Nhân
đọc lại chuyện nhà văn Vũ Thư Hiên tường thuật về người tù dưới chế độ cộng sản
lâu năm Tôn Thất Tần được Dân Làm Báo trích đăng lại, tôi xin kể thêm đôi chút để độc
giả tường. Cụ Tôn thất Tần là anh ruột của Nghị sĩ VNCH Tôn Thất Uẩn và bà Tôn
Nữ Oanh, tức là bà quả phụ Hà Thúc Ký – Chủ tịch Đảng Đại Việt Cách Mạng. Con
gái của cụ Tôn Thất Tần là cô Tôn nữ Giáng Tiên, hiền thê của thi sĩ Trần Mạnh
Hảo, là bạn thời thơ ấu của tôi. Tôi lớn tuổi hơn cô Tiên. Nhân được tin cụ Tôn
Thất Tần qua đời, tôi xin thành kính chia buồn cùng anh Tôn Thất Uẩn, chị Hà
Thúc Ký và cô Tôn nữ Giáng Tiên. Nguyện cầu hương linh người quá cố bình an nơi
cõi vĩnh hằng.
Tôi
có người anh ruột, tên là Đặng Văn Châu, sinh viên Trường Thanh Niên Tiền Tuyến
do luật sư Phan Anh lập ra dưới thời chính phủ Trần Trọng Kim. Hùm Xám Đặng văn
Việt, người anh em thúc bá của tôi, lúc bấy giờ cũng là sinh viên Trường Thanh
Niên Tiền Tuyến, nhưng khác chí hướng với ông anh ruột của tôi.
Khi
Hồ Chí Minh ký hiệp định sơ bộ ngày 6 tháng 3 năm 1946 thỏa thuận cho Thực dân
Pháp trở lại Đông Dương, anh Đặng văn Châu lên án Hồ Chí Minh bán nước, công
khai xách động sinh viên trong trường nổi loạn. Kết quả, anh tôi bị bắt và bị kết
án tử hình. Cụ Tôn Thất Tần cũng là người chống lại Hồ Chí Minh bán nước, bị
kết án tù chung thân.
Nhân
dịp đọc lại câu chuyện nhà văn Vũ Thư Hiên viết về cụ Tôn Thất Tần, tôi xin kể
cho bạn đọc về mẩu đối thoại giữa ông Phan Mỹ (em ruột của luật sư Phan Anh).
Anh tôi là bạn học của Phan Mỹ, nên khi anh tôi bị Việt Minh nhốt tù thì Phan
Mỹ (đang là đảng viên cộng sản) đến gặp anh tôi để thăm hỏi (một hình thức thẩm
vấn của cộng sản?) và giảng giải về Karl Marx để thuyết phục anh tôi tin tưởng
hành động Hồ Chí Minh ký hiệp định cho Pháp trở lại Đông Dương là đúng. Phan Mỹ
vận động anh tôi tham gia đảng Cộng Sản để được khoan hồng, khỏi bị lãnh án tử
hình. Anh tôi từ chối và nói: “Tại sao toa lại đi theo cộng sản? Hai khối Tư
Bản và Cộng Sản là hai thế lực đang ra sức tiêu diệt lẫn nhau. Tại sao cụ Hồ
không chọn con đường Trung Lập để tránh cho nhân dân khỏi rơi vào cuộc chém
giết? Moa thà chết; chứ không thể nào tham gia vào đảng Cộng Sản để mang tội
với đồng bào mình? Biết không thể thuyết phục được anh tôi, Phan Mỹ đành chia
tay. Vào thời điểm 1946, anh tôi mới 21 tuổi, xuất thân trường Albert Sarraut,
vừa mới đậu chứng chỉ Toán Đại Cương (Math Général) năm trước, mà đã nhìn thấy
hiểm họa cộng sản sẽ gây nên cho dân tộc rồi. Trái lại thầy Tạ Quang Bửu, đương
kim Hiệu trưởng Trường Thanh Niên Tiền Tuyến, rất giỏi về các ngành khoa học,
toán học và triết học, nhưng Thầy Bửu đã sai lầm khi chọn con đường cộng sản.
Anh
tôi bị đưa ra pháp trường để bị xử bắn thì vừa đúng lúc quân đội Pháp đổ bộ vào
Hà Nội, nhờ đó mà được giải thoát. Thầy (Bố) chúng tôi qua đời vào lúc đất nước
ngửa nghiêng, gia đình ly tán. Hai người anh khác của tôi – Đặng văn Bút, Đặng
văn Nghiên – đang là sinh viên sắp ra trường Đại Học Hà Nội cũng bị lính của Võ
Nguyên Giáp giết chết trong cuộc thanh trừng đảng phái Quốc Gia. Anh Đặng văn
Châu của tôi thoát vào Sài Gòn, được người chú ruột là bác sĩ Đặng văn Hồ gửi
sang Pháp du học. Vì cần có tiền để sinh sống, anh tôi chọn ngành Marine
Marchante (trường này có học bổng hàng tháng) và trở thành người Việt Nam đầu
tiên có bằng Viễn Dương Thuyền trường (Commandant Long court) lái tàu xuyên Đại
dương. Khi Tổng thống Ngô Đình Diệm về nước, thu hồi nền độc lập từ tay người
Pháp, anh tôi được mời về đảm nhiệm chức vụ Directeur Pilotage sông Sài Gòn và
đồng thời làm Giám đốc trường Hàng Hải thuộc Trung tâm Kỹ thuật Phú Thọ.
Tháng
Tư năm 1975, cộng sản chiếm Miền Nam, gia đình anh tôi bị kẹt lại, nhưng là một
nhà hàng hải chuyên nghiệp, nên anh tôi đã đưa gia đình vượt biển sang
Singapore an toàn và định cư tại Pháp. Anh tôi qua đời tại Pháp năm 2009 và các
con đã đưa tro cốt của anh về chôn cất tại nghĩa trang dòng họ Đặng tại làng
Nho Lâm, huyện Diễn Châu, tỉnh Nghệ An năm 2011. Nhân dịp đó, tôi đã liều mạng
về nước để tham dự buổi lễ chôn cất tro cốt anh mình vào lòng đất Mẹ và để quỳ
lạy Tổ tiên. Đây là lần về nước cuối cùng cho đến khi chế độ cộng sản bị lật
đổ.
---------------------------------------------------
Tin liên quan
CÁO PHÓ
https://blogger.googleusercontent.com/img/b/R29vZ2xl/AVvXsEgtKwbIbYesmk4L9bGPkcejMDY6fboMimPYeqDARUntvP4Y768Ib4p3mpVLng_ATINFF6gbHgw7MG6bmYodt345I7f4wFsfjt5gMNifax52YP6JICzyvUOEPQnkLgSHQtLQRNe3QlOKLEBJ/s640/ba+mat.JPG
Bố
vợ nhà thơ Trần Mạnh Hảo là cụ ông Tôn Thất Tần vừa qua đời hôm 4/11/2013 tại
Sài Gòn, hưởng thọ 96 tuổi. Cụ ông Tôn Thất Tần sinh năm 1918 trong một gia
đình hoàng tộc tại Huế, từng bị chế độ CS bỏ tù với thời gian kỷ lục lên đến 30
năm tù vì tội danh có tên 'phản cách mạng'.
Được
xem một trong những người tù cộng sản phải chịu án lâu nhất tại Việt Nam, trong
suốt thời gian từ năm 1946 đến 1976, cụ ông Tôn Thất Tần đã phải trải qua những
nhà tù khắc nghiệt nhất tại miền Bắc.
