giải, với bờ biển phía bắc Việt Nam bị án ngữ bởi đảo Hải Nam của Trung Quốc, Chiến giải thích rằng Việt Nam và Trung Quốc đã giải quyết vấn đề bằng việc phân chia vùng vịnh giàu tiềm năng này làm đôi, trong khi vấn đề phần cửa vịnh vẫn còn để ngỏ cần phân chia tiếp.

“Nhưng chúng tôi không thể chấp nhận đường lưỡi bò – đường vẽ thô bạo của Trung Quốc tại Biển Đông. Trung Quốc nói rằng vùng biển này đang tranh chấp. Chúng tôi nói không. Đường lưỡi bò xâm phạm chủ quyền của năm quốc gia.”

Chiến giới thiệu với tôi hàng loạt bản đồ trên máy tính của ông, và nhắc lại một quá trình lịch sử dài. “Khi các vua Nhà Minh chiếm đóng Việt Nam trong một khoảng thời gian vào thế kỷ XV, họ đâu có cai quản Hoàng Sa và Trường Sa. Nếu các quần đảo này thuộc về họ, sao các vua Nhà Minh không vẽ vào bản đồ của họ?” ông dẫn tiếp “ vào đầu thế kỷ XX tại sao bản đồ của các hoàng đế Nhà Thanh sao chẳng hề xuất hiện Hoàng Sa và Trưởng Sa nếu chúng thuộc về Trung Hoa?” Vào năm 1933, Pháp gửi quân đến Hoàng Sa và Trường Sa, ông ta nói với tôi, bởi vì đó là một phần của Đông Dương thuộc Pháp, ngày nay thuộc về Việt Nam. Ông ta thêm rằng vào năm 1956 và sau đó năm 1988, Trung Quốc đã dùng “sức mạnh quân sự” để chiếm lấy các bãi đá ở Hoàng Sa. Cuối cùng, ông ta giới thiệu một trang về nhà thờ Santa Maria del Monte tại Italy, nơi lưu trữ một tài liệu địa lý viết tay từ 1850, với một trang rưỡi trình bày rõ rằng Trường Sa thuộc về Việt Nam như thế nào. Sự quả đoán của ông với những chi tiết trình bày đó có một mục đích, như tại những bản đồ được trình bày tiếp theo trong bản PowerPoint, thể hiện phần lớn của Biển Đông, bao gồm cả Hoàng Sa và Trường Sa, được chia thành những ô vuông tí hon thể hiện những khu mà Việt Nam có thể nhượng quyền khai thác dầu mỏ cho các tập đoàn quốc tế trong tương lai.

Một viên chức ngoại giao nói: “ Khi đến với Biển Đông, thái độ ban đầu của Trung QUốc là rất lúng túng, người của chúng tôi còn nhớ rõ về điều đó.” Phó Đô đốc hải quân Nguyễn Viết Nhiên, Phó tư lệnh Hải quân Nhân dân Việt Nam, gọi đường lưỡi bò là “vô căn cứ.” Gặp gỡ tại Bộ tư lệnh Hải quân tại Hải Phòng – nơi từng bị Hoa Kỳ ném bom dữ đội từ 1965 đến 1972 – Phó Đô đốc Nhiên cho tôi thấy một sự khẳng định cương quyết nữa của Việt Nam. Phía sau ông là một bức tượng bán thân to của Hồ Chí Minh và một tấm bản đồ lớn thể hiện mọi vùng tuyên bố cạnh tranh tại “Biển Đông” như ông thường xuyên nhắc đến. Với bốn mươi lăm phút trình bày, ông chỉ rõ từng hành vi quân sự của Trung Quốc tại Hoàng Sa và Trường Sa: đặc biệt là việc xâm chiếm phần phía tây của quần đảo Hoàng Sa vào năm 1974 từ tay của chính thể Sài Gòn đang suy yếu. Đường lưỡi bò, ông cho rằng, là một “giấc mơ lịch sử” của Bắc Kinh hơn là một yêu cầu chủ quyền mang tính pháp lý, mà, cái việc đưa vào để tranh luận giữa các nhà lãnh đạo Bắc Kinh với nhau về điều đó, cuối cùng có thể sẽ khép lại toàn bộ hay một phần đề tài này trong các cuộc thương lượng trong tương lai. Thêm vào đó, việc Trung Quốc xây dựng một hạm đội mạnh và dẫn dắt kinh tế Đông Á theo cái cách mà họ đang làm, có thể dẫn tới việc Trung Quốc thống trị Biển Đông như Hoa Kỳ đã từng thống trị vùng biển Caribe vào thế kỷ XIX. Thiếu tướng Lê Kim Dũng giải thích rằng sự bành trướng của nền kinh tế Trung Quốc – dù chậm – sẽ dẫn đến sự hiện diện rõ rệt của hạm đội của họ tại Biển Đông, đi đôi với niềm khao khát khai thác nguồn năng lượng tại đây. Bày tỏ quan điểm đối mặt với sự bành trướng đó, Việt Nam dựa vào một tinh thần dân tộc đang dâng cao - với cường độ mãnh liệt – đã từng thể hiện trong các cuộc chiến tranh trên đất liền các thập kỷ trước đây.

