Saturday 23 November 2013

CHIẾN LƯỢC BẮC CỰC CỦA TRUNG QUỐC (Nguyên Giang - Thông Luận)




Được đăng ngày Chủ nhật, 24 Tháng 11 2013 00:26

Cuộc đua của những 'ông lớn'

Trong 7 năm qua, 11 quốc gia gồm Ba Lan, Nga, Phần Lan, Pháp, Thụy Điển, Iceland, Tây Ban Nha, Đan Mạch, Singapore, Canada và Nhật đã lần lượt bổ nhiệm đại sứ của mình ở Hội đồng Bắc cực (Antarctic Committee) nhằm phân tích và đánh giá tình huống mới nổi có tên gọi là "Cuộc đua Bắc cực". Nhưng mục đích thật sự của việc chỉ định đại sứ nói trên là nhắm đến khả năng khai thác nguồn tài nguyên khoáng sản và sử dụng các tuyến hải trình Bắc cực để vận chuyển hàng hóa từ châu Âu sang châu Á.

Theo tờ The Diplomat, số phát hành tại Nhật ngày 21/11/2013, Trung Quốc đang tham gia “cuộc đua Bắc cực” một cách thận trọng với mục tiêu trọng tâm là kinh tế.“Ông lớn” TrungQuốc cũng không đứng ngoài cuộc đua hấp dẫn và không kém phần khốc liệt này.

Vậy đâu là động cơ chính khiến Trung Quốc quan tâm mạnh mẽ đến khu vực nằm cách điểm cực Bắc của mình đến hơn 1.400 km như vậy ?

Bắc cực có gì ?

Vào năm 2008, Cơ quan khảo sát địa chất Hoa Kỳ (USGS) ước lượng Bắc cực chứa khoảng 13% trữ lượng dầu mỏ, 30% khí đốt tự nhiên và 20% khí đốt hóa lỏng chưa được khám phá của thế giới. Nói cách khác, đó là 90 tỷ thùng dầu, hơn 47 nghìn tỷ mét khối khí đốt tự nhiên, và 44 tỷ thùng khí đốt hóa lỏng.

Ngoài ra, lợi ích tiềm năng từ hoạt động vận chuyển hàng hóa thương mại qua ngã Bắc cực có vẻ hấp dẫn hơn so với tuyến hải trình qua kênh đào Suez.

Cụ thể, trong tháng 8 và 9 năm 2009, hai tàu vận tải hạng nặng của Đức là MV Beluga Foresight và MV Beluga Fraternity đã chuyên chở hàng ống thép từ Arkhangelsk (Nga) đến Nigeria thông qua tuyến hải trình biển Bắc (NSR). Tuyến đường mới này đã rút ngắn được khoảng 3.000 hải lý, và tiết kiệm 200 tấn nhiên liệu cho mỗi tàu, trị giá tương đương 600.000 USD.

Một năm sau, tàu MV Nordic Barents của Hồng Kông đã vận chuyển quặng sắt từ Kirkenes (Na Uy) đến Thượng Hải trên cùng một tuyến đường, và tiết kiệm chi phí trên 180.000 USD.

Trong năm 2012, 46 tàu đã chuyên chở hơn 1,2 triệu tấn hàng hóa thông qua NSR, tăng 53% so với năm 2011. Các nhà nghiên cứu dự đoán đến năm 2020, 30 triệu tấn hàng hóa sẽ được vận chuyển qua tuyến đường mới này.

Ngoài ra, một lý do quan trọng khác là cơ hội xâm nhập các nguồn cá ở Bắc Băng Dương mà báo cáo của cựu đại sứ Trung Quốc tại Na Uy Đường Quốc Cường thì các "ngư trường mới" sẽ trở thành "kho dự trữ protein sinh học lớn nhất thế giới".

Trung Quốc là nước châu Á đầu tiên quan tâm và nỗ lực để trở thành thành viên chính thức của Hội đồng Bắc cực, nhưng vì khoảng cách địa lý rộng lớn với Bắc cực đã giới hạn cơ hội của Bắc Kinh - ít nhất là với các thành viên Hội đồng Bắc cực - để thiết lập chương trình nghị sự và hình thành chiến lược tận dụng cơ hội mới ở Bắc cực.