Trong
hồi ký Đêm giữa ban ngày của nhà văn Vũ Thư Hiên, người tù Tôn Thất Tần
được mệnh danh là "Jean Valjean gọi bằng cụ" vì sức chịu đựng
ghê gớm với thời gian ở tù kỷ lục.
Nhà
thơ quá cố Nguyễn Chí Thiện, tác giả Hoa Địa Ngục cũng nhiều lần nhắc đến
trường hợp người tù Tôn Thất Tần để dẫn chứng về sự tàn ác, vô nhân đạo của chế
độ lao tù cộng sản.
Hiện nay, người tù chính trị bị chế độ
CS bỏ tù lâu nhất tại Việt Nam là ông Nguyễn Hữu Cầu, hiện đang ở tù tổng cộng
37 năm tại trại giam Xuân Lộc, tỉnh Đồng Nai.
-------------------------------
* Trích một phần hồi ký Đêm Giữa Ban Ngày của nhà văn Vũ
Thư Hiên
Chương
38
- Ở Hỏa Lò tôi đã được nghe Thành kể về con người huyền thoại đã ở liền một
mạch hai mươi hai năm trong tù. Anh nói có lần chưa hoàn cung anh bị đưa đi
trại chung, tôi không nhớ trại nào, tại đây anh gặp những người đã ở chung với
một tù nhân có thâm niên cao nhất: tù suốt từ 1946 cho tới tận bây giờ (tức năm
1968). Kỷ lục ấy chưa có ai vượt qua. Vì sự chịu đựng ghê gớm ông ta được mệnh
danh là “Jean Valjean (1) gọi bằng cụ”.
Tôi
nghe, nhưng không tin. Tin làm sao được chuyện tào lao đến thế! Chúng tôi đang
sống giữa thế kỷ XX, chứ đâu phải thời Trung cổ.
Không
ngờ chuyện đó có thật và rồi tôi được gặp “Jean Valjean gọi bằng cụ” bằng xương
bằng thịt ở trại A Tân Lập.
Một
hôm Trần Chấn Hoa dẫn tôi sang nhà C, nơi có đám số tù số lẻ ở trại Vĩnh Quang
(tỉnh Vĩnh Phú) vừa chuyển lên, chưa phân vào các toán. Trần Chấn Hoa cũng đã ở
Vĩnh Quang vài năm, y có nhiều người quen. Nghe Trần Chấn Hoa tả thì trại nằm
dưới chân Tam Đảo, một bình nguyên rộng ngút tầm mắt, nơi trâu ấn Độ và cừu
Mông Cổ được nuôi thí nghiệm để nhân giống. Cuộc thí nghiệm không thành công.
Những con trâu to kềnh không cho sữa, cừu thay nhau lăn ra chết. Tôi đã đến đây
làm phóng sự, nhưng không thành. Người ta chỉ in các phóng sự về thành công
thôi. Bù lại, tôi được ăn thỏa thích thịt cừu hoi rình trong những món chém to
kho nhừ của bếp nông trường. Thịt cừu nấu plow (pilaw) hoặc súp kharcho (2) rất
tuyệt, nhưng không ai biết làm.
Trần
Chấn Hoa số chẵn, nhưng ở trại A Tân Lập y lại nằm trong số lẻ. Xem ra cái việc
cài chỉ điểm của công an thật vô nguyên tắc. Người ta sẽ làm gì với những báo
cáo về tôi của một tên ba hoa ?
-
Ta đến xem “Jean Valjean gọi bằng cụ” đi. - y nói.
-
“Jean Valjean gọi bằng cụ” là ai ?
Y
giải thích. Tôi nghe, làm ra vẻ chăm chú.
-
Ông này quán quân ở tù cơ anh ơi! Hai mươi sáu năm liền tù tì.
-
Làm gì có chuyện! Bịa.
-
Anh gặp khắc biết, em không bịa đâu. Kia, cái ông gày gày khoác áo bông ngồi
đàng kia kìa!
Theo
tay Trần Chấn Hoa chỉ tôi nhìn thấy một người đàn ông đứng tuổi, gày và xanh,
đang ngồi chăm chú đọc sách. Hôm ấy chủ nhật, tù được nghỉ, không đi lao động.
Tôi
đến, ngồi xổm trước mặt ông:
-
Chào bác!
-
Chào anh! - ông ta ngẩng lên, không vồn vã.
Người
tù ngồi liền tù tì hai mươi sáu năm trông chẳng khác gì mọi người ở đây. Tôi
hình dung ông phải già lắm kia, phải lụ khụ lắm kia, hóa ra không phải. Bề
ngoài ông còn trẻ, thậm chí trông không già hơn tôi bao nhiêu.
-
Có phải bác là “Jean Valjean gọi bằng cụ” không?
-
Ai bảo anh rứa?
-
Những người tù ở đây.
Ông
mỉm cười hiền lành:
-
Hay nhỉ? Rứa mà tui không biết.
-
Bác là nhân vật nổi tiếng. Người như bác hiếm.
-
Còn anh?
-
Tôi chẳng là gì sất. Tôi chỉ là một người tò mò.
“Jean
Valjean gọi bằng cụ” nhìn lên trời, cười không có tiếng. Im lặng một lát, ông
nói khẽ:
-
Anh là Vũ Thư Hiên, phải không? Tui cũng đã nghe nói về anh...
Tôi
sửng sốt. Tù Vĩnh Quang mới lên hôm qua. Ai đã kể cho ông nghe về tôi?
-
Trong đám tui ở Vĩnh Quang có người đã gặp anh ở ngoài. Anh ta nhận ra.
-
Ai nhỉ?
-
Anh không biết anh ta. Nhưng anh ta biết anh.
Người
biết tôi là một nhà thơ địa phương, theo sự tự giới thiệu của anh ta sau này.
Tôi không nhớ đã gặp anh ta trong trường hợp nào. Những nhà thơ dân gian với
những bài thơ xỏ xiên, châm chọc chính quyền rơi vào tù khá nhiều. Cả những nhà
văn dân gian chuyên sáng tác chuyện tiếu lâm cũng vậy. Ba Giai, Tú Xuất dưới
chế độ xã hội chủ nghĩa chỉ được phép sống trong nhà tù.
Ngày
hôm sau “Jean Valjean gọi bằng cụ” được nhập vào toán tôi. Theo sự điều đình
của Trần Chấn Hoa, người tù nằm bên cạnh chúng tôi dọn đi nơi khác, nhường chỗ
cho “Jean Valjean gọi bằng cụ”.
-
Tui tên Tôn Thất Tần. - Ông ta nói.
Nể
tôi lắm Trần Chấn Hoa mới làm theo ý tôi. “Ông ta bị lao đấy”, y thì thào.
Nhưng tôi biết - y phải chiều tôi. Không chiều tôi thì y không thực hiện được
trọng trách mà ban giám thị trao cho. Cho nên tôi có thể bắt bí.
Tôi
thích chơi với “Jean Valjean gọi bằng cụ”. Đó là người tù trí thức đầu tiên mà
tôi gặp ở Tân Lập. Tôn Thất Tần thỉnh thoảng có húng hắng ho thật, nhưng dấu
hiệu khác của bệnh lao không thấy. Ông gày nhẳng, da xạm, nhưng tù đều gày và
xanh, chẳng có ai béo tốt. Hồng hào nhất ở đây có lẽ là Trần Chấn Hoa. Y được
gia đình tiếp tế thường xuyên. Tù số lẻ phần nhiều là tù lưu niên, trên dưới
mười năm cả. Những người tù ở lâu ít được tiếp tế: Người thì cha mẹ quy tiên,
người thì vợ đi lấy chồng, con cái còn nhỏ dại. Nguyên nhân là tù lâu quá, gia
đình nào rồi cũng mệt mỏi, cũng phát chán.
