Posted By Chính
Luận on 20 tháng mười 2013 | 03:02
“Tôi có lỗi với dân tộc. Chính cái hăng hái, nhiệt
huyết của tôi đã góp phần dựng lên chế độ độc tài hiện nay. Đã vô tình đem lại
sự đau khổ hiện nay. Và nếu xét về những căn bản để đảm bảo tự do cho nhân dân
và độc lập cho dân tộc thì tôi cũng đã vô tình góp công sức đưa những người
mang danh là “cách mạng” nhưng thực chất là vì quyền lực tới phá bỏ một chế độ
đã được xây dựng trên những căn bản về tự do, dân chủ và nhân bản tại miền Nam
Việt Nam.” - Ông Huỳnh Nhật Tân.
*
Trước khi viết bài này tôi đắn đo suy nghĩ mất mấy ngày liền. Trăn trở, suy tư về ý tưởng trong nội dung bài viết đã diễn ra từ lâu song chưa hạ bút được bởi trong tôi còn quá nhiều ray rức. Là một con dân nước Việt ngoài sự hiểu biết qua sách vở, giảng đường cùng các tài liệu lịch sử, kinh tế, chính trị, văn hóa của đất nước ta qua hàng ngàn năm trước thì tôi cũng tận mục sở thị từng trang đời, từng dấu vết và những vòng quay của bánh xe lịch sử VN từng giờ lăn qua trước mắt hơn 40 năm qua.
*
Trước khi viết bài này tôi đắn đo suy nghĩ mất mấy ngày liền. Trăn trở, suy tư về ý tưởng trong nội dung bài viết đã diễn ra từ lâu song chưa hạ bút được bởi trong tôi còn quá nhiều ray rức. Là một con dân nước Việt ngoài sự hiểu biết qua sách vở, giảng đường cùng các tài liệu lịch sử, kinh tế, chính trị, văn hóa của đất nước ta qua hàng ngàn năm trước thì tôi cũng tận mục sở thị từng trang đời, từng dấu vết và những vòng quay của bánh xe lịch sử VN từng giờ lăn qua trước mắt hơn 40 năm qua.
Đất nước ta hiện nay thật sự
đang chao đảo, xã hội ngả nghiêng đã đến hồi sụp đổ về mọi mặt. Dân tình khổ
đau, chới với trên bờ vực sống còn thì bổn phận của những người con dân có trái
tim nồng nàn, yêu tổ quốc non sông thì không thể nào an giấc. Đứng đầu hàng ngũ
này phải kể là lớp sĩ phu chí sĩ, trí thức.
Lịch sử VN đầu thế kỷ 15 nhà
Trần suy yếu, giặc Minh phương bắc xâm chiếm cõi bờ, đặt ách đô hộ. Đứng trước
tình thế dân tộc rơi vào vòng xiềng xích, nô lệ. Trần Nguyên Hãn ngày đêm đau
đáu cho vận nước tình dân, cùng Nguyễn Trãi đêm thao thức đọc binh thư, ngày
băng rừng, vượt núi tìm minh Chúa đem tài sức hiến dâng cùng nhau dấy
binh khởi nghĩa ở Lam Sơn. Cuối cùng các chí sĩ, trí thức yêu nước đã đưa con
thuyền quốc gia vượt phong ba cập bến bờ hạnh phúc, xã hội an bình, thịnh lạc
qua mấy trăm năm.
Ngày nay cùng với trào lưu tiến
bộ trên thế giới. Việt Nam với dòng giống Lạc Hồng, qua chứng minh lịch sử là
một dân tộc hiền hòa nhưng bất khuất, cần cù và thông minh, ham học đã sản sinh
ra bao lớp anh thư, tuấn kiệt và những lớp nhân sĩ trí thức yêu nước thương nòi
đã dám quên mình cho sự thịnh suy của tổ quốc, dấn thân đấu tranh cho xã hội đẹp
tươi.
