Thuận
Văn (pro&contra)
Tháng
10 17, 2013
Võ
Nguyên Giáp đã về với đất giữa những tiếng tung hô về “thiên tài quân sự” và “phẩm
cách thánh nhân” của ông, giữa những lời phân trần biện minh cho thất bại
chính trị của ông, cả những nhận xét điềm đạm hay phê bình gay gắt nhất đối với
ông. [1] Không nhất thiết phải đóng góp thêm cái không khí ồn ào khi “tang lễ
quốc gia” sặc mùi đồng bóng vừa mới bị cắt ngang một cách chưng hửng ngay tại
thủ đô để tiếp khách giống như là… chạy cưới, tôi vẫn cảm thấy thiếu thiếu, vẫn
còn có một câu hỏi chưa có lời đáp ở nhân vật này. [2]
Câu hỏi đó là:
“Trời” sinh ra Võ Nguyên Giáp để làm gì?
Đã
ca ngợi ông là một “thiên tài quân sự”, là “thánh nhân” thì phải thừa nhận
chuyện “Trời sinh”: sinh ông ra, rồi phú cho ông một “thiên tài”, một phẩm cách
“thánh nhân”, ắt hẳn “Trời” đã sắp đặt sẵn cho ông một chương trình, một mục
đích và ý nghĩa nào đó, cho đời. Như thế thì cái ý nghĩa “thiên mạng” đó phải
thể hiện trong sự nhất quán, trong mối quan hệ tương liên giữa những chặng đời
mâu thuẫn mà những kẻ xưng tụng ông vẫn ấm ức gọi là “nghịch lý”, cái “nghịch
lý” của cuộc đời khởi đầu vinh quang trong vai trò “cầm quân” tại chiến trường
Việt Bắc để rồi tiếp tục một cách ê chề với những tháng năm “cầm quần” giữa
những mưu mô chính trị hậu cung tại Hà Nội, nói theo một câu ca dao hiện đại.
[3]
Sự
nhất quán giữa hai thái cực “cầm quân” và “cầm quần” ấy có thể nhìn qua học
thuyết của Thomas Malthus, nhưng đầu tiên là “thiên tài” và phẩm cách của ông
Giáp.
Chúng
ta thán phục một người là có “tài” khi kẻ đó làm được những điều mà kẻ khác làm
được nhưng làm bằng cách nhanh hơn, với cái giá rẻ hơn mà có thể đem lại kết
quả hay hơn. Chúng ta ngưỡng mộ một bậc “thiên tài” khi kẻ đó làm được những
điều độc sáng mà chưa ai từng làm được hay, không chỉ hơn khối kẻ bình thường
khác qua cách làm nhanh nhất, bằng cái giá rẻ nhất nhưng mang lại kết quả mỹ
mãn nhất mà còn có thể, qua cách ấy hay việc ấy, để lại một dấu ấn hay những ý
nghĩa khó phai nhạt qua những ảnh hưởng đến người khác, ít ra là trong lĩnh vực
của mình.
Nếu
“thiên tài” của Võ Nguyên Giáp kết tinh ở chiến thắng Điện Biên Phủ “lẫy lừng”
thì cái tài trời phú ấy không thể chấm hết sau phút giây bắn pháo hoa mừng
chiến thắng mà còn phải để lại những ý nghĩa “lẫy lừng” nào đó, ít nhất là cho
riêng vùng đất ấy, và ít ra là trong đường lối quân sự sau đấy.