Theo các nhà phân tích quốc tế, rõ ràng nguồn tài nguyên quý giá đang nằm dưới các lớp băng của Bắc cực từ lâu đã nằm trong tầm ngắm của Trung Quốc. Nhưng một số nước như Nga và Canada lại tỏ ý nghi ngờ mối quan tâm của Trung Quốc với Bắc cực mang nặng yếu tố địa chính trị.

Nhà nghiên cứu Lý Chấn Phúc thuộc Đại học hàng hải Đại Liên, trong một bài viết đã nói rằng, “Bắc cực có giá trị quân sự đặc biệt”, và “bất cứ ai kiểm soát được tuyến hải trình Bắc cực sẽ kiểm soát được tuyến hàng hải mới của kinh tế thế giới và chiến lược quốc tế”.

Trong năm 2008, 5 cường quốc Bắc cực là Mỹ, Nga, Canada, Đan Mạch và Na Uy đã ký Bản tuyên bố Ilulissat với nội dung các thành viên Hội đồng Bắc cực   nên giải quyết êm thấm mọi tranh chấp chủ quyền, và cùng nhau chia sẻ khai thác Bắc cực.

Bắc Kinh đã phản ứng gay gắt Bản tuyên bố Ilulissat vì cho rằng đó là âm mưu của Hội đồng Bắc cực   nhằm gạt nước này ra khỏi cuộc chơi.

Năm 2008, đại tá Hàn Húc Đông, giáo sư Đại học quốc phòng Trung Quốc, đã nôn nóng kêu gọi, “khả năng sử dụng vũ lực là điều không thể loại trừ khỏi Bắc cực, vì tính chất phức tạp của các tranh chấp chủ quyền”, theo The Economist.

Năm 2009, Trợ lý ngoại trưởng Hồ Chính Dược đã tuyên bố các nước vùng cực phải “bảo đảm sự cân bằng quyền lợi của các quốc gia duyên hải cũng như lợi ích chung của cộng đồng thế giới”.

Tháng 3/2010, chuẩn đô đốc đã nghỉ hưu Doãn Trác nói rằng “Bắc cực thuộc về tất cả các dân tộc trên thế giới và chẳng nước nào có thể tuyên bố chủ quyền với nó cả”. Và vị này còn nói thêm rằng Trung Quốc phải có quyền với nguồn tài nguyên Bắc cực.

Mặc dù những tuyên bố nói trên đã được làm mềm đi trong cả hai tuyên bố chính thức và báo chí nhà nước nhưng những phát ngôn quen thuộc của Trung Quốc đã lộ ra một chút đe dọa. Bắc Kinh sau đó đã phải nhấn mạnh sự tôn trọng của mình đối với Hội đồng Bắc cực, và hạn chế nghiêm ngặt những tuyên bố nóng vội, nhằm nghiên cứu lại chiến lược ngoại giao của mình.

Cụ thể, người phát ngôn Bộ ngoại giao Trung Quốc Hồng Lỗi đã phát biểu tại một cuộc họp báo hồi đầu năm 2013 rằng, “các nước Bắc cực và các nước không thuộc Bắc cực cần phải hợp tác vì hòa bình, ổn định và phát triển bền vững tại Bắc cực, dựa trên việc công nhận lẫn nhau và tôn trọng các quyền của nhau cũng như sự hiểu biết và tin cậy lẫn nhau”.

Động cơ ẩn giấu sau những tuyên bố hùng hồn của Bắc Kinh là nhằm mục đích xác định Bắc cực như là lãnh thổ quốc tế, và bất kỳ thay đổi nào đều có liên quan đến các quốc gia trên thế giới, theo The Diplomat. Đồng thời, Bắc Kinh cũng nỗ lực giảm nhẹ những ám chỉ cho rằng Trung Quốc không hài lòng với sự cân bằng quyền lực hiện tại ở Bắc cực.

Vận động ngoại giao

Trung Quốc đã tăng cường hoạt động nghiên cứu địa cực. Từ năm 1985 đến năm 2012, Bắc Kinh đã tiến hành 5 cuộc thám hiểm Bắc cực và 28 cuộc thám hiểm Nam cực. Nước này cũng đã xây dựng Trạm nghiên cứu Hoàng Hà vào năm 2004 ở Ny-Alesund (Na Uy), và ký kết thỏa thuận với Công ty công nghệ Bắc cực Aker (Phần Lan) để đóng một tàu phá băng vào năm 2014, là chiếc thứ hai sau chiếc Tuyết Long mà Bắc Kinh đã mua của Ukraine vào năm 1993.