Nơi đây tôi chỉ xin đề cập đến một số nhân vật chính
trị, trí thức VN trong các thập niên 60-70 của thế kỷ 20 mà giới trí thức (tạm
gọi) này một số xuất thân từ hàng ngũ Sinh viên học sinh (SVHS) Sài Gòn ngày
trước mà quá trình hoạt động và tiếng vang vẫn còn, tuy mỗi thời gian có một
gam màu khác nhau.
Hai thập niên 60 và 70 thế kỷ trước đất nước VN đắm
chìm trong biển lửa, huynh đệ tương tàn, nồi da xáo thịt. Kể từ khi Hồ Chí Minh
cùng đảng CSVN đã cúi đầu vâng theo mệnh lệnh của CS Nga-Tàu xé bỏ hiệp định
Genève và đem quân tiến chiếm miền Nam Việt Nam để làm bàn đạp nhuộm đỏ bán đảo
Đông Dương. Chính Lê Duẫn đã xác nhận “Ta đánh (MNVN) đây là đánh cho
Nga-Tàu”. Cuộc binh lửa can qua đó đã gây ra cho hàng triệu sinh linh nam
nữ thanh niên VN phải bỏ mình một cách đau thương và vô nghĩa, làm mồi để chúng
đốt dãy Trường Sơn một cách phi lý.
Để góp phần cho cuộc binh đao
đó một số trong giới trí thức miền Nam, nhất là giới SVHS tập trung ở Sài Gòn
đã đóng một vai trò không nhỏ. Vào thời giai đoạn 1965-1975, đa phần thanh niên
VN tương đối khá mơ hồ về mặt chính trị. Chủ nghĩa cộng sản hay chủ nghĩa tư
bản là những học thuyết không mấy phổ biến rộng rãi và sâu xa mà mỗi cá nhân phải tự tìm tòi
học hỏi. Phần lớn sinh ra và lớn lên bắt đầu có một chút ý thức về xã hội, về
nhân sinh quan thì lăn lộn và ngập chìm trong lửa đạn. Nắm được yếu tố này cộng
sản đã khai thác triệt để và hình thành mạng lưới tuyên truyền dưới lá cờ cứu
nguy tổ quốc. Từ đó phong trào Thanh niên sinh viên học sinh (TNSVHS) đấu tranh
phản chiến, chống Mỹ ra đời. Ở đây tôi chỉ nói phong trào TNSVHS miền nam (SG),
ngoài ra còn có phong trào TNSVHS Huế, Đà Nẵng cũng được CS dựng lên.
Phong trào TNSVHS Sài Gòn được
lãnh đạo bởi thành đoàn Đoàn Thanh niên cộng sản HCM và bùng lên sôi nổi trong
giai đoạn từ năm 1965-1972, trong đó có 2 mặt là bí mật và công khai (hợp
pháp). Thành phần bí mật hoàn toàn là đảng viên CS trực tiếp từ thành đoàn, đặc
khu ủy Sài Gòn – Chợ Lớn – Gia Định đảm trách lãnh đạo lực lượng công khai.
Trong lực lượng công khai có một số đoàn viên, đảng viên CS chưa bị lộ thân thế
làm nòng cốt và xách động, hô hào kêu gọi, lôi kéo hàng ngũ SVHS đấu tranh bãi
khóa chống “Mỹ ngụy” đòi hòa bình cho VN. Trong lúc đất nước lâm vào cảnh chiến
tranh tàn khốc, hàng ngày bom đạn máu xương chết chóc diễn ra hàng giờ thì
những SVHS trong phong trào với bầu nhiệt huyết của tuổi trẻ, hăng say và hiếu
động nhưng ý thức về chính trị hời hợt non trẻ, lập
trường tư tưởng chưa có, đã nghe theo những lời tuyên truyền ngọt mật từ miệng lưỡi
của các đoàn, đảng viên CS và lấy đó làm khuôn vàng thước ngọc, lý tưởng để dấn
thân.