Người Việt Nam rất thường nói với tôi rằng Biển Đông không đơn thuần là một sự tranh chấp lãnh thổ: đó là ngã tư đường của thương mại hàng hải, là yếu tố sống còn về nhu cầu năng lượng của Hàn Quốc và Nhật Bản, và chính là nơi mà một ngày nào đó Trung Quốc có thể nắn gân sức mạnh của Hoa Kỳ tại Châu Á. Việt Nam tán thành ý nghĩa lịch sử và văn hóa của cái cách mà các nhà làm chính sách quản lý của Obama đã đặt tên cho thuật ngữ “Indo-Pacific”: Ấn Độ cộng với Đông Á.

Không gì minh họa rõ nét hơn cho mong muốn của Việt Nam trở thành vai chính trong khu vực bằng hành động qua đó họ đã mua sáu tàu ngầm hiện đại lớp Kilo từ Nga. Một chuyên gia quốc phòng Phương Tây nói với tôi rằng việc mua chúng chưa mang ý nghĩa gì cả. “Người Việt Nam sẽ thực sự sốc khi họ biết được rằng việc bảo dưỡng những chiếc tàu đó sẽ tốn kém thế nào.” Quan trọng hơn, Việt Nam sẽ phải đào tạo đội ngũ thủy thủ biết sử dụng chúng, một việc sẽ mất cả một thế hệ để làm được. “Thay vì ngồi đếm số tàu ngầm của Trung Quốc, họ nên tập trung vào các khí tài chống tàu ngầm và phòng vệ bờ biển là tốt hơn.” Rõ ràng, việc Việt Nam mua tàu ngầm là để nâng cao thanh thế, để chỉ rõ rằng chúng tôi nghiêm túc.  Theo chuyên gia quốc phòng này, người Việt Nam “ đề cao cảnh giác” từ việc Trung Quốc tiến hành xây dựng căn cứ tàu ngầm nguyên tử dưới đất tại đảo Hải Nam trong Vịnh Bắc Bộ.

Giao dịch nhiều tỷ đô là mua tàu ngầm của Nga bao gồm cà 200 triệu đô la cho việc cải tạo Vịnh Cam Ranh, một trong những nơi bỏ neo sâu nhất Đông Nam Á, trấn tọa những con đường hàng hải tại Biển Đông, và là căn cứ quan yếu của quân đội Hoa Kỳ trong chiến tranh Việt Nam. Người Việt Nam nói rằng họ có ý định sử dụng Vịnh Cam Ranh cho các tàu nước ngoài. Ian Storey, Nghiên cứu sinh Học viện Nghiên cứu Đông Nam Á tại Singapore, nói rằng một người Việt Nam không nêu tên đã phát biểu rằng việc đại tu Vịnh Cam Ranh sẽ “đẩy mạnh quan hệ quốc phòng với Hoa Kỳ và tạo thuận lợi cho sự hiện diện của quân đội Hoa Kỳ tại Đông Nam Á như là một đối trọng cho sức mạnh đang lên của Trung Quốc.” Vịnh Cam Ranh là một địa điểm hoàn hảo cho chiến lược “vị trí không đóng căn cứ” của Lầu Năm Góc, là căn cứ quân sự của nước ngoài mà tàu chiến và máy bay Mỹ có thể viếng thăm để sửa chữa và tiếp nhiên liệu mà không cần phải có những thỏa ước khung nhạy cảm về chính trị và nghi thức. Các tàu chiến Hoa Kỳ - hàng không mẫu hạm, khu trục hạm, tàu tiếp liệu, tàu cứu thương đã thường xuyên định kỳ ghé thăm các cảng của Việt Nam. Ngô Quang Xuân, Thứ trưởng Bộ Ngoại giao, bồi thêm: “Sự hiện diện của Hoa Kỳ là cần thiết cho một bối cảnh hàng hải tự do tại Biển Đông.”