Ông
là “thiên tài quân sự”, thế nhưng với những đồng chí thuộc vai vế đàn em “thiên
tài” ấy chẳng có một tý ty trọng lượng, chẳng để lại một dấn ấn hay ý nghĩa hay
ảnh hưởng nào, ngay trong lĩnh vực quân sự. Gạt ông ra ngoài trong những quyết
định trọng đại về chiến tranh, Lê Duẩn và Lê Đức Thọ đã không đếm xỉa gì đến
“thiên tài” của ông. Chiến dịch Mậu Thân, họ chỉ báo trước có một ngày. Chiến
dịch Quảng Trị, khi xương cốt bộ đội trắng cả đáy dòng Thạch Hãn, họ cũng bỏ
ngoài tai những ý tưởng chiến thuật của ông. [4]
Và
“chiến thắng lẫy lừng” ấy cũng chẳng mang lại một ảnh hưởng tích cực nào cho
những vùng đất hay con người đã trực tiếp và gián tiếp trả giá. Không nói xa
xôi đến “đất nước” hay “dân tộc”, gần ba phần tư thế kỷ sau ngày chiến thắng,
những “an toàn khu”, những “căn cứ địa”, những “chiến khu gió ngàn” nuôi dưỡng
nên chiến thắng ấy vẫn tiếp tục là những vùng đất đói nghèo nhất nước và, phần
đông, thế hệ trẻ lớn lên ở đó, muốn đổi đời thì chỉ có thể, hoặc ngược sang Lào
theo những “cung đường ma túy”, hoặc bỏ xuôi làm thuê hay làm đĩ. [5]
Giới
hâm mộ Võ Nguyên Giáp viện dẫn sự thất thế chính trị để biện minh cho sự vô can
của ông trước giá đắt trong Mậu Thân 1968 và Quảng Trị 1972-1973, thế nhưng cái
giá của Điện Biên Phủ 1954 đâu có rẻ chút nào? Bao nhiêu nông dân cầm súng đã
gục ngã, bao nhiêu tài nguyên đã tiêu tốn và những món nợ “xã hội chủ nghĩa anh
em” với hậu quả nhãn tiền về sự phụ thuộc? Mà, xét cho cùng, nếu tướng tài là
vị tướng không cần đánh mà có thể lấy được thành thì, chẳng cần đến những
“chiến công chấn động thế giới” kiểu ấy, những cựu thuộc địa có cùng hoàn cảnh
tại Á châu không chỉ đã giành lại độc lập với cái giá rẻ hơn mà, hơn thế nữa,
còn vươn tới những kỳ tích hậu thuộc địa lẫy lừng hơn, rất nhiều.
“Chiến thắng lẫy lừng” ấy là một món hàng xa xỉ, cực kỳ
hoang phí, không chỉ hoang phí bằng xương bằng máu mà còn hoang phí bằng sự tụt
hậu và phụ thuộc, phụ thuộc ngay vào kẻ thù truyền kiếp, kẻ thù đã xâm lăng đất
nước chúng ta nhiều lần hơn ai hết, chiếm đóng đất nước lâu dài hơn ai hết.
Cái
chiến thuật thí thịt người chẳng có gì độc đáo sáng tạo về mặt quân sự của ông
Giáp, gợi
nhắc một giai thoại về Napoléon Bonaparte khi bị một viên thống chế dưới quyền
thắc mắc trước một quyết định thí quân: “Chỉ một đêm của Paris là đủ”.
Chỉ một đêm thôi, và riêng tại Paris thôi, sẽ có bao nhiêu cặp nam nữ cuồng
nhiệt quấn quýt vào nhau, sẽ có bao nhiêu tinh trùng bắn ra, sẽ có bao nhiêu
tinh trùng tiến về bắt rễ trong buồng trứng để từ đó mở ra một mầm sống mới và,
với Napoléon, thế là đủ. Đủ để bù lại những sinh mạng bị ông ta vung vãi trước trận
địa mà đối phương đã bày bố sẵn sàng.
Như
thế phải có một điểm nhất quán nào đó trong “vinh quang” của vị “anh hùng chiến
thắng” vào năm 1954 với sự cam chịu thụ động đến bạc nhược của vị “thống chế
đặt vòng” vào năm 1983, khi ông ta trở thành “Chủ tịch Ủy ban Quốc gia Dân số
và Sinh đẻ có kế hoạch”. [6]
Để
hiểu được sự nhất quán ấy, có lẽ, phải nhắc qua học thuyết của Thomas Malthus
(1766 – 1834), một giáo sĩ và là một nhà kinh tế học nối tiếng người Anh.
Năm
1798 Malthus xuất bản cuốn khảo luận An Essay on the Principle of Population
(Một tiểu luận về nguyên tắc dân số) và, thế là, những lời công kích nổi lên.
Để đáp trả những lời chỉ trích và củng cố lý thuyết của mình, từ năm 1799 đến
1802 Malthus thực hiện chuyến du khảo năm năm xuyên suốt Âu châu để rồi tái bản
quyển sách trên với sự minh định rằng quan điểm chính vẫn không hề thay đổi.
Vẫn bị công kích dữ dội nhưng vẫn thu hút sự chú ý rất đặc biệt và cuốn sách ấy
của Malthus đã đuợc tái bản đi, tái bản lại nhiều lần.