Ngoài các cán bộ đảng viên của thành đoàn, đặc khu
ủy như Dương Văn Đầy, Trần Thị ngọc Hảo (tư Tín), Nguyễn Ngọc Phương (Ba
Triết), Phan Đình Dinh (chín Kế), còn có Phùng Hữu Trân, Lê Thành Yến, Nguyễn
Xuân Thượng, Võ Thị Bạch Tuyết v.v… cùng các lãnh đạo của phong trào VSHS qua
các khóa chủ tịch tổng hội SVHS SG và các ban đại diện của các phân khoa, cao
đẳng và học sinh kỹ thuật Cao Thắng như:
Chủ tịch tổng hội VSHS SG:
- Hồ Hữu Nhựt (khóa 1966-1967)
- Nguyễn Đăng Trừng (67-68)
- Nguyễn Văn Quỳ (68-69)
- Huỳnh Tấn Mẫm (69-70)
Chủ tịch ban đại diện các phân khoa khác như:
Nguyễn Hoàng Trúc, Hạ Đình Nguyên (văn khoa)
Lê Hiếu Đằng (luật)
Đoàn Kỉnh, Phạm Hào Quang (khoa học)
Phạm Trọng Hàm (nha khoa)
Lê Văn Nuôi (hskt Cao Thắng)
….
Các vị này hiện nay kẻ còn người mất. Có những người là những vỏ chanh bị đảng vứt lề đường. Có những người còn bám đuôi theo đảng. Có những người đang phản biện trong luồng với đảng.
Phải công bằng mà nói trong bối cảnh xã hội và chính
trường miền Nam lúc đó vô cùng nhiễu loạn với tình hình chiến tranh leo thang
và chế độ tự do ai cũng có quyền biểu thị chính kiến, khuynh hướng chính trị
của mình. Do đó đối với lực lượng TNSVHS kể cả các sinh viên lãnh đạo phong
trào đấu tranh chống Mỹ đang ở lứa tuổi bừng bừng nhựa sống, cuồng nhiệt dễ bị
kích động, lôi kéo và có một số lỡ bước, lầm đường là khó tránh khỏi. Trong
phong trào này tôi chia ra làm ba dạng sau:
1. Thành phần cốt lõi của đảng hầu hết là đảng viên trực thuộc thành đoàn,
đặc khu ủy.
2. Thành phần SV có lòng nhiệt huyết, trăn trở cho thời cuộc bị các đảng
viên CS ở dạng thứ 1 tuyên truyền, mê hoặc, lôi kéo và lao vào vòng xoáy với
lòng nhiệt tâm tràn đầy và theo thời gian lập thành tích rồi được kết nạp vào
đoàn, đảng CSVN.
3. Thành phần SVHS năng nổ, hiếu động tham gia phong trào nhưng chỉ nhứt
thời tùy theo điều kiện và hoàn cảnh.
Ở đây đáng kể là thành phần thứ
2. Đại đa số lãnh đạo phong trào SVHS miền Nam còn hiện hữu là thuộc thành phần
này. Các vị này thời đó vô cùng cuồng nhiệt, là lực lượng lôi kéo quần chúng và
trực tiếp mê hoặc cho thành phần thứ 3. Đồng thời các vị ấy cũng là những mũi
tên xé gió lao vào các cửa của đại học đường, trường trung học hô hào bãi khóa,
xuống đường biểu tình chống Mỹ, “ngụy” “cứu nguy” cho đất nước. Tiếng nói của
các vị này có tác dụng và thậm chí còn gây áp lực cho những sinh viên học sinh
còn thờ ơ với thời cuộc. Trong các cuộc xuống đường, hô hào bãi khóa, bài Mỹ họ
luôn luôn hô hào và vang lên những bài hát “…Nếu là người tôi xin chết cho
quê hương!!”. Thật lý tưởng và những mỹ từ vô cùng cao cả, chính danh thử
hỏi làm sao không đốt cháy tâm can, động lòng một số tuổi trẻ với sức sống tràn
đầy nhưng nhận thức chính trị không có hoặc yếu kém? Thiếu nhận thức cộng với tự ái lẫn niềm tự hào
dân tộc sẵn sàng bộc phát và phá tan những gì có thể.