Một mối quan hệ chiến lược trên thực tế giữa Việt Nam và Hoa Kỳ đã được thể hiện  ít nhất là từ tháng bảy 2010 tại Diễn đàn Khu vực ASEAN tại Hà Nội, khi Ngoại trưởng Hoa Kỳ Hillary Clinton tuyên bố rằng Hoa Kỳ có một mối “lợi ích quốc gia” tại Biển Đông, rằng Hoa Kỳ sẵn sàng tham gia vào nỗ lực đa phương để giải quyết tranh chấp lãnh thổ tại Biển Đông, và rằng tuyên bố lãnh hải phải trên cơ sở yếu tố đất liền: nghĩa là, trên cơ sở trải rộng của thềm lục địa, một nguyên tắc đã bị vi phạm bởi đường  kẻ vạch hay còn gọi là đường lưỡi bò của Trung Quốc. Bộ trưởng Ngoại giao Trung Quốc Yang Jiechi gọi ý kiến của Clinton  là “một sự chống đối lại Trung Quốc thật sự.” Các viên chức Hoa Kỳ cơ bản là coi thường phát biểu của Yang. Có lẽ không điều gì có thể minh chứng rõ việc Washington xích lại gần Việt Nam hơn là việc hai bên ký kết thỏa thuận năng lượng hạt nhân phục vụ dân sinh ba tháng trước mà theo đó về mặt lý thuyết Hoa Kỳ đồng ý hỗ trợ Việt Nam xây dựng một cơ sở năng lượng hạt nhân.

Thực tế là, không có quốc gia nào bị đe dọa bởi sự lớn mạnh của Trung Quốc bằng Việt Nam. Hãy nhìn việc Việt Nam tiếp cận ASEAN. Dĩ nhiên là Việt Nam muốn ASEAN mạnh hơn, để làm đố trọng với Trung Quốc, họ đã thực tế, họ nói với tôi như vậy. Họ biết rằng sự trỗi dậy mạnh mẽ của tinh thần quốc gia chủ nghĩa ở Châu Á – đối lập với tư tưởng hậu quốc gia chủ nghĩa nhiều thập kỷ tại Châu Âu – đã ngăn cản sự hội nhập giữa các nước thành viên ASEAN. “ASEAN thậm chí không phải là một thể thống nhất thuế quan – điều đã làm cho nó trở thành một khối trao đổi thương mại ở mức thấp,” một viên chức nói. Giữa những tấm màn nhung đỏ của bộ ngoại giao, bên bộ ấm trà tráng lệ và trong khung cảnh kiến trúc kiểu Pháp –Á, tôi đã được nghe tham vấn về những chiến lược cơ bản của Trung Quốc, mà theo người Việt Nam, là nhằm trì hoãn mọi cuộc đối thoại đa phương với các nước Đông Nam Á liên quan đến các tranh chấp về Biển Đông trong khi mà Bắc Kinh khẩn trương lớn mạnh hóa quân đội của họ, và, một cách cố tình, lôi kéo sự nhượng bộ của từng quốc gia Đông Nam Á riêng biệt khỏi cuộc bàn luận đa phương  - chia cắt để chế ngự, nói một cách khác. Hạm đội  củaTrung Quốc, các viên chức quốc phòng Việt Nam nói với tôi, đã thực sự to lớn hơn của tất cả các nước ASEAN gộp lại.