Điều
khiến Malthus vừa bị công kích vừa lôi cuốn sự chú ý là cách phân tích nguyên
nhân của nạn bần cùng như là hậu quả tất yếu của tình trạng quá tải dân số.
Theo Malthus thì dân số tăng theo cấp số nhân trong khi kinh tế chỉ tăng trưởng
theo cấp số cộng, và khi nền kinh tế không đáp ứng nổi nhu cầu của một dân số
quá đông thì bần cùng là hệ quả tất yếu. Vấn đề là làm thế nào để giải quyết
nạn ấy và, theo Malthus, khi con người bó tay, không “giải quyết” được sự bùng
nổ dân số, thì “tự nhiên” sẽ bắt tay thực hiện. Khảo sát thật kỹ các xã hội
trong suốt chiều dài lịch sử của nó, Malthus đi đến kết luận rằng các biến cố
lớn liên quan đến nạn đói, thiên tai, bệnh dịch và chiến tranh đều gắn liền với
những “khó khăn về dân số”.[7]
Hẳn
nhiên học thuyết của Malthus không hoàn toàn đúng và không phù hợp với thực tế
của hôm nay sau bao nhiêu bể dâu về kinh tế về khoa học và kỹ thuật thế nhưng
mối ám ảnh “khó khăn dân số” ấy vẫn tiếp tục hiệu lực, vẫn dai dẳng đeo bám
nhân lọai, thậm chí từng ám ảnh cả nhà thơ Tú Xuơng của chúng ta, qua bài thơ “Chúc
Tết”:
Lẳng
lặng mà nghe nó chúc con
Sinh
năm đẻ bảy được vuông tròn.
Phố
phường chật hẹp, người đông đúc,
Bồng
bế nhau lên nó ở non
Ba
năm sau khi Tú Xương lìa đời thì Võ Nguyên Giáp mới chào đời. Và bốn mươi bốn
năm sau khi ông Giáp chào đời thì ám ảnh ấy đã phần nào giải quyết bằng chiến
thuật thí thịt người tại Điện Biên Phủ cùng muôn vàn những trận đánh tương tự
trước đó hay sau đó với những quy mô nhỏ hơn. Nếu chiến tranh, theo cái nhìn
của Von Clausewitz, là sự “tiếp nối của chính trị bằng những phương tiện khác”
thì, phải chăng, “người hùng chiến tranh” Võ Nguyên Giáp, như một kẻ hoàn toàn
thất bại về chính trị, chính là hiện thân của sự “can thiệp của tự nhiên” để
giải quyết những “khó khăn về dân số”?
“Tự
nhiên”, ở đây, nên hiểu là “Trời” và nếu nhìn như thế thì sẽ thấy ngay cái mẫu
số chung hay mối quan hệ “biện chứng” giữa đoạn trước và đoạn sau của cuộc đời
ông. Cơ hồ “Trời” sinh ông ra là để giải quyết những khó khăn đã ám ảnh
Malthus. Đoạn đầu đời xông xáo trên mặt trận, ông “giải quyết khó khăn” bằng
cách đẩy những mầm sống đã đạt tuổi trưởng thành vào trận địa theo chiến thuật
thí thịt người. Nửa đời sau thầm lặng trong nền chính trị hậu trường, ông “giải
quyết khó khăn” với những cái bọc condom, những sợt dây thắt ống dẫn
tinh và hay những vòng tránh thai để phong toả, ngăn không cho tinh trùng tiến
về với trứng.
Giới
hâm mộ xem đó là “thăng trầm” của đời ông Giáp và ca tụng đó là chữ “nhẫn” của
bậc thánh nhân, là “phong cách trí thức” của một tướng lĩnh “có văn hoá”. Nhưng
tính cách của bậc trí thức không chỉ hình thành từ việc đọc sách, việc làu
thông kim cổ hay, giữa một đám lãnh tụ công nông đàn gảy tai trâu, “biết đánh
cả đàn pinao”. Và, ngoài chữ “nhẫn”, tiếng Việt còn có thêm từ “khí tiết”. Nếu
“nhẫn” không có nghĩa là bạc nhược thì “phong cách trí thức” không có nghĩa là
phải giữ sự mềm mỏng và thụ động của con người chỉ biết mỗi một việc đọc sách. Mềm mỏng, hay cứng cỏi, người trí thức phải
quyết liệt, không lùi bước, không khoan nhượng để bảo vệ lẽ phải và sự thật.