Nói về hai chữ trí thức – không
cần phải có đủ “tiêu chuẩn” bằng cấp, học vị, học hàm mới là người trí thức. Đã
là người trí thức là biết xa, hiểu rộng có thể đoán biết trước những điều mà
người khác chưa kịp thấu, là biết trăn trở trước sự sống còn của đất nước, dân
tộc. Trí thức lấy phản biện xã hội làm tâm niệm và có tâm lẫn có tầm để hướng
tư duy cùng việc làm được hoàn mỹ. Trí thức phải biết hy sinh trong quá trình
dấn thân vì đại nghĩa, vì dân tộc giống nòi, đặc biệt là trong những hoàn cảnh
đặc thù của đất nước người trí thức phải có dũng khí. Lúc này cái dũng khí nó
sẽ tự đặt cho người trí thức ở vị trí của người quân tử, trên kẻ hạ nhân là sẵn
sàng nhận ra khuyết điểm hoặc sai lầm của mình để trên hành trình sẽ có quyết
định dứt khoát rẽ lối hoặc quay về! Như thế mới là anh hùng đúng nghĩa vì đã
“tự thắng mình”.
Ở lĩnh vực này tôi thật đau buồn và xót xa cho những
con dân VN ưu tú về trí tuệ – ở đây tôi xin tách khuynh hướng chính trị ra để
có lời nói chân tình, thẳng thắn và có sự công bằng.
Nếu trong gần một thập niên từ năm 1965 đến những
năm 72, 73, 74 của thế kỷ trước, những trái tim hồng rực lửa của những người
con ưu tú đó không bị mê hoặc bởi những luân điệu tuyên truyền, giựt dây của
cộng sản nằm vùng và suốt một thời gian dài không bị quay cuồng trong mê lộ học
thuyết Mác-Lê lạc hậu và quái đản thì những hạt ngọc đó ắt hẳn cũng làm sáng
lên một góc trời của quê hương, tổ quốc và cũng phần nào làm cản trở bước đi
của chủ nghĩa cộng sản vô thần.
Ngược lại quí
vị không phải là người trí thức như tôi đã nói ở trên. Các vị chỉ là người học
thức nhưng mắt bị mờ, trí bị mụ giống như một chiếc xe đạp bị mất lái có tác
hại không nguy hiểm như chiếc ô-tô. Đồng thời tôi xin khẳng định rằng quí vị
không hề có dũng khí. Ngày trước, trong thời gian xã hội đất nước rối
ren, TNSVHS hầu như mất phương hướng về tư duy chính trị, do đó các vị như
những con chim non sẵn sàng bay theo luồng gió mới tuy rằng trong đáy sâu thẳm
của tâm hồn chưa biết thực chất đúng, sai. Điều đó nhìn lại thấy không có gì
đáng trách. Nhưng trong quá trình dong ruổi cho đến ngày hôm nay các vị ắt hẳn
nhận thức được con đường đó là thiên đường hay địa ngục, chính danh hay lừa
dối, chân lý hay phản bội. Thế nhưng một số thanh niên bốc lữa ngày xưa nay đã
già vẫn cứ như những con thiêu thân lao vào chỗ ác. Vẫn còn một số im lặng và
đồng lõa với tội ác mà chính họ đã từng góp phần. Vẫn còn một số xem hệ quả
đảng là cứu cánh, là thành phần duy nhất có đủ tư cách lãnh đạo dân tộc.