Nhưng Việt Nam không có lý do gì để xa lánh Trung Quốc hay nằm vào vòng tay của Hoa Kỳ. Việt Nam đã quá phụ thuộc vào (và quan hệ mật thiết với) Trung Quốc. Như chuyên gia người Australia Carlyle Thayer phân tích, mối quan hệ quân sự Việt Nam – Trung Quốc đã phát triển song song với mối quan hệ Việt Nam – Hoa Kỳ. Trong khi Hoa Kỳ là thị trường xuất khẩu lớn nhất của Việt Nam, Việt Nam nhập khẩu hàng hóa từ Trung Quốc nhiều hơn từ bất cứ quốc gia nào khác – vải vóc, máy móc, phân bón, thuốc trừ sâu, hàng điện tử, da giày, một loạt sản phẩm tiêu thụ, ta có thể liệt kê. Nền kinh tế nơi đây đơn giản là không thể vận hành mà thiếu đi Trung Quốc, ngay cả khi Trung Quốc qua việc tràn ngập thị trường Việt Nam với hàng hóa giá rẻ, đã hạn chế sự phát triển của khu vực sản xuất nội địa. Hơn thế, các viên chức Việt Nam bị ấn tượng bởi hoàn cảnh bất cân xứng về địa lý của họ, như họ nói, nước xa không cứu được lửa gần. Trung Quốc thì ngay kế cận còn Hoa Kỳ thì cách nửa vòng trái đất, điều đó có ý nghĩa như là việc người Việt Nam phải nhẫn nhục chấp nhận việc tàn phá môi trường do Trung Quốc khai thác quặng bauxit tại vùng Tây Nguyên màu mỡ, một dự án như nhiều dự án khác khắp đất nước sử dụng lao động người Trung Quốc hơn là sử dụng lao động người Việt Nam. “Chúng tôi không thể chuyển [đất nước mình-người dịch] đi nơi khác, về mặt thống kê chúng tôi chỉ to bằng một tỉnh của họ.” Nguyễn Tâm Chiến, một cựu Thứ trưởng Ngoại giao nói với tôi.

Với việc Liên bang Xô viết đã không ra tay hỗ trợ Việt Nam năm 1979, người Việt Nam sẽ không bao giờ lại đặt niềm tin vào một thế lực xa xôi. Do địa lý, người Việt Nam ở một mức độ nền tảng cơ sở nào đó không thể tin vào Hoa Kỳ. Một quan chức nói với tôi rằng đơn giản là Hoa Kỳ đã yếu đi, và hoàn cảnh còn tệ hơn, ông ta biện luận, khi Hoa Kỳ đặt mối quan tâm vào vấn đề Trung Đông nhiều hơn là việc trỗi dậy của Trung Quốc tại Đông Á. Đó là một phân tích chủ quan, tuy nhiên cũng có thể đúng, hoặc đúng một phần. Và vẫn còn đó nỗi lo sợ Hoa Kỳ sẽ bán đứng Việt Nam để đổi lại mối quan hệ nồng ấm với Trung Quốc: Xuân, Phó Chủ nhiệm Ủy ban Đối ngoại, nhắc lại rõ sự kiện Nixon mở cửa quan hệ với Trung Quốc như là hành động trao cho Trung Quốc một bối cảnh chiến lược thuận tiện cho việc xâm lược Việt Nam. “Điều đó có thể lặp lại.” Ông ta gật gù thất vọng. Ngược lại, Việt Nam mong muốn Hoa Kỳ đóng một vai diễn lạnh lùng, thực tế trong nên ngoại giao toàn cầu, như là họ [Việt Nam] vậy. “Trở lực lớn nhất trong quá trình đối thoại với người Mỹ là vấn đề dân chủ và nhân quyền,” một viên chức cộng sản chính phủ nói với tôi. Người Việt Nam lo sợ điều đó bởi vì do tác động từ Quốc hội, truyền thông, hay từ nhiều nhóm áp lực khác ở Washington, người Mỹ có thể một ngày nào đó bán họ ra đưởng như là thời gian qua tại các nước độc tài hay bị giới quân sự chi phối khác: Thái Lan, Uzbekistan, và Nepal, thí dụ như thế. Người Việt Nam nhìn nhận sự miễn cưỡng trước đây của Hoa Kỳ kéo dài hàng mấy chục năm trong việc cân bằng cán cân với Trung Quốc tại Myanmar là xuất phát từ vấn đề nhân quyền và sự bướng bỉnh của Rangoon. “ Giá trị to lớn nhất phải là sự vững mạnh của đất nước và nền độc lập. Chính là một quốc gia, chứ không phải là từng cá nhân, có thể đem lại tự do.” Lê Chí Dũng, một Phó vụ trưởng của Bộ Ngoại giao, nói với tôi, cố gắng giải thích về triết lý chính trị của đất nước mình.