Ngoài ra, Trung Quốc còn có đại diện tham gia vào Ủy ban Khoa học Bắc cực, Tuần Hội nghị thượng đỉnh khoa học Bắc cực, Ủy ban Quản lý khoa học Bắc cực Ny-Alesund, và dự án Năm Quốc tế Địa cực.
Theo tờ The Diplomat, các động thái ban đầu của Trung Quốc trong chiến lược Bắc cực cho thấy Bắc Kinh đang háo hức để ngụy trang lợi ích thật sự của mình thông qua việc giám sát môi trường, bảo vệ đời sống Bắc cực, cũng như mối quan tâm về người dân bản địa.

Bắc Kinh hiện chi khoảng 60 triệu USD mỗi năm cho việc nghiên cứu địa cực, và đang xây dựng một Trung tâm nghiên cứu Bắc cực Trung Quốc - Bắc Âu ở Thượng Hải, và có kế hoạch gia tăng số lượng nhân viên nghiên cứu từ 5 lên đến... 1.000 người.

Thực tế, phương pháp này là khá thận trọng và có tầm nhìn xa, xuất phát từ nỗi ám ảnh về Mỹ và Canada, cùng với những động thái của Nga trong khu vực. Chẳng hạn như tuyên bố của Nga về chiến lược Bắc cực mới, sự hiện diện của Không quân và Hải quân Nga tại khu vực biên giới, và việc cắm cờ Nga ở Bắc cực vào năm 2007.

Bắc Kinh muốn truyền tải hình ảnh của Nga như là người hàng xóm nguy hiểm, còn Trung Quốc thì là “quốc gia yêu chuộng hòa bình”, và chỉ tập trung vào những chủ đề trung lập như tài trợ thám hiểm, nghiên cứu biến đổi khí hậu, hỗ trợ phát triển các dân tộc bản địa, bảo tồn văn hóa địa phương, thúc đẩy phát triển bền vững, vận động chống ô nhiễm môi trường và thúc đẩy du lịch.

Bằng cách phát triển vị thế mạnh mẽ trong các lĩnh vực này, Trung Quốc không chỉ có thể khai thác kiến thức của cộng đồng khoa học quốc tế mà còn có thể hợp tác với 6 tổ chức Bắc cực - là : Hội đồng Bắc cực Athabaskan, Hiệp hội quốc tế Aleut, Hội đồng quốc tế Gwich'in, Hội đồng Inuit Circumpolar, Hiệp hội Nga của người bản địa phương Bắc và Hội đồng Saami - là những tổ chức đại diện cho người dân bản địa và có tư cách thành viên thường trực của Hội đồng Bắc cực.

Vì vậy, Bắc Kinh có thể vận động cho lợi ích của mình trong Hội đồng Bắc cực   không qua con đường trực tiếp, mà sử dụng một kênh đặc biệt. Và nó đã chứng tỏ tính hiệu quả khi Trung Quốc trở thành quan sát viên thường trực của Hội đồng Bắc cực   ngày 15/5/2013.

Tuy nhiên, các động thái ngoại giao không thôi thì có vẻ không giúp Trung Quốc kiếm được chiếc ghế thành viên thường trực của Hội đồng Bắc cực  .

Chiêu bài “đồng tiền đi trước…”

Thật ra, những phương pháp tiếp cận “khoa học” nói trên chính là con đường dẫn đến mục tiêu thật sự của Trung Quốc ở Bắc cực, đó là lĩnh vực kinh tế và yếu tố địa chính trị.

Nhưng vì tính chất phức tạp trong các tranh chấp giành quyền khai thác tài nguyên khoáng sản giữa các quốc gia có lãnh thổ ở Bắc cực, nên có lẽ Trung Quốc trước mắt sẽ tập trung tìm kiếm các tuyến đường biển mới thay cho “tử lộ” Malacca.

Tuyến hải trình qua ngã Bắc cực sẽ cho phép Trung Quốc giảm chi phí vận chuyển, đa dạng hóa và đảm bảo an toàn cho hàng hóa, cũng như giảm nguy cơ xung đột với Hải quân Mỹ ở khu vực eo biển.
Nguyên chủ tịch Hồ Cẩm Đào đã nhận thức rõ các lỗ hổng trong tuyến đường vận chuyển của Trung Quốc. Theo các nhà phân tích Trung Quốc, đến năm 2020, từ 5% đến 15% giao thương nước ngoài của Trung Quốc sẽ được vận chuyển qua tuyến hải trình biển Bắc.