Tôi
không sợ lây bệnh Tôn Thất Tần, nếu như ông lao thật. Tôi đã bị lao trong kháng
chiến chống Pháp, hậu quả lần chấn thương phổi do pháo bầy trong trận chống càn
Bretagne năm 1952. Bác Sĩ Hoàng Đình Cầu (3) hồi ấy ở Nông Cống khám cho tôi,
tiên đoán tôi sẽ chết. Nhưng tôi vẫn sống để đi đón anh ở ga Iaroslavsky tại
Moskva khi anh sang Liên Xô bổ túc nghiệp vụ. Không hiểu sao, nhưng tôi đinh
ninh tôi chết không dễ dàng.
-
Anh nên thận trọng trong khi giao thiệp với Trần Chấn Hoa. Tui muốn nói không
nên gần gụi anh ta nhiều quá! - Tôn Thất Tần dặn tôi. - Khi gần gụi nhiều người
ta sẽ tin những lời anh ta nói về mình là đúng. Nói chung, ở trong tù anh nên
cẩn thận. Giao thiệp với bất cứ ai cũng vậy, có khi mình sơ suất gây ra những
hậu quả rất xấu.
Tôi
trân trọng lời khuyên của bậc đại trưởng lão trong bộ lạc tù. Không nghe lời
ông thì còn nghe ai? Ông có đàng sau lưng một thâm niên tù không ai sánh bằng,
kinh nghiệm đời tù ông tích lũy đủ cho mấy thế hệ đi sau.
-
Cả với bác nữa chứ? - tôi nói đùa.
-
Tất nhiên. - ông trả lời ráo hoảnh - Trong tù có quá nhiều điều bất ngờ, đến
nỗi lắm lúc mình chỉ còn biết trợn mắt lên mà ngạc nhiên, anh ạ. Thật vậy, con
người ta lạ lắm, thay đổi nhanh lắm! Người mình ngỡ trung thành khi lâm sự hóa
ra tên phản bội. Kẻ hôm qua bị cả trại chê hèn nhát thì hôm nay bỗng làm mọi
người kinh ngạc vì một hành động anh hùng xuất chúng. Cuộc đời, nó lạ lắm! Nói
bất ngờ là nói quen miệng, chớ mọi tính cách có sẵn trong con người ta hết, tốt
có, xấu có, gặp dịp là bùng ra, là nổi lên...
-
Bác không cho rằng có người tốt, người xấu?
-
Có chớ. Người tốt là người biết phân biệt cái xấu và cái tốt, điều nên làm và
điều không nên làm, là người có ý chí mạnh mẽ đè nén được cái xấu, không cho
phép nó hoành hành... Người tốt là người sống thật thà với mọi người cũng như
với chính mình, tức là tui muốn nói những người không đạo đức giả, làm ra vẻ
tốt nhưng trong lòng xấu xa...
Hoàng
hôn ở Tân Lập ngắn ngủi. Khi mặt trời vừa khuất sau những rặng núi xa thì bóng
tối liền đổ ập xuống. Tù xếp hàng điểm danh khi những tia nắng cuối cùng chưa
tắt trên những ngọn cây. Điểm danh xong là tối. Chúng tôi bị lùa vào phòng,
khóa cửa lại.
Câu
chuyện được tiếp tục bên trong song sắt.
-
May một cái là ở trong tù mình mau chóng nhận ra người tốt người xấu. Nhà tù
không có chỗ cho những âm mưu lâu dài. Người tù không biết mình sẽ ở địa điểm
nào vào ngày mai, hắn đểu cũng vội vàng đểu, cũng hấp tấp đểu, sợ không kịp...
Tôn
Thất Tần chỉ sống với quá khứ, bằng quá khứ. Mà quá khứ cũng chỉ được tính từ
năm 1946 trở về trước. Những sự kiện sau đó, cho dù chúng lớn tới mấy, ông
không tính, không nhớ, hoặc không thèm nhớ.
-
Tui đã có vợ con.
Ông
bắt đầu câu chuyện, rồi im bặt.
-
Bác có được tin của bác gái không?
-
Không. Từ năm 1946 tui không còn được tin gì của nhà tui nữa.
-
Bác có biết mặt con chứ?
-
Biết. Nó là con gái.
Người
ta kể Tôn Thất Tần đã tham gia cuộc nổi loạn của tù nhân ở chiến khu
Bình-Trị-Thiên. Những người tù phá trại, giết lính gác rồi bỏ trốn vào rừng. Họ
lần lượt bị bắt lại hết, không sót một ai. Hai người bị kết án tử hình. Tôn
Thất Tần lĩnh án chung thân, sau được giảm xuống 20 năm. Về chuyện này dường
như Tôn Thất Tần không muốn nhắc lại, không muốn nói tới, mặc dầu tôi có vài
lần hỏi ông. Mãi một năm sau ông mới kể cho tôi nghe, nhân câu chuyện tình báo
Việt Nam đánh đắm một thông báo hạm của Pháp tại vùng biển Sầm Sơn năm 1950,
tôi nhắc tên Hoàng Đạo.
-
Anh biết hắn ta à?
-
Chúng tôi quen nhau khá lâu.
Ông
cúi xuống, lầm rầm câu gì nghe không rõ. Hình như ông văng tục. Bình thường
không bao giờ Tôn Thất Tần văng tục hoặc chửi bậy, cho nên tôi nghĩ tôi nghe
nhầm.
-
Bác bảo sao?
-
Tui nói hắn là thằng chó đẻ!
Tôi
thấy mếch lòng. Dù sao Hoàng Đạo cũng là người quen của tôi.
-
Tại sao bác lại gọi anh ấy là thằng chó đẻ?
-
Bởi vì hắn là một thằng như rứa.
Tôn
Thất Tần nói như gắt.
Thì
ra chính Hoàng Đạo là nguyên nhân, hay nói cho đúng, là khởi điểm cho đời tù lê
thê của Tôn Thất Tần.
Hai
người vốn là bạn bè. Khi Tôn Thất Tần rời Huế đi học Trường Thể Thao Phan Thiết
thì Hoàng Đạo hoạt động cách mạng. Cách Mạng Tháng Tám nổ ra ở Huế, Hoàng Đạo
trở thành giám đốc công an thành phố. Tôn Thất Tần trở về, họ vẫn chơi với
nhau.
Cho
tới khi Chủ Tịch Hồ Chí Minh ký Hiệp Ước 6-3 năm 1946, cho quân Pháp quay lại
Đông Dương thay quân đội Đồng Minh làm nốt việc giải giáp quân đội Nhật Bản và
giữ trật tự trên lãnh thổ do Nhật chiếm đóng, thì ở Huế một số chính khách
xa-lông bất bình. Họ nói Hồ Chí Minh bán nước. Tôn Thất Tần ở trong số thanh
niên phản đối Hiệp ước.
-
Bây giờ bác có còn nghĩ rằng lúc ấy bác đúng không?
-
Không. Tui sai. Cụ Hồ đã đi một nước cờ cao. Nếu quân Tưởng ở lại cái họa còn
lớn hơn. Bọn Pháp ở xa chính quốc, quân số không nhiều, quân Tưởng có hậu cứ
sát nách ta, lại ô hợp, chơi nhau với nó mệt lắm...
Tôn
Thất Tần tìm Hoàng Đạo nhờ Hoàng Đạo in truyền đơn chống chính phủ Hồ Chí Minh.