Được đăng bởi Sơn Xuyên vào lúc 21:54

--------------------------------------


Robert D. Kaplan

Người dịch : Trà Điêu (Blog Xuyên Sơn)
Chủ Nhật, ngày 13 tháng 4 năm 2014

Trên thực tế, sự tồn tại tiếp tục của chính thể cộng sản trên bề mặt của một Việt Nam đang ở triền dốc của chủ nghĩa tư bản một phần nào có thể được giải thích là bởi lòng tin nơi tính quốc gia của đảng, một đảng từng lãnh đạo đất nước trong các cuộc kháng chiến chống lại Pháp, Mỹ và Trung Quốc. Hơn nữa, như là trường hợp của Tito đối với Nam Tư hay Enver Hoxha đối với Albania, Hồ Chí Minh là một lãnh tụ đi lên từ trong nước chứ không phải được đặt ngồi cai trị xứ sở bởi một đội quân xâm chiếm, như tại nhiều các quốc gia cộng sản còn lại. Hơn nữa, những người cộng sản Việt Nam luôn thể hiện sự tương đồng giữa tư tưởng Hồ Chí Minh với triết lý Khổng giáo, điều được xem trọng bởi gia đình và chính quyền. “Chủ nghĩa dân tộc được xây trên nền tảng Khổng giáo,” Lê Chí Dũng từ Bộ Ngoại giao nói. Neil Jamieson viết rằng “cái đặc tính “chuyên chế” chung ấy của người Việt Nam” mang dáng vẻ của một vài “trật tự đạo đức” cơ bản, đã được xác định trên thế giới.” Điều đó đến phiên nó, liên quan đến tinh thần chính nghĩa [chinh nghia, được tác giả viết trong nguyên bản tiếng Anh], có thể tạm dịch như là một nghĩa vụ xã hội, đối với gia đình của mỗi người và đối với một nhóm liên kết rộng hơn.

Một lý do khác khiến chủ nghĩa cộng sản bền vững ở đây chính là do bản chất thực sự của nó đã không còn, và một cuộc nổi dậy hiện nay là không cần thiết, dĩ nhiên sẽ phải trả giá cho một sự cải cách không đầy đủ. Việt Nam ở trong hoàn cảnh tương tự Trung Quốc: lãnh đạo bởi một Đảng Cộng sản có tất cả mọi thứ nhưng đã từ bỏ chủ nghĩa cộng sản, và có một khế ước xã hội áp đặt lên dân chúng, qua đó đảng đảm bảo mức thu nhập đời sống cao hơn hoặc được giữ nguyên trong khi người dân đồng ý không phản kháng quá mức. (Việt Nam cuối cùng cũng không thể khác được Trung Quốc, do họ đã cùng dấn vào những trải nghiệm tương đồng: giải phóng cho giới tư bản giàu có trong một đất nước cai trị bởi đảng cộng sản.)

Hẵng nghĩ về điều này, ở đây đã có một xã hội đã đi từ chỗ phải đong đếm khẩu phần đến chỗ trở thành một trong những nơi có nguồn lương thực thặng dư lớn nhất thế giới trong vòng chỉ một phần tư thế kỷ. Việt Nam hiện nay về mặt thống kê thuộc nhóm các nước có thu nhập thấp hơn mức trung bình với GDP bình quân đầu người là 1.100 USD. Thay vì chỉ có một nhân vật lãnh đạo bị căm ghét với hình ảnh luôn xuất hiện mọi nơi, như trường hợp xảy ra tại Tunisia, Ai Cập, Syria và một số nước A rập khác, tại đây là hình thức tam đầu chế ít lộ diện của các lãnh đạo – Tổng bí thư đảng, Chủ tịch nước, và Thủ tướng – và dẫn dắt một sự tăng trưởng GDP bình quân hàng năm là 7% từ năm 2002 đến năm 2012. Ngay vào thời Đại suy thoái năm 2009, kinh tế nội địa có mức tăng trưởng 5.5%.  “Đó là một trong những kỷ lục ấn tượng nhất của các nước đang giảm nghèo trong lịch sử thế giới.” Một nhà ngoại giao Phương Tây phát biểu thế. “Họ đã chuyển từ đi xe đạp lên xe máy.” Điều đó đối với họ có thể là dân chủ. Và thậm chí nếu không phải thế, một người có thể nói nền độc tài của Việt Nam và Trung Quốc  không cướp bóc thành quả lao động của nhân dân như cái cách đã xảy ra tại Trung Đông. “Giới lãnh đạo Trung Đông ẩn mình trong tháp ngà quá lâu và để đất nước nằm trong tình trạng khẩn cấp hàng chụp thập kỷ, và điều đó không xảy ra ở đây,” một cựu viên chức cao cấp Việt Nam nói với tôi. “Nhưng vấn đề của tham nhũng, hố chênh lệch thu nhập sâu, thất nghiệp giới trẻ cao thì chúng tôi chung tình cảnh với Trung Đông.” Sự đe dọa đối với Đảng Cộng sản ở đây ít mang nguy cơ Mùa xuân A rập hơn cuộc nổi dậy của sinh viên xảy ra tại Trung Quốc năm 1989, thời gian mà lạm phát xảy ra tại Trung Quốc cũng cao như tại Việt Nam cho đến những năm gần đây, khi bệnh tham nhũng và thói con ông cháu cha được dân chúng nhận diện là không thể kiểm soát: trường hợp này lặp lại với Việt Nam. Và rồi, viên chức đảng cũng lo ngại rằng cải cách chính trị sẽ lái họ rơi vào lại con đường của Nam Việt Nam đã đi trước năm 1975, khi mà một chính phủ yếu, bị chia xẻ bởi nhiều phe cánh, đã dẫn đến việc đất nước sụp đổ; hoặc như Trung Hoa thời kỳ cuối thế kỷ XIX đầu thế kỷ XX, với một chính quyền trung ương yếu ớt đã dẫn đến việc bị ngoại bang đô hộ. Do vậy, các viên chức Việt Nam công khai bày tỏ sự ngưỡng mộ đối với Singapore: một quốc gia-tập đoàn độc đảng thống trị đưa đến sự kỷ luật và một chính phủ trong sạch, là một cái gì mà một chính thể tham nhũng đang ngự trị như tại Việt Nam còn đang còn ở rất xa.