Đó là thái độ của Emile Zola khi lên tiếng “Tôi kết tội” để bảo vệ Alfred
Dreyfus, viên sĩ quan gốc Do Thái bị cả guồng máy quân sự và chính trị Pháp toa
rập để vu khống tội gián điệp. Dreyfus chẳng can dự gì đến Zola và nhà văn này
lên tiếng là để bảo vệ lẽ phải, bảo vệ sự thật, nhưng còn ông Giáp? Như một “đại tướng – trí thức –
anh hùng”, ông đã làm gì để bảo vệ lẽ phải và sự thật khi chính những tướng
lĩnh và sĩ quan tâm phúc của mình như Đặng Kim Giang, Lê Liêm hay Đỗ Đức Kiên
bị vu khống là gián điệp?
Không chứng tỏ một
nỗ lực tối thiểu để bảo vệ lẽ phải và sự thật, để trọn chữ nghĩa tình với những
người từng vào sinh ra tử với mình thì có thể nào đạt đến chuẩn mực xử sự của
bậc thánh nhân?
Những kẻ chỉ trích vin vào điều này để cho rằng ông hèn nhát. Thì đó cũng là một
cách nhìn nhưng từ góc độ của Malthus và ý nghĩa “Trời sinh” thì chẳng có gì là
anh hùng hay ươn hèn trong cái cuộc đời đó cả. Trời sinh ông để “giải quyết
những khó khăn” về dân số và ông phải sử dụng bất cứ vai trò nào có thể
sử dụng được để thực hiện sứ mạng đó theo đúng nguyên tắc “Cứu cánh biện minh
cho phương tiện” mà Niccolò Machiavelli đã nêu ra trong The Prince (Quân
Vương).
Cuốn
sách được xem là kinh điển về chính trị thực dụng này được xuất bản năm 1532,
năm năm sau khi Machiavelli qua đời. Trong công trình mỏng tang của mình,
Machiavelli đã nhấn mạnh rằng, trong chính trị, yếu tố hiệu năng và thực tiễn
phải được đặt lên lên trên giá trị đạo đức hay các khái niệm trừu tượng, và để
sống còn, những lãnh tụ chính trị phải biết cách học hỏi từ loài dã thú:
“Bậc
quân vương phải học hỏi từ bản chất của loài thú để kết hợp sức mạnh của con sư
tử với sự tinh ranh của loài cáo. Sư tử không thể tự bảo vệ mình trước các cạm
bẫy nhưng cáo thì không thể chống lại loài chó sói. Vì thế, cần phải là cáo để
nhận ra những cạm bẫy và là sư tử để dọa chó sói.” [8]
Nếu
“thiên tài quân sự” là kẻ phải thể hiện sự dũng mãnh của loài “sư tử” thì ông,
“Thiên tài quân sự Võ Nguyên Giáp”, còn có nhiều lợi thế trên đấu trường chính
trị hậu cung khi đã từng là “cáo” và cũng từng là “sói”. Trước khi thực sự chống lại thực
dân ông đã đóng vai trò chủ chốt trong những cuộc thanh trừng khốc liệt nhắm
vào các đảng phái quốc gia chỉ để giành lấy độc quyền chống thực dân, nghĩa là
từng giăng bẫy như “cáo”. Trước khi là Bộ
trưởng Quốc phòng và Tổng Lư lệnh Quân đội, ông đã là Bộ trưởng Nội vụ đầu tiên
của chính quyền Việt Nam Dân chủ Cộng hoà và, trong vai trò ấy, đã ký nghị định
để chống lại cái gọi là các tổ chức quốc gia “phản động” tháng Chín năm 1945,
nghĩa là đã vồ mồi như “sói”.
Đã là “sư tử”, đã
từng giăng bẫy như “cáo” và từng vồ mồi như “sói”, tại sao ông có thể dễ dàng
đầu hàng trước những đồng chí chỉ đáng mặt là “cáo” hay “sói” như Lê Duẩn và Lê
Đức Thọ?
Cũng
chẳng có gì đáng gọi là “nghịch lý” trong mối quan hệ tưởng là mâu thuẫn này cả
khi một “đại tướng anh hùng” dễ dàng bỏ rơi đồng đội, dễ dàng nhìn những ý
tưởng mà mình tin là có lợi cho đất nước bị vứt bỏ vào sọt rác mà, thậm chí,
còn là một sự nhất quán và thông suốt nếu nhìn theo những góc độ nói trên.