Ngược lại, trong suốt chuỗi
đường dài của cách mạng VN từ khi có đảng CSVN tham gia trên vũ đài chính trị,
trong số những bậc tiền bối (ở đây tôi cũng tách rời khuynh hướng chính trị)
lão thành cách mạng CSVN đi tiên phong trong những buổi sơ đầu, có những bậc
xứng danh là trí thức có đủ tâm và tầm cùng dũng khí đã dám nói lên tư duy,
chính kiến của mình. Ở đây các vị này không phải là “phản động” chống đảng như
ý nghĩa của đảng CS thường dùng mà có 2 chủ ý: một là góp thêm cho đảng những ý
tưởng, sáng kiến ngõ hầu tạo thêm sự trong sáng và mạnh mẽ hơn cho con đường mà
đảng đã đề ra. Hai là thẳng thắn chỉ trích những điểm sai, chệch hướng của đảng
mà không sợ sự phản kháng hay mọi hiểm nguy cho bản thân, gia đình đưa đến từ
đảng. Trong số những vị tiền bối này tôi xin liệt kê theo từng thứ bậc như sau:
A- Lớp lão thành cách mạng chỉ thẳng sự sai lầm của đảng và đã can đảm
nói lên sự phản bội của đảng đối với sự hy sinh của mình cho sự nghiệp cách
mạng. Trong số đó nổi bật 2 người. Đó là ông Nguyễn Hộ và Trung tướng Trần Độ.
Ông
Nguyễn Hộ là một vị lão thành của đảng CSVN, tham gia tích cực và có nhiều thành tích
trong buổi bình minh của chính quyền CSVN còn non trẻ. Ông đã từng kinh qua các
chức vụ Ủy viên Thường trực của Ban Thường vụ Ủy ban Kháng chiến Sài Gòn – Chợ
Lớn, Phó Chủ tịch Tổng công đoàn VN, Thư ký Liên hiệp Công đoàn Tp. HCM, Chủ
tịch Ủy ban MTTQ Tp. HCM. Tuy nhiên, ông sẵn sàng từ bỏ mọi quyền lợi mà nhiều
người trong đảng mơ ước, đã không im hơi lặng tiếng để
hưởng phú quí vinh hoa mà ông đã chỉ thẳng sự sai lầm của đảng CSVN và khẳng
định ông đã bị đảng phản bội. Chính cố thủ tướng Võ Văn Kiệt lúc đương chức đã
đích thân lên nơi ở của ông tại Củ Chi để thuyết phục ông về Sài Gòn tịnh dưỡng
tuổi già, an hưởng bổng lộc từ thành quả cách mạng mà ông đã tạo nên. Thế nhưng
đã bị ông từ chối và nói lên sự thẳng thắn, sau này ông quyết định tuyên bố từ
bỏ đảng CSVN vào năm 1991.
Trung tướng Trần Độ là một vị tướng văn võ song toàn. Ông là một
trong những người có bước chân đầu tiên trong chỉ huy, lãnh đạo đoàn quân tiến
chiếm miền Nam Việt Nam cùng các tướng lãnh Nguyễn Chí Thanh, Lê Trọng Tấn,
Nguyễn Hòa, Hoàng Cầm… với chức vụ phó chỉ huy kiêm phó bí thư quân ủy quân
GPMNVN.
Tháng 3/1974 ông được phong hàm
trung tướng cùng đợt với Lê Đức Anh, Lê Trọng Tấn, Đàm Quang Trung, Đồng Sĩ
Nguyên. Năm 1981 ông giữ chức Thứ trưởng Bộ Văn hóa kiêm Phó ban Tuyên huấn
Trung ương khi chuyển qua ngạch dân sự. Ông đã viết và để lại nhiều tài liệu,
sách có giá trị.
Với tầm nhìn bao quát và với dũng khí của mình,
trung tướng Trần Độ đã khẳng khái nói lên chính kiến riêng và chỉ trích thẳng
sự sai lầm của đảng. Trong vị trí vẫn còn trong đảng của ông lúc ấy, ông đã nói
“Tôi vẫn tán thành và ủng hộ vai trò lãnh đạo chính trị của đảng. Nhưng lãnh
đạo không có nghĩa là thống trị. Đảng lãnh đạo không có nghĩa là đảng trị. Kinh
nghiệm lịch sử trong nước và thế giới đã chứng minh rằng mọi sự độc quyền, độc
tôn đều đưa tới thối hóa, ruỗng nát, tắc tị không những của cơ thể xã hội mà cả
cơ thể đảng nữa.”