Hoàng Đạo không nhận lời, một hai khuyên can Tôn Thất Tần đừng làm chuyện thọc
gậy bánh xe, nhưng Tôn Thất Tần không nghe. Không nhờ được Hoàng Đạo, ông đưa
in nơi khác. Tờ truyền đơn chưa kịp in thì Tôn Thất Tần bị bắt. Người ra lệnh
bắt Tôn Thất Tần chính là Hoàng Đạo.
-
Sau, hắn có cho người gặp tui, biểu chỉ cần tui chịu xin gặp hắn nhận có lầm lỡ
thì hắn tha... Tui tống cái thằng đến phủ dụ ra khỏi xà lim. Sau đó thì...
không biết Hoàng Đạo đi đâu, hay là hắn tránh mặt tui, nhưng không thấy vân
mòng chi nữa. Rồi kháng chiến toàn quốc bùng nổ, tù ở lao Thừa Phủ bị tống lên
chiến khu.
-
Hồi đó anh Hoàng Đạo bị gọi ra Hà Nội. - Tôi nói - Anh ấy không trở về Huế, mà
làm trưởng ty công an Thanh Hóa. Đến lúc đó Hoàng Đạo có muốn thả bác cũng đã
muộn. Liên lạc giữa các địa phương trong thời kỳ đầu kháng chiến rất khó
khăn...
Tôi
muốn an ủi Tôn Thất Tần. Chứ nếu Hoàng Đạo muốn, anh vẫn tìm được cách để thả
bạn mình. Anh đã quên bạn, hoặc anh muốn cho người ta thấy trong anh ngoài lợi
ích của cách mạng ra không còn có chỗ cho cái gì khác.
-
Từ đó, ở trong tù, tui cũng không nghe ai nói tới Hoàng Đạo nữa...
-
Rồi bác tham gia cuộc nổi loạn phá trại?
Tôn
Thất Tần cười, vẻ cay đắng.
Dần
dà, chắp nối những mẩu chuyện rời rạc của ông lại với nhau tôi mới biết Tôn
Thất Tần rơi vào trong số những người cầm đầu cuộc nổi loạn như thế nào. Người
cầm đầu thật sự là Bửu Viên (có thể tôi nhớ tên không được chính xác), sau bị
xử tử, từ lâu đã ngấm ngầm chuẩn bị vượt ngục. Trong số người cùng đồng tâm với
ông ta không có Tôn Thất Tần. Khi những người vượt ngục lọt ra ngoài nhà giam,
họ gọi Tôn Thất Tần đi theo. Lính canh phát hiện, nổ súng. Những người vượt
ngục chống lại. Cuộc vượt ngục biến thành cuộc nổi loạn phá ngục có đổ máu, có
người chết, người bị thương cả ở hai phía. Sau nhiều ngày lẩn quất trong rừng
tất cả lần lượt bị bắt lại. Công an cho rằng không có lý nào hai người trong
hoàng tộc, một Bửu một Tôn Thất, mà không bàn bạc với nhau. Không thể nào cãi
lại những ông chấp pháp dai hoi, Tôn Thất Tần nhận đại cái tội mà ông không có.
Một
cuộc đời tan nát bắt đầu từ một chuyện không đâu.
Chúng
tôi chơi thân với nhau, mặc dầu đứng giữa tôi và Tôn Thất Tần là Mác. Được cái
Tôn Thất Tần không quan tâm tôi cộng sản hay không cộng sản như những người tù
số lẻ khác. Người như tôi dễ được Ban Giám thị chọn làm ăng-ten lắm, bọn họ
nghĩ thế và có thái độ lạnh nhạt hoặc xa lánh tôi. Có người còn xưng xưng rằng
đúng thế. Tôi kệ. Dù sao thì tôi vẫn là kẻ tình cờ rơi vào hàng ngũ họ từ phía
bên kia. Tôi không phải người của họ.
Tôn
Thất Tần ham hiểu biết. Ông còn bắt tôi nói cho ông nghe lý thuyết chủ nghĩa
Mác, là cái ông không hề được đọc. Những bài giảng chính trị của các ông cán bộ
dĩ nhiên không phải chủ nghĩa Mác rồi. Các chủ nghĩa, kể cả chủ nghĩa Mác, theo
quan niệm thông thường, không cần đi cặp kè với còng tay và cùm sắt. Tôi nói
lại cho ông nghe những điều tôi biết, một cách hờ hững. Tôi đã ngán mọi thứ chủ
nghĩa mà vì chúng người ta thịt nhau.
-
Như vậy, anh cho rằng nó không hiện thực?
-
Tất cả đều mò mẫm. Mác mò mẫm trong lý thuyết, các nhà mác-xít mò mẫm trong
thực hành. Cái khác nhau là trong một lý thuyết sai lầm chỉ có chữ nghĩa là bị
xây xát chút ít, còn trong thực hành là những số phận người, sai lầm gây ra bi
kịch.
Tôn
Thất Tần thở dài.
-
Vậy cái gì còn lại trong chủ nghĩa Mác sau khi anh thất vọng với nó?
-
Phần nhân bản của nó, đấy là tất cả những gì còn trong tôi. Tôi thích mục đích
của cái xã hội mà Mác tưởng tượng ra: ”Đưa con người từ vương quốc tất yếu qua
vương quốc tự do” Con người chỉ được tự do thật sự khi nó thoát khỏi sự ràng
buộc của những cái tất yếu...
-
Tất yếu là cái gì trong khái niệm của Mác?
Tôi
giải thích. Tôn Thất Tần chăm chú nghe. Trong nhà tù không có sách, không có
báo, thảng hoặc có chút gì thuộc nền văn minh ấn loát lọt được vào đây thì đó
lại là sản phẩm của ngành tuyên giáo(4), mang theo những ngôn từ, những khái
niệm hoàn toàn xa lạ với những gì mà chàng trai hai mươi ba tuổi vào năm 1946
giữ lại từ một thời đã mất.
-
Như vậy Mác là người tìm tòi, còn những đệ tử của Mác thì kiếm chác.
-
Có thể hiểu như vậy.
-
Cái xã hội Cộng Sản mà Mác mơ tưởng có khác gì thiên đường của Thiên Chúa Giáo
hay Nirvana của Phật Giáo? Tại sao Cộng Sản các anh lại chống các tôn giáo?
-
Tôi không chống.
-
Vậy anh không phải là Cộng Sản rồi.
Nói
chuyện chủ nghĩa Mác trong tù thật vô duyên. Ngán lắm. Tôi đề nghị dẹp nó qua
một bên để chơi cờ. Tôn Thất Tần chiều tôi. Ông chơi cờ vào loại giỏi trong
trại. Tôi không thể là đối thủ của ông. Đối thủ của ông chỉ có hai: Phún Nàng
Cái và Lầm Sì Lần, hai ông nông dân người Hoa ở Lạng Sơn.
Tôi
lấy làm thú vị cách phiên âm Hán-Việt những cái tên dân dã của người Tàu. Dịp
Pún Mằn nghe xấu xí là thế mà khi phiên thành Diệp Bản Minh nghe thật đẹp,
sướng cái tai. Phún Nàng Cái nghe chẳng ra gì, nhưng thử đọc theo cách phiên âm
Hán Việt mà xem. Nó sẽ thành Phan Hành Giai, tuyệt. Phún Nàng Cái có ông bạn
không lúc nào rời là Lầm Xì Lần, hình như đọc theo âm Hán Việt là Lâm Sĩ Liên
thì phải.