“Trời” sinh ông thế và, cơ hồ, cả trong cái thời sung mãn nhất về thế chất và
trí lực của mình, ông, “Đại tướng Võ Nguyên Giáp”, chưa bao giờ cảm thấy có đủ
tự tin với “thiên tài”, với “thiên mạng” của bậc anh hùng cứu thế trong tầm vóc
của một con sư tử của mình. “Trời” không sinh ông để sống trọn vẹn ý nghĩa của
một con người huyền thoại. Trời sinh ông ra để giải quyết những “khó khăn về dân
số”.
“Thiên
mạng” của ông là giải quyết những “khó khăn về dân số” còn chế độ toàn trị thì
đang lúng túng với “thiên mạng” của mình trước một “dân số khó khăn”. Lúng túng
vì người dân ngày càng trưởng thành hơn. Lúng túng vì càng ngày càng lộ liễu
cái bản chất phản động và thối nát nhiều hơn. Thế là, sau bao nhiêu năm bị bỏ
quên, phải tìm quên trong thiền và trong kinh Phật, ông được vực dậy, được công
kênh như một huyền thoại chiến tranh. Ông càng rũ xuống, càng vật vờ trong đời sống thực vật
trên giường bệnh bao nhiêu, cái chiến dịch phục dựng huyền thoại chiến tranh ấy
càng rầm rộ bấy nhiêu.
Nhưng,
luôn luôn, cái mà nền toàn trị cần là những huyền thoại chỉ để thờ, thờ sống
hay thờ chết. Nó chỉ cần cái bài vị, cái vừng sáng lung linh nhang nến quanh
một nhân vật để công chúng kính cẩn gập mình xuống lạy chứ không phải những giá
trị thực tiễn mà kẻ đó có thể đóng góp. Hồ
Chí Minh cũng vậy mà Võ Nguyên Giáp cũng vậy. Cũng chỉ đơn thuần là hai cái bài
vị để cho công chúng lạy, lạy sống hay lạy chết. Thập niên 60, hệ thống
quyền lực đó vừa thờ sống Hồ Chí Minh, vừa gạt ông qua một bên. Chỉ cách đây
mấy năm thôi, hệ thống đó cũng vừa rầm rộ “lạy sống” ông Giáp, vừa thẳng tay
vứt vào sọt rác những “tâm can” mà ông trút cạn khi hệ thống quyền lực tự đâm
vào cổ mình bằng cách mời mọc kẻ thù truyền kiếp của dân tộc đến cắm rễ ngay
tại vùng đất chiến lược. [9]
Những
kẻ hâm mộ ông lấy làm ấm ức vì trong bài điếu văn chính thức đọc trong tang lễ,
Tổng Bí thư Nguyễn Phú Trọng đã không đề cập về ông như một “anh hùng” mà chỉ
gọi suông là “nhà lãnh đạo uy tín.” Theo họ ông là “anh hùng dân tộc”, là “hồn
thiêng sông núi” v.v… và, theo những dòng người rồng rắn đưa tang, những mỹ từ
này đã rồng rắn nối đuôi nhau trên các phương tiện truyền thông để tấn công vào
suy nghĩ của công chúng, để bám vào suy nghĩ của thế hệ mới lớn. [10]
Xung tụng ông thế nào, là “thiên tài
quân sự”, là “bậc thánh nhân” v.v… là tùy bởi việc đó quyền, là năng lực nhận
thức, là trí tuệ của từng người. Nhưng nếu gọi một nhân vật như thế – “sư tử”
không ra “sư tử”, “sói” không ra “sói” và “cáo” không ra “cáo” – là “hồn thiêng
sông núi” hay “anh hùng dân tộc” thì quả là một sự báng bổ và xúc phạm. Nó báng
bổ tổ tiên. Nó xúc phạm đến sông núi thiêng liêng. Nó xúc phạm những anh hùng
dân tộc như Ngô Quyền, Lý Thường Kiệt. Lê Lợi hay Nguyễn Huệ v.v…
Và
nó xúc phạm đến cả chúng ta, những người đang mang ơn những người con kiệt xuất
của dân tộc ấy, những anh hùng đã thực sự bảo vệ đất nước trước dã tâm nghiền
nát và nuốt chửng của kẻ thù truyền kiếp, cái kẻ thù đang vừa kêu ca đòi chia
chác thứ “vinh quang” xây trên xác người ở Điện Biên Phủ, vừa vận dụng cả trăm
ngàn trò trí trá để bóp nghẹt môi trường và nguồn sống của chúng ta, dồn ép
chúng ta vào cảnh kiệt quệ và chết dần chết mòn, cũng với dã tâm nghiền nát và
nuốt chửng. [11]
17.10.2013
Chú
thích :
[1]
Hiện có rất nhiều ý kiến tôn sùng Võ Nguyên Giáp là bậc “thánh nhân”, thí dụ
như: Nguyễn Như Phong, “Người
là bậc Thánh Nhân!”