Các chuyên gia tại Công ty vận tải Tschudi Shipping (Na Uy) ước tính rằng tuyến đường từ Kirkenes hoặc Murmansk đến Thượng Hải sẽ giảm tổng thời gian hải trình khoảng 16 ngày.

Trong khi đó, chỉ số tiêu thụ ngày càng tăng buộc các công ty Trung Quốc phải đầu tư mạnh vào khai thác dầu khí và hoạt động vận chuyển. Rõ ràng những ước lượng về tài nguyên thiên nhiên ở Bắc cực đã hấp dẫn Bắc Kinh.

Tổng công ty dầu khí quốc gia Trung Quốc đã trở thành đối tác thứ ba của tập đoàn dầu khí quốc doanh Nga Rosneft (cùng với Eni và Statoil) trong các dự án thăm dò Zapadno-Prinovozemelsky (biển Barents), Yuzhno-Russky và Medynsko-Varandeysky (biển Pechora).

Như vậy, mục tiêu của Trung Quốc không chỉ là quyền truy cập vào các mỏ dầu mới, mà còn sở hữu công nghệ khoan dầu hiện đại mà nước này hiện đang thiếu.

Nguồn tài nguyên chiến lược thứ hai mà Trung Quốc nhắm đến là quặng sắt. Sinosteel và Tổng công ty truyền thông Trung Quốc đã đầu tư vào dự án Isua ở Greenland, dự đoán sẽ khai thác 15 triệu tấn quặng sắt mỗi năm, bắt đầu từ năm 2015.

Hiện nay, các quốc gia như Iceland phụ thuộc rất nhiều vào kim ngạch xuất khẩu thủy sản, và Trung Quốc đã rất tích cực trong việc thiết lập liên hệ kinh tế song phương với các thành viên nhỏ hơn của Hội đồng Bắc cực nhằm đảm bảo sự hậu thuẫn cho chiếc ghế thành thành viên thường trực của mình.
Bắc Kinh đã thiết lập hệ thống với mục tiêu khuyến khích sự phụ thuộc kinh tế của các quốc gia Bắc cực nhỏ với Trung Quốc.

Trong năm 2010, Trung Quốc đã cung cấp cho Iceland hợp đồng hoán đổi tiền tệ bổ sung trị giá 500 triệu USD để hỗ trợ hệ thống ngân hàng đang gặp khó khăn của Iceland.

Cũng trong năm 2010, Đan Mạch đã ký thỏa thuận với Trung Quốc trị giá 740 triệu USD trong các lĩnh vực như năng lượng, nền kinh tế xanh, nông nghiệp và an ninh lương thực.

Vào năm 2011, Đại sứ Đan Mạch tại Trung Quốc đã tuyên bố ủng hộ các nỗ lực của Trung Quốc để trở thành thành viên thường trực của Hội đồng Bắc cực. Vào tháng 1/2013, đại diện của Thụy Điển và Na Uy trong cuộc họp của Hội đồng Bắc cực   ở Tromsø thậm chí đã tuyên bố mong muốn bắt đầu quá trình thảo luận về vai trò của Trung Quốc trong Hội đồng Bắc cực.

Ngoài ra, gói hỗ trợ tài chính của Trung Quốc dành cho các nước nhỏ sẽ cho phép Bắc Kinh tham gia phát triển cơ sở hạ tầng ở Bắc cực. Đây là điều rất quan trọng nhằm duy trì hoạt động quanh năm của tuyến hải trình biển Bắc. Bao gồm xây dựng hải cảng, trạm sửa chữa tàu biển, đầu mối giao thông, và các trung tâm cứu hộ.

Hơn nữa, chi phí cao của các dự án phát triển cơ sở hạ tầng khoan dầu mới trong khu vực buộc các quốc gia Bắc cực phải thu hút đầu tư. Điều này mở ra cánh cửa cơ hội cho Trung Quốc nhằm phát triển ảnh hưởng và khả năng tiếp cận nguồn năng lượng trong tương lai.

Như vậy, có thể nói rằng chiến lược quốc tế mà Trung Quốc đang theo đuổi ở Bắc cực là hoàn toàn thực dụng. Không chỉ là phát triển kinh tế mà còn xây dựng vị thế toàn cầu của Trung Quốc... !

Nguyên Giang


No comments:

Post a Comment

View My Stats