Hai
ông nông dân ở một làng biên giới Việt-Trung trở thành tù số lẻ vì một nguyên
nhân lăng nhăng. Theo các bạn tù thì đâu như chỉ vì một câu nói không đẹp đối
với lãnh tụ họ Mao trong một bữa rượu, thậm chí tỉnh dậy hai ông chẳng nhớ họ
đã nói gì. Cũng như trường hợp Dip Pún Mằn, tuy là phản động chống chế độ,
nhưng Ban Giám thị trại biết rõ họ là ai. Đã không sợ hai tên phản cách mạng
kích động tù nổi loạn hoặc làm chuyện tầm bậy nào khác trong trại, họ còn cho
hai ông vào toán tự giác chuyên về nông nghiệp. Ngoài cái sự phải xa vợ xa con
và buổi tối phải vào nhà giam có khóa ngoài, hai ông nông dân vẫn i xì là hai
ông nông dân cày sâu cuốc bẫm. Phún Nàng Cái và Lầm Sì Lần đã ở tròm trèm hai
lệnh, có triển vọng được thêm một lệnh thứ ba, nhưng xem ra họ yên tâm lắm. Là
dân của cái nhà nước này tốt nhất là yên tâm. Không yên tâm cũng chẳng được. Nó
cho sống được sống, bắt chết phải chết, suy nghĩ mà làm gì! Mà họ cũng chẳng
buồn trốn. Ngoài cái làng quê chôn nhau cắt rốn ra mãi tận Lạng Sơn, hai ông
chẳng biết nơi nào khác, kể cả nước Tàu, từ đó các cụ tổ của hai ông đã tới
đây. Ngoài giờ làm việc Phún Nàng Cái và Lầm Xì Lần bầy bàn cờ ra, dìm mọi sự
đời trong những trận chiến ác liệt không có tiếng súng.
Cờ
tướng ở trong tù là thú vui duy nhất của những ông già. Nhìn họ tập trung tư
tưởng vào những nước cờ hiểm hóc để giành chiến thắng thì biết. Không có gì làm
cho những con người đau khổ quên đi được thực tại tàn nhẫn bằng cái bàn cờ bằng
giấy và những quân cờ cũng bằng giấy bồi, hoặc bằng gỗ tự gọt lấy. Nhờ bàn cờ
họ đặt cuộc sống đáng nguyền rủa xuống chân để thoát tục.
-
Ông Hồ cũng là một tay cờ giỏi. - Tôn Thất Tần nói.
-
Sao bác biết?
-
“Lạc nước, hai xe đành bỏ phí. Gặp thời một tốt cũng thành công”. - Ông trích
dẫn - Không giỏi cờ không thể đúc kết chân lý nhẹ nhàng như rứa được.
-
Bác có nghĩ tới một ngày bác sẽ ra khỏi đây không?
-
Anh muốn nói tới cái thời sẽ khác đi?
-
Cho dù cái thời có không khác đi thì người ta cũng không thể giam một con người
mãi mãi.
-
Tại sao lại không thể? Anh quên anh đã nói với tui về chuyên chính vô sản ở
Liên Xô ra răng rồi sao? Ở Việt Nam mình còn may, người ta không giết. Người
Châu Âu thẳng ruột ngựa, chứ người Việt mình thâm. Nuôi thằng tù chẳng hết bao
nhiêu mà lại thu về được rất nhiều...
Nhìn
con người gày còm xanh xao ngồi trước mặt mà thương. Tôn Thất Tần sau khi được
giảm án xuống hai mươi năm còn được giảm nhiều lần nữa. Cho tới khi sạch án.
Tính ra tới nay ông đã ngồi hết nợ nhà nước từ lâu. Thế nhưng ông vẫn không
được tha, vẫn cứ ở tù. Không còn án thì có lệnh.
-
Người ta không thả tui là do hoàn cảnh. - Tôn Thất Tần giải thích - Đất nước bị
chia cắt. Gia đình tui ở phía bên kia, chẳng lẽ họ thả tui về Nam à? Còn thả ở
miền Bắc thì biết thả tui về đâu?
-
Về đâu là chuyện của bác. Hết hạn thì phải tha.
-
Đâu có rứa được. Thả ra để tui đi lang thang tuyên truyền phản động à?
Cứ
như thể tôi đang nói chuyện với một cán bộ tuyên huấn vậy.
Tôn
Thất Tần không nghĩ tới ngày về. Ông sống bởi vì ông chưa chết.
-
Có số cả đấy anh ạ! - ông nói khi ngồi bên cạnh tôi đang thoi thóp trong một
trận dịch kiết lỵ làm chết cả chục tù trong trại. - Xem ra số anh số tui còn
sống dai lắm.
Trận
dịch bắt đầu từ chuyến tù hình sự được chuyển bằng xe ca từ trại Hà-Nam-Ninh
(5) lên. Trong đám tù nhét chặt cứng trong xe có một người đang hấp hối vì bệnh
kiết lỵ. Người hấp hối thì để cho họ được chết yên, còn chuyển lên làm gì, tôi
không hiểu. Chắc hẳn người ta muốn tống khứ tất tật đám tù cũ đi để giải phóng
mặt bằng đón tù mới. Anh tù hấp hối không phải nhập trại, mà được đưa thẳng vào
nhà xác. Đàng nào thì y cũng không trốn được nữa rồi. Đi còn chẳng nổi, nói gì
trốn.
Ban
đêm người hấp hối tỉnh lại, kêu gào thảm thiết. Nằm trong nhà giam tôi nghe
tiếng y kêu khàn khàn yếu ớt như tiếng mèo. Chẳng có ai trong số lính gác rẽ
vào xem y làm sao. Sáng ngày ra không thấy y trong nhà xác, mới đi tìm thì thấy
y nổi lềnh bềnh trong bể nước. Thì ra y khát, gào mãi chẳng thấy ai đến. Y liền
bò ra ngã xuống bể nước và chết chìm trong đó. Những người tù nói lính gác sợ
cái nhà xác. Đồn rằng ở đó có ma. Những con ma tù không giống các loại ma khác,
chết rồi chúng vẫn cứ luẩn quẩn ở nơi chúng qua đời. Tại sao không còn gì kiềm
tỏa mà chúng không về nhà thì không ai giải thích được. Vào những buổi mơ thâm
tối trời hay là sáng trăng suông lại hiện lên dọa lính, lính sợ bỏ chạy thì
chúng cười khanh khách.
Trong
trại Tân Lập có một số bể chứa nước cho trại viên dùng. Nước được bơm từ trạm
thủy điện đặt bên ngoài trại vào trong các bể trong một hệ thống bình thông
nhau.
Buổi
sáng bắt đầu trận dịch: Toàn trại ngã bệnh. Không có thuốc, hết người này đến
người khác theo nhau ra bãi tha ma dành cho tù.
Thêm
một lần tôi được mục kích sức đề kháng mãnh liệt của cơ thể Việt Nam. Những
người tù ốm vốn đã gày còm vì thiếu ăn vật vờ ngoài sân trại như những bộ xương
biết đi, chẳng được chữa chạy gì, chẳng có thuốc gì để uống, mà không chết.
Khi
dịch tắt thì đến lượt tôi bị bệnh. Trong thời gian có dịch tôi rất giữ gìn,
không dám dùng một chút nước lã nào, đến cả nước rửa mặt đánh răng cũng dùng
nước đã đun sôi. Nhà bếp ưu ái tôi, tôi muốn xin bao nhiêu nước chín cũng được.
Kiết
lỵ là một bệnh rất khó chịu. Sức khỏe xuống rất nhanh cùng với những cơn đau
quằn quại. Diệp Bản Minh, Tôn Thất Tần, cả hai ông nông dân phản cách mạng Phún
Nàng Cái và Lầm Xì Lần đều lo cho tôi. Chốc chốc mở mắt ra tôi lại thấy hoặc người
này hoặc người kia ở bên mình. Trần Chấn Hoa những ngày ấy chuyển đi chỗ khác -
y sợ lây. Vả lại, y cũng chán. Tôi kín như bưng. Chẳng có thể gợi ở tôi câu gì.