[2]
Tang lễ kết thúc lúc 5 giờ chiều tại Quảng Bình nhưng trước đó, vào buổi trưa, cờ
tang ở Hà Nội đã được tháo bỏ để đón Thủ tướng Trung Quốc Lý Khắc Cường.
[3]
Có thể kể mấy câu liên quan đến việc Võ Nguyên Giáp nhận chức vụ này:
Năm
xưa đại tướng cầm quân
Năm
nay đại tướng cầm quần chị em
Hay:
Năm
xưa đánh giặc công đồn
Nay
về quản lý cái l** chị em
[4]
Có rất nhiều tài liệu về việc này, trong đó phần cô đọng nhất là chương viết về
Võ Nguyên Giáp trong cuốn Bên thắng cuộc II: Quyền bính, của Huy Đức.
[5]
Có thể tham khảo một số bài báo tiêu biểu:
-
Hải Chung, “Xóa
đói, nghèo ở chiến khu xưa”
-
Nguyễn Đăng Tấn, “Mùa
Thu cách mạng, về thăm chiến khu xưa”
[6]
Câu này liên quan đến việc Tố Hữu trở thành Phó Thủ tướng đặc trách kinh tế:
“Nhà thơ làm kinh tế, thống chế đi đặt vòng”.
[7]
Hẳn nhiên tính toán của Malthus không hoàn toàn phù hợp với thực tế và trong
hai thế kỷ sau đó tốc độ tăng dân số vẫn xảy ra mà không bị cản trở bởi nghèo
đói tại các nước kỹ nghệ như Âu châu. Một trong những người chỉ trích Malthus
kịch liệt nhất là Friedrich Engels – đồng chí kiêm môn đệ của Karl Marx. Theo
ông tổ số hai của chủ nghĩa cộng sản thì Malthus đã không thấy được các yếu tố
như quá trình tích sản, tích lũy giá trị thặng dư của giai cấp bóc lột, cũng
không thấy được vài trò của khoa học v.v…
[8\]
Bản tiếng Anh: “Of the animals, a prince should be compelled to choose to
emulate the effective points of] the fox and the lion, because the lion cannot
defend himself against traps, and the fox cannot defend himself against wolves.
Therefore, it is necessary to be a fox to discover the traps, and [to be] a
lion to terrify the wolves. Those who rely simply on the [effective points of
a] lion do not understand what they are about.
[9]
Võ Nguyên Giáp đã ba lần viết thư gởi Bộ Chính trị đề nghị chấm dứt dự án
bauxite Tây Nguyên, tuy nhiên lời ông bị gạt qua một bên, thậm chí những kẻ có
trách nhiệm đã không thèm trả lời.
[10]
Thí dụ các bài báo hay bản tin:
-
Thùy Linh, “Đại
tướng ơi! Người đã thành hồn thiêng sông núi”
-
Hoàng Điệp – Lam Giang – TTXVN, “Quốc
tang anh hùng dân tộc Võ Nguyên Giáp”.
[11]
Có nhiều tài liệu từ phía Trung Quốc nhấn mạnh vao trò của các cố vấn Trung
Quốc, thí dụ:
“Hồi kí cố
vấn Trung Quốc (3) -Vai trò của Vi Quốc Thanh (Wei Guoqing) qua lời
kể của viên thư kí” [Bản dịch của Dương Danh Dy].
©
2013 Thuận Văn & pro&contra
--------------------------------
--------------------------------------------
XEM THÊM
:
Nguyễn Quốc Khải chuyển ngữ - Thứ Sáu,
18/10/2013
Huỳnh Thục Vy -
12:50:pm 13/10/13
Bùi Tín :
Ngô
Nhân Dụng - Friday, October 04, 2013 6:04:35 PM
No comments:
Post a Comment