Theo ông “nguyên
nhân sâu xa của các hiện tượng tiêu cực trong đảng và phần nào trong xã hội là
ở cơ chế lãnh đạo toàn diện tuyệt đối của đảng.”
Chính vì những lời khẳng khái
và chí khí này là mũi tên bắn thẳng vào tim của đảng CSVN. Do đó ông đã bị khai
trừ ra khỏi đảng CSVN ngày 4/1/1999 khi tuổi đảng vừa tròn 58 tuổi. TS Hà sĩ
Phu đã tặng ông câu đối sau:
“Văn võ tung hoành, trung tướng phong TRẦN, thế sự
song kiên song trọng đảm.
Bắc nam xuất nhập, đại quân tế ĐỘ, hùng binh nhất
trượng nhất đan tâm”.
B- Lớp trí thức, lý luận cao cấp của đảng. Nổi bật trong hàng ngũ
này là giáo sư Hoàng Minh
Chính và ông Lê hồng Hà.
GS
Hoàng Minh Chính là một nhà lý luận cao cấp của đảng CSVN, Viện
trưởng Viện Triết học Marx-Lenin. Ông trở thành một người bất đồng chính kiến
sâu sắc với đảng CSVN khi ông đã thấy rõ sự sai lầm nghiêm trọng của học thuyết
Karlmarx-Friedrich Engels, chủ thuyết mà một thời ông trên cương vị Viện trưởng
Viện triết học Mác-Lênin đã tuyên truyền và ca ngợi, có nhiều sai sót cơ bản
khi áp đặt vào các quốc gia CS.
Chính vì thế mà năm 1967 đảng CSVN đã khai trừ ông
ra khỏi đảng với cáo buộc ông cầm đầu nhóm người theo chủ nghĩa xét lại, không
tán thành nghị quyết 9 của đảng CSVN và muốn thay đổi theo đường lối đệ tứ CS.
Từ đó ông phải kinh qua 3 lần tù đày, giam giữ, quản chế, tổng cộng gần 20 năm.
Sau khi ra tù ông vẫn tiếp tục hoạt động và khiếu nại giải oan cho nhóm “Xét
lại chống đảng” và vận động mọi người tham gia góp ý cho bản dự thảo “Thách
thức và triển vọng”.
Ngày 16/1/2000 ông Hoàng Minh
Chính gửi thư cho Tổng thống Hoa Kỳ tố cáo VN không có tự do báo chí, tự do
ngôn luận. Tháng 8/2005 ông sang Mỹ chữa bệnh và công khai diễn thuyết chỉ
trích, phê phán đảng và nhà nước CSVN. Ngày 28/9/2005 ông đăng đàn ở đại học
Harvard với đề tài “Dân chủ cho Việt Nam”. Ngày 29/9/2005 ông điều trần
trước Ủy ban Đối ngoại của Hạ viện Hoa Kỳ và nêu những vụ đàn áp tôn giáo và
khủng bố tàn bạo ở VN, đồng thời kiến nghị với chính phủ Hoa Kỳ có chính sách
mạnh tay đối với nhà nước CSVN. Sau đó ông còn vận động lấy chữ ký nhiều người
đòi hủy bỏ Điều 4 Hiến pháp và nghị định 31/CP, cùng nhiều hoạt động tích cực
khác để đem lại cho VN một nền dân chủ tự do và công lý. Ông hoạt động không
ngừng nghỉ cho đến khi ông qua đời vào ngày 7/2/2008 (mùng một Tết mậu tý) vì
bệnh ung thư tại bệnh viện Hữu Nghị Hà Nội. Trước khi mất ông Hoàng Minh Chính
viết “Bức tâm thư năm mậu tý” gởi lãnh đạo nhà nước CSVN.
Trong quá trình hoạt động ông
Hoàng Minh Chính thể hiện chính kiến của mình