Đôi khi, sốt ruột, y hỏi thẳng vào chuyện vụ án. Tôi bảo công an dặn đây là bí
mật của Đảng không được nói với ai, thế là xong.
Một
đêm tôi thức giấc vì nghe mơ hồ có tiếng người gọi.
-
Ai đấy?
-
Em đây, Cao đây!
Trong
bóng đêm tôi thấy một bóng người lờ mờ cúi xuống. Cái bóng ghé sát tai tôi:
-
Anh ơi, anh đừng chết!
Tôi
bật cười. Làm sao có thể đừng chết được? Chết là cái không thể đừng. Sức mạnh
của cái chết là không thể ngăn cản.
Cao
ghé người nằm xuống. Đó là một thanh niên nhỏ bé, nhưng rất nhanh nhẹn, bị tập
trung cải tạo với tội danh biệt kích. Tôi không hiểu tại sao Cao bị tập trung
cải tạo. Nhưng tôi cũng chẳng buồn tìm hiểu. Trong nhà tù có quá thừa những
điều làm tôi ngạc nhiên. Đây là nơi tập trung những điều phi lý nhất nhưng có
thật. Nói theo cách Descartes (6), chúng tồn tại chỉ vì chúng hữu hình.
-
Trong trại chỉ có hai người Cộng Sản là anh và em. - tôi nghe tiếng Cao thì
thào bên tai - Em có trách nhiệm bảo vệ anh.
Tôi
cố cựa quậy cánh tay nặng như chì để nắm lấy tay Cao:
-
Cảm ơn em.
-
Em đã bàn với bác Tần. Bác với em sẽ cố gắng chăm nom anh để anh chóng khỏe...
Tôi
cười cay đắng. Giờ đây tôi có hai người đang ra sức giúp tôi chống lại cái
chết: Một phản cách mạng và một Cộng Sản.
Sáng
hôm sau, theo lời khuyên của Cao, tôi viết một bức thư gửi về cho gia đình để
gia đình xin thăm đột xuất, mang thuốc cho tôi. Tôi viết, không mấy tin tưởng ở
kết quả bức thư. Nó đến được hay không là một chuyện. Nhà cầm quyền có cho gia
đình lên thăm tôi hay không là chuyện khác. Bức thư đã đến. Vợ tôi tức tốc lên
ngay. Bằng cách nào Cao gửi được bức thư tôi không biết. Chắc Cao bàn với Dịp
Pún Mằn và gián điệp quốc tế đã liều mạng để cứu tôi.
Từ
hôm đó hàng ngày đi làm về là Cao đến giặt giũ quần áo cho tôi, lo lắng cơm
nước cho tôi, mặc dầu Cao ở một toán khác. Tôi được ăn nhiều rau hơn, thức ăn
ngon hơn, cơm cũng nhiều hơn, có hôm là ngô tươi. Thức ăn của trại được hâm
lại, nóng hổi. Trong bữa ăn, Tôn Thất Tần và Cao ngồi bên, khuyến khích tôi ăn
từng miếng.
Tôn
Thất Tần mách tôi:
-
Anh phải ngăn thằng Cao. Ai lại nó leo vào cả vào trong kho của Ban lấy cắp mì
chính, muối, cả ngô nữa. Họ mà bắt được thì chết!
Cao
nghe tôi trách, cười hì hì:
-
Nghề em mà, anh đừng lo.
Lúc
ấy tôi chưa biết Cao là chiến sĩ đặc công.
Cũng
trong những ngày này Cao kể cho tôi nghe vì sao cậu ta mang tội danh biệt kích.
Hai
năm trước, tại vùng chiến thuật 1 (7), tiểu đội trinh sát của đơn vị đặc công
mà Cao là tiểu đội trưởng đang len lỏi trong rừng thì gặp một trung đội thám
báo địch từ trực thăng đổ xuống. Một trận tao ngộ chiến dữ dội nổ ra. Kém hẳn
đối phương về quân số và trang bị, các chiến sĩ trong tiểu đội Cao lần lượt ngã
xuống. Còn lại một mình Cao và một đồng đội bị thương nặng. Cao bắn trả cho tới
khi khẩu AR15 hết đạn. Đúng lúc Cao đập khẩu súng, cõng đồng đội xông ra để
cướp khẩu súng khác quyết tử với địch thì viên sĩ quan phía bên kia kêu
lên:”Không được bắn! Phải bắt sống!”
Đưa
Cao về vị trí đổ quân, viên sĩ quan ra lệnh cởi trói cho Cao, rồi rót rượu mời
Cao:”Tôi hân hạnh được mời rượu một người anh hùng! Hãy bỏ qua một bên những
bất đồng chính kiến, chuyện bên này bên kia, để uống với tôi, một người Việt,
đồng bào anh!”. Cao uống. Theo yêu cầu của Cao viên sĩ quan chôn cất cẩn thận
các bạn đồng đội của Cao trước mặt Cao, rồi gửi trực thăng đưa Cao về Sài Gòn.
Cao
bằng lòng chiêu hồi. Quân đội Sài Gòn cho Cao đi học tại khu biệt kích Long
Thành. “Không dễ dàng gì mà vào trinh sát trong một trường huấn luyện biệt kích
của địch, Cao nghĩ. Mình tương kế tựu kế vào trong đó tìm hiểu rồi trở về báo
cáo với trên, hóa hay!”. Xong lớp huấn luyện Cao được ném ra miền Bắc, xuống
khu vực Yên Bái. Sau khi giết toán trưởng biệt kích, Cao ôm điện đài chạy ra
quốc lộ, giơ súng chặn một chiếc xe tải, bắt chở thẳng về Hà Nội.
Cao
được đón tiếp tử tế, được nuôi nấng chu đáo, sang trọng nữa là khác, trong suốt
thời gian ngồi ở cơ quan Bộ Tổng Tham mưu. Người ta bảo Cao viết lại toàn bộ
những gì cậu ta trinh sát được tại khu Long Thành. Viết xong thì cán bộ quân
pháp tới bắt đi giao cho bên công an. Đó là lý do vì sao Cao có tội danh biệt
kích mà không có án hình.
Tôn
Thất Tần biết chuyện, lắc đầu:
-
Người ta đối với cậu rứa tệ quá!
-
Thế người ta đối với bác không tệ à?
-
Tui khác, cậu khác. Tui là phản cách mạng. Cậu là cách mạng.
Sau
khi bị tôi trách, Cao không dám leo vào kho công an ăn trộm nữa. Có vẻ cậu ta
coi ý kiến của tôi là mệnh lệnh cấp trên, không thể cưỡng.
Cơn
bệnh qua, tôi ăn giả bữa, lúc nào cũng thấy đói. Tôi không nghĩ tới cái gì khác
ngoài miếng ăn. Thèm đủ thứ. Thậm chí nghĩ tới một miếng cháy nước dãi đã ứa
ra.
Còn
nhớ một hôm toán tôi được lệnh đi chữa nhà cho Ban Giám thị, mấy ông bạn tù già
mừng rơn khám phá ra lu nước gạo của Ban đầy cơm thừa đổ đi lẫn lộn với trăm
thứ bà dằn khác. Tôi được phân công ở trên mái để dặm lại mấy chỗ tranh mục,
đồng thời canh chừng cho các bạn tù xột xệt(8) bên dưới. Tôi vờ cặm cụi làm,
nhưng mắt vẫn bao quát một vùng chung quanh. Chỗ cơm thừa trong phút chốc đã
trở thành nồi cháo ngon lành, tuy phảng phất mùi chua của dấm bỗng.