Mô hình Singapore đã thể hiện rõ ràng trước mắt  tôi qua Khu Công nghiệp Việt Nam-Singapore, cách Thành phố Hồ Chí Minh (hay còn gọi là Sài Gòn như tất cả những ai không liên quan đến các viên chức chính phủ) hai mươi dặm. Tôi chứng kiến hình ảnh một thế giới tương lai với những con đường quy hoạch chạy theo lề phải, được bảo trì và chăm sóc tốt, trong một môi trường được bảo vệ an ninh đầy đủ, tại đó 240 xí nghiệp sản xuất đến từ Singapore, Malaysia, Đài Loan, Hàn Quốc, Châu Âu, và từ Mỹ chế tạo ra dụng cụ golf cao cấp, vi mạch điện tử, y phẩm, giày cao cấp, điện máy không gian, và nhiều thứ khác. Trong giai đoạn mở rộng tiếp theo, các căn hộ cao cấp được lên kế hoạch xây tại chỗ cho lao động nước ngoài sống và làm việc. Một giám đốc sản xuất người Mỹ ở đây nói với tôi rằng công ty của ông ta chọn Việt Nam cho những vận hành kỹ thuật cao của họ qua một quá trình sàng lọc: chúng tôi cần hạ giá thành lao động. Chúng tôi không muốn đặt xưởng ở Đông Âu hay Châu Phi [nơi không có người lao động châu Á]. Tại Trung Quốc thì chi phí nhân công đã bắt đầu tăng cao. Indonesia và Malaysia theo đạo Hồi, và điều đó đã làm chúng tôi lo ngại mà tránh xa. Thái Lan gần đây trở nên bất ổn. Và Việt Nam hiện ra trước chúng tôi: nó giống như Trung Quốc hai thập kỷ trước, đang ở ngưỡng của sụ bùng nổ.” Ông ta nói thêm: “Chúng tôi đưa cho những nhân viên người Việt các bài test độ thông minh. Điểm của họ cao hơn các công nhân của chúng tôi ở Mỹ.”