Ở
bên dưới người ta gọi lên:
-
Bác Hiên ơi! Bác xuống ăn với chúng tôi.
Tôi
cảm thấy ruột gan cồn cào, nhưng tôi rùng mình khi nghĩ tới lu nước gạo.
-
Cảm ơn các bác. Các bác cứ ăn đi. Để tôi gác cho.
-
Chúng tôi sẽ để phần bác.
-
Tôi không ăn đâu. Mấy bữa nay bụng dạ tôi không tốt.
-
Vậy cũng được. Chúng tôi ăn hết nhá?
Trong
nhà tù cuộc đánh nhau với bản thân không bao giờ kết thúc. Chỉ có thể thắng
từng trận một. Câu chuyện năm xưa với ông Đặng Xuân Thiều trở về trong trí nhớ.
Biết ông được các đồng chí gọi là “anh hùng thành Ký Con (9)”, vì ông đã chịu
đựng được hai mươi bảy trận đòn tra liên tục, tôi hỏi ông:
-
Chú ơi, làm thế nào mà chú chịu đựng giỏi thế?
Ông
cười hà hà:
-
Giỏi gì! Tao cứ cố chịu từng trận một, Chịu được đến đâu biết đến đấy. Có thể
trận thứ hai mươi tám thì tao gãy, biết đâu đấy, ai dám nói chắc, nhưng chúng
nó mệt, chúng nó bỏ cuộc thì tao được anh em bốc lên tôn làm anh hùng, chứ anh
hùng cái gì đâu...
Ông
không khiêm tốn giả vờ. Ông nói sự thật “chúng nó mệt, chúng nó bỏ cuộc”, nhưng
chất anh hùng thật lại ở chính trong lời thú nhận “biết đâu đấy, ai dám nói
chắc”. Cái chất ấy ông vẫn giữ được khi cách mạng thành công rồi, có thể nhân
danh những hy sinh để đòi hỏi đãi ngộ. Là anh em với tổng bí thư Trường Chinh,
ông có thể kiếm được một chức to hơn chức vụ trưởng, nhưng ông thích làm vụ
trưởng Bảo tồn bảo tàng để chăm lo cho những gì tổ tiên để lại không bị mai
một. “Thấy đền chùa bị phá nhiều quá, tao sót, ông nói. Hết Bắc thuộc lần thứ
nhất đến Bắc thuộc lần thứ hai, rồi trải qua biết bao nhiêu cuộc chiến tranh
khác, các công trình kiến trúc của các cụ có còn được là mấy. Phải có người giữ
gìn chứ!”
Những
tấm gương của thế hệ đi trước nâng đỡ tôi rất nhiều trong những năm tù, từ ngày
đầu tiên cho tới ngày cuối cùng. Khi bị những cơn đói dày vò tôi thường nhớ tới
các bậc tiền bối cách mạng đã chịu đựng thế nào trong nhà tù đế quốc để động viên
mình vượt qua sự khốn khó.
Những
cơn đói cồn cào vào cái đận giả bữa bớt hành hạ tôi còn nhờ những ván cờ của
Tôn Thất Tần. Về cờ tướng tôi không đáng học trò ông. Nhiều hôm, mải đánh cờ,
tôi quên cả ăn. Tôi quên thì đã có Cao nhớ. Thấy chúng tôi đang mê mải chơi cờ
cậu ta vác bát ra lĩnh cả cho tôi lẫn Tôn Thất Tần.
Tôi
cũng thích để Cao nhận phần cơm cho chúng tôi. Tuy việc chia cơm trong các toán
số lẻ có tiếng là công bằng, nhưng không phải vì thế mà được phép lơ là. Cao
không hổ danh chiến sĩ trinh sát. Mắt cậu ta tinh như mắt mèo, không cho phép
ai qua mặt.
Tù
số lẻ chia cơm bằng cân. Người ta làm lấy một cái cân thô sơ để cân cơm. Cái
cân tự tạo giống như cân tiểu ly, chỉ cần thêm hoặc bớt một chút xíu cơm bằng
đầu ngón tay là nó đã mất thăng bằng. Tù số chẵn, dù boọc, dù có án, đều nhìn
cái cân bên số lẻ bằng con mắt khinh bỉ. Quen ăn tiêu về nhiều ngoài xã hội, họ
coi cái sự cân cơm là ti tiện. Tù số chẵn dùng bát để đong khi chia cơm, bát
vục mạnh thì cơm được nêm chặt, vục yếu thì cơm xốp, cho nên suất cơm của các
sĩ quan bao giờ cũng lớn hơn suất cơm lính.
Về
chuyện chia thịt thì cả số lẻ lẫn số chẵn đều chia như nhau, theo cùng một
cách. Tù sắp bát thành hàng, người chia thịt chọn từng miếng đều nhau gắp vào
mỗi bát. Chia cho thật đều rất khó vì nhà bếp chặt miếng to miếng nhỏ, miếng
nạc miếng xương, không bằng nhau. Người ta giải quyết chia cho công bằng bằng
cách viết tên cả toán vào một mảnh giấy, một người cầm mảnh giấy quay lưng lại
những bát thịt đã được chia, một người khác gõ bất ưng vào một cái bát nào đó,
người cầm giấy xướng lên một cái tên, thế là người có tên lĩnh phần thịt mang
đi. Cách này gọi là quay mặt đặt tên. Như thế, mỗi lần trại cho ăn thịt là mỗi
lần mình phải nhận phần trong bát người khác. Có những cái bát cóc cáy, nhìn mà
ghê, lúc đầu tôi rất sợ, mãi mới quen. Mọi người đều cho rằng Tôn Thất Tần bị
lao phổi, nhưng đến bữa có thịt, người nào vớ phải bát của Tôn Thất Tần cũng
vẫn ăn ngon lành như thường. ê trong tù mà khắt khe chuyện vệ sinh cũng chẳng
được. Đã ở tù thì phải chịu ở lẫn với đủ thứ bệnh tật. Trong trại có cả người
hủi. Anh ta ở chung với mọi người, nhưng chưa thấy ai bị lây. Về sau, gặp được
viên giám thị tốt bụng, anh ta được ở cách ly trong một phòng con tí xíu ở đầu
hồi trạm xá (10) và từ đó thôi không phải đi lao động hàng ngày nữa.
Trong
trại giam dù anh có án hay anh boọc, dù anh mang số lẻ hay số chẵn, dù anh là
tù thường hay tù binh, đều là tù tuốt. Tù thì phải lao động. Nhưng nếu lao động
để mà sống thì chuyện dễ hiểu. Khó hiểu ở chỗ lao động cải tạo kia.
Người
nước ngoài thường có sự hiểu lầm cụm từ lao động cải tạo. Họ tưởng chỉ có tù
mới phải lao động cải tạo. Hoàn toàn không phải thế. Sau năm 1950, biên giới
Việt - Trung thông thương, khái niệm lao động cải tạo được du nhập vào Việt Nam
lần đầu. Nó tới cùng với sự học tập giáo trình Lịch Sử Tiến Hóa Nhân Loại,
trong đó Charles Darwin (11) được nhắc đến một chút, Mác và Engels một chút,
còn lại là sự phát triển tư duy của Mao Trạch-đông và các lý thuyết gia nội
hóa. Chúng tôi, con cháu loài khỉ (12), phải biết ơn lao động, mà là lao động
chân tay kia, chứ lao động trí óc không được tính đến, nhờ có nó mà tổ tiên
chúng tôi mới thành người.