Có ba Khu công nghiệp Việt Nam – Singapore khác ở đất nước này, mà mục tiêu là đem các tập đoàn, đem sự sạch sẽ hoàn hảo, đem môi trường xanh, và mô hình quản lý phát triển kiểu Singapore đến cho Việt Nam. Nó nằm trong số bốn trăm Khu công nghiệp trên khắp Việt Nam, từ nam chí bắc, và tất cả chúng dù to hay nhỏ đều thể hiện việc thúc đẩy cùng một giá trị của mô hình quản lý theo kiểu Phương Tây và tính hiệu quả. Các siêu đô thị hiện tại là Sài Gòn và hành lang Hà Nội – Hải Phòng không thể tái sinh để mọi thứ có thể hoàn hảo hơn, những tồn tại của chúng không thể hoàn toàn loại bỏ: tương lai là các thành phố mới sẽ chia bớt sức ép dân số của các thành phố cũ. Sự hiện đại thực sự phải có nghĩa là phát triển nông thôn sao cho ít người muốn chuyển từ đó lên thành phố sinh sống hơn. Những Khu công nghiệp đó, với Singapore như hình mẫu chính, sẽ giúp thay đổi nông thôn Việt Nam. Do toàn bộ mong muốn của họ là có thể tự trang bị, nên họ đã đem theo với họ cả hạ tầng, như điện và nước, và cả một cửa hàng tiện ích cho các xí nghiệp nước ngoài đang tìm kiếm giấy phép từ chính phủ.

Trong khi Việt Nam thống nhất về mặt chính trị qua việc những người cộng sản Bắc Việt chiếm được Sài Gòn và đổi tên nó thành Thành phố Hồ Chí Minh vào năm 1975, thì chỉ bây giờ, qua các khu công nghiệp và các ý nghĩa khác của sự phát triển, Việt Nam mới trở nên thống nhất về kinh tế và văn hóa, qua một tiêu chuẩn toàn cầu về sản xuất đã liên kết Hà Nội và Sài Gòn. Bởi vì giai đoạn mới nhất này của phát triển liên quan đến đầu vào trực tiếp từ các con hổ kinh tế Châu Á khác, Việt Nam trở nên hội nhập ngày càng nhiều với phần còn lại của khu vực và qua đó trở nên dễ dãi hơn với sự mất mát một phần chủ quyền mà một ASEAN lớn mạnh hơn trong tương lai có thể dẫn tới.

“Tinh thần dân tộc của Việt Nam chỉ chĩa vào Trung Quốc, một kẻ thù lịch sử, chứ không về phía các quốc gia khác trong khu vực,” Đặng Thành Tâm, một nhà doanh nghiệp hàng đầu Sài Gòn, nói với tôi. Tâm ngồi trước một bàn làm việc trống trải, sử dụng hai smartphone gần như cùng lúc, là hiện thân của Sài Gòn mới, mà, do việc mất  đi vai trò thủ phủ chính trị vào năm 1975, đã từ đó trở về sau đã dành hết tiềm lực của mình hoàn toàn cho thương mại. Trong lúc Hà Nội là Ankara của Việt Nam, Sài Gòn chính là Istanbul. Saigon Invest Group của Tâm đại diện cho hơn tỷ đô la đầu tư vào các khu công nghiệp, lĩnh vực viễn thông, sản xuất, và hầm mỏ.  Ông ta vừa khởi công hai mươi lăm khu công nghiệp dọc suốt hành lang nam – bắc Việt Nam. Ông nói với tôi: “Tương lai thuộc về sự phi tập trung hóa đi đôi với một chính phủ có trách nhiệm hơn, và gắn liền với một tỷ lệ sinh đẻ còn cao đối chiếu với dân số già của Trung Quốc, Nhật Bản và Hàn Quốc.”

Trong khi ở Hà Nội bạn nghe nói đi nói lại là Việt Nam mong muốn trở thành một thế lực trong khu vực và một quốc gia quan yếu, tại Sài Gòn bạn sẽ nhìn thấy sự thể hiện của điều đó. Mọi thứ đều ở một quy mô to hơn ở Hà Nội, đường sá rộng rãi với cửa hiệu lập lòe đèn sáng, các salon bán ô tô đời mới, các nhà cao tầng được bao phủ bởi kính và thép. Những quán bar đầy phô trương, những tiệm ăn quy mô to lớn thể hiện hơi hướng Pháp, với chút gì đó cáu kỉnh tinh quái của một thành phố cựu thuộc địa Pháp. Khách sạn Continental, khung cảnh chính của tác phẩm Một người Mỹ trầm lặng năm 1955 của Graham Greene, và là nơi trú đóng của các ký giả ngoại quốc trong cuộc chiến tranh Việt Nam, - với sự hiện hữu của một sảnh cưới trắng toát và những chiếc cột kiểu tân cổ điển đang thì thầm nhỏ nhẹ và cười nhạo quá khứ - đơn giản là đã khuất lấp giữa những cám dỗ mới và những biển hiệu khách sạn mới mọc lên.

Thống kê của Mỹ nửa thế kỷ trước cho thấy Sài Gòn có 2,5 triệu dân và GDP đầu người là 180 USD; bây giờ có dân số tám triệu người, và GDP đầu người là 2,900 USD. Sài Gòn chiếm một phần ba GDP cả nước, mặc dù dân số chỉ chiếm một phần chín. Một trăm tỷ đô la sẽ được đổ vào đây cho một trung tâm thành phố mới quy hoạch bởi một công ty từ Boston, với một tòa nhà trăm tầng và năm cây cầu cùng đường hầm mới. Một công ty Nhật đang xây dựng hệ thống tàu điện ngầm với sáu tuyến. Các viên chức từ Viện Nghiên cứu Phát triển Sài Gòn nói với tôi rằng họ nhấn mạnh yếu tố phát triển “phù hợp”: một mô hình “xanh” với một hệ thống “toàn cầu – khu vực.” Những khu vực hạn chế sẽ ra đời, cũng như sẽ không cho sử dụng xe gắn máy và ô tô tư nhân tại nhiều nơi thuộc trung tâm thành phố mới và cũ. Lại một lần nữa mô hình Tập đoàn Singapore  lại được dẫn chiếu, để nói về một thành phố “đẳng cấp thế giới” nhưng già cằn về mặt thẩm mỹ học, với một sân bay mới và trung tâm trung chuyển hàng hóa đường không cho Đông Nam Á, và một hải cảng với công suất lớn hơn.

Hà Nội là kỳ vọng về địa chính trị và quân sự, Sài Gòn thịnh vượng kiểu tư bản sẽ không bao giờ thành hiện thực nếu thiếu đi kỳ vọng đó. Một Sài Gòn Mở rộng [hay Sài Gòn To lớn hơn, người dịch thêm vào]  sẽ là một mô phỏng của Singapore  giúp cho Việt Nam đối chọi lại với Trung Quốc, đối thủ và kẻ bắt nạt lịch sử. Đó chính là thông điệp ở đây.

Dĩ nhiên, Sài Gòn Mở rộng còn là một điều mất rất lâu để đạt được. Việt Nam hiện nay còn đang ở giữa cơn khủng hoảng kinh tế tương tự như trường hợp của Trung Quốc: trong khi cả hai đảng cộng sản đã đem đến cho nhân dân những gặt hái ấn tượng về mức sống trong những thập kỷ gần đây, những tiến bộ tiếp theo đòi hỏi những cải cách sâu sắc và tự do hóa chính trị, điều đó sẽ tạo nên những thách thức lớn hơn bao giờ hết.
Trong khi ấy, những lãnh đạo cộng sản Việt Nam đang cố gắng dựa vào cái chất Phổ của họ, những chính sách kinh tế tư bản chủ nghĩa hà khắc của họ, và sự kiểm soát chính trị gắt gao để bảo toàn nền độc lập hằng khao khát của họ trước Trung Quốc. Họ biết rằng không giống với các nước của Mùa Xuân A rập, đất nước họ đối mặt với một kẻ thù bên ngoài đã xác định rõ (tuy rằng gần gũi về mặt ý thức hệ), và có thể làm dâng lên cao trào phản kháng chính trị của nhân dân họ. Nhưng giống như Ấn Độ, họ thận trọng trước mọi hình thức hiệp ước chính thức với Hoa Kỳ. Thật ra mà nói, sự cần thiết của một hiệp ước quốc phòng với Hoa Kỳ một khi nảy sinh ra, điều đó có thể chỉ ra rằng tình hình an ninh tại vùng Biển Đông khi ấy đã trở nên bất ổn so với hiện tại. Trong bất cứ trường hợp nào, định mệnh của Việt Nam, và khả năng của họ để không trở thành bị Phần Lan hóa [thuật ngữ Phần Lan hóa hình thành từ mối quan hệ của Liên Xô và Phần Lan trước đây, xem thêm Wiki – lời người dịch] bởi Trung Hoa, sẽ nói lên rất nhiều về khả năng để Hoa Kỳ có thể lại hướng sức mạnh của mình vào khu vực Thái Bình Dương trong thế kỷ XXI như định mệnh của Việt Nam đã dẫn dắt trong thế kỷ XX.

Được đăng bởi Sơn Xuyên vào lúc 21:57



No comments:

Post a Comment

View My Stats