Câu
nói “Trí thức mà không có thực hành giá trị không bằng cục phân” của Mao chủ
tịch được nhắc đi nhắc lại là trong thời kỳ này. Người mác-xít chỉ biết có một
thứ trí thức ứng dụng, trí thức lý thuyết là đồ bỏ. Trong chính sách cán bộ,
khi xem xét khả năng cán bộ để cất nhắc, để điều động, tiêu chuẩn lao động chân
tay được coi như một thử thách không thể thay thế. Nói cách khác, người ta
thành tín cho rằng có thể cải tạo con người bằng lao động. Thành thử cán bộ bên
ngoài cũng phải đi lao động chân tay thường xuyên, gọi theo cách Trung Quốc là
hạ phóng. Tôi đã hạ phóng một lần về mấy xã huyện Đông Quan tỉnh Thái Bình với
ông Nguyễn Đức Quỳ, thứ trưởng Bộ Văn Hóa. Chúng tôi đi cầy, đi cấy, be bờ, tát
nước cùng với nông dân. Tôi làm giỏi hơn các cán bộ thành phố nhờ những năm ở
làng với bà cô trọn đời đồng trinh. Nhưng cả tôi, cả ông thứ trưởng có học đều
không tin lao động có thể làm cho chúng tôi người hơn con người chúng tôi hiện
có. Cứ tới thứ bẩy, chủ nhật là chúng tôi lấy cớ đi họp trên tỉnh để lên thị xã
Thái Bình tắm nước nóng.
Người
tù, theo quan điểm của các nhà lãnh đạo, lại càng cần phải cải tạo bằng lao
động. Họ cho rằng người tù bị tù là do có những tư tưởng xấu, tư tưởng địch,
nếu chịu khó lao động, anh ta có thể tự cải tạo mình để trở thành người tốt.
Những người tù chăm chỉ lao động được giảm án nhiều hơn những người tù lười lao
động. Những người yếu đuối không có khả năng lao động cũng bị coi là lười, đâm
ra bị thiệt.
Toán
tôi là toán tạp dịch, nay đi nhổ cỏ lúa, mai đi cuốc ruộng. Từ trong xà lim ra,
bốn năm có lẻ không đụng tay đụng chân đến việc gì, nay cầm cuốc cầm cày, tôi
rất mệt. Nhưng tôi cố gắng để không kém mọi người, bởi vì công việc được khoán
theo tổ (nhóm nhỏ), mình làm ít thì người khác làm nhiều. Hơn nữa tôi không
muốn để cho những kẻ muốn hành hạ tôi được thấy tôi khổ sở vì lao động vất vả.
Tôn Thất Tần biết ý, nói nhỏ với anh em bên cạnh chỉ làm túc tắc thôi, đạt mức
thì tốt, không đạt thì thôi, cho tôi nương vào. Được cái người ta chỉ có thể
quở trách một cá nhân làm không đạt mức, chứ khi cả tập thể không đạt thì huề,
bao giờ cũng có cả đống lý do để mà biện bạch.
Một
hôm toán được phân công cuốc đồi trồng sắn. Trời nắng chang chang, quanh chỗ
làm không một bóng râm, đồi lại toàn sỏi lổn nhổn, tôi vừa làm vừa thở hồng
hộc. Quản giáo ngồi nấp dưới một cây sắn còn sót lại, phanh áo ra mà quạt, mặt
đỏ lựng. Khi được lệnh nghỉ, tôi nằm vật ngay ra chỗ đất vừa cuốc, thiếp đi.
Tôi mơ thấy mình đang nằm bên một dòng sông trong vắt, nước ụp oạp mênh mông,
cái transistor đặt trên bụng. Từ trong máy phát ra bản Concerto Số Một của
Tsaikovsky(13) do Van Klibern chơi. Tôi đang sung sướng tận hưởng khúc nhạc
tuyệt vời, nhờ nó Van Klibern được giải thưởng quốc tế về dương cầm năm 1956,
được nước Mỹ trải thảm đón mừng, được tổng thống Mỹ đích thân tiếp, thì nó nhỏ
dần rồi mất hẳn, như thể sóng điện bị lạc. Tôi cuống quít vặn núm đài nhưng
không tìm ra. Tỉnh dậy, thấy tay mình vẫn còn đang loay hoay cái núm vô hình,
trên đầu mắt trời chói lòa.
-
Anh ngủ tài thiệt! - Tôn Thất Tần nói - Được một giấc rồi đấy.
Tôi
đứng lên, bàng hoàng. Dưới chân tôi là một hình người in rõ nét trên mặt đất
lổn nhổn.
-
Tôi được một giấc mơ đẹp.- tôi nói - Hoài của, có một bản nhạc hay ơi là hay mà
không nghe được hết. Bác không chợp mắt một chút à?
-
Chợp răng được. Nắng rọi vào mắt như ri. Tui đang mải ngắm con trâu.
Chênh
chếch dưới chân chúng tôi một con trâu đang lười biếng vặt từng nạm cỏ hiếm
hoi. Cái đuôi trần trụi với túm lông thưa quật đi quật lại không mệt mỏi.
-
Nó có gì lạ?
-
Tui ghen với nó. Nó sướng quá!
-
Sướng cái gì chứ ?
Một
nụ cười chua chát thoảng bay trên khóe miệng “Jean Valjean gọi bằng cụ”:
-
Nó không bao giờ phải cải tạo. Ra đời đã lao động rồi. Đỉnh cao của vinh quang
(14)! Loài người từ khỉ mà lên nhờ lao động. Chúng mình lao động mãi như ri rồi
sẽ tiến lên loài chi nhỉ?
Trích "Đêm giữa ban ngày" - Vũ Thư Hiên
__________________________________
Chú
thích:
(1)
Nhân vật chính trong cuốn Những Người Khốn Khổ (xuất bản năm 1862) của đại văn
hào Pháp Victor Huygo (1802-1885).
(2)
Món ăn vùng Trung Á
(3)
Nguyên thứ trưởng Bộ Y Tế nước Cộng Hòa Xã Hội Chủ Nghĩa Việt Nam.
(4)
Việc không cho tù được đọc sách còn lại cho tới bây giờ. Năm 1995, khi Hoàng
Minh Chính bị bỏ tù (xã hội chủ nghĩa) lần thứ ba, ông muốn đọc các sách về
luật pháp để tự bào chữa khi ra tòa người ta cũng không cho. Kể cả đến cuốn
sách về luật Việt Nam do Nhà xuất bản Pháp lý (của Nhà nước) ấn hành ông cũng
không được nhận.
(5)
Một tỉnh gồm Nam Định, Ninh Bình và Hà Nam nhập lại dưới thời Lê Duẩn.
(6)
René Descartes (1596-1650), triết gia Pháp. Câu nói nổi tiếng của ông: “Tôi tư
duy, vậy tôi tồn tại”.
(7)
Vùng từ Quảng Trị - Thừa Thiên kéo dài tới Đà Nẵng.
(8)
Tiếng lóng trong nhà tù = nấu nướng.
(9)
Tên thành phố Hải Phòng do những nhà cách mạng tiền bối đặt.
(10)
Nơi chữa bệnh cho tù, bệnh xá.
(11)
Charles Robert Darwin (1809-1882), nhà cách mạng trong sinh vật học, giải thích
sự tiến hóa của nhân loại theo quan điểm duy vật.
(12)
Vì nghe thế nó... khỉ quá, nên ông Trần Văn Giàu đã sửa lại trong giáo trình
Duy Vật Lịch Sử của ông thành hầu nhân.
(13)
Tchaikovsky Piotr Ilich (1840-1893), nhà soạn nhạc nổi tiếng người Nga
(14)
Khẩu hiệu của Đảng: “Lao dộng là vinh quang!”.
No comments:
Post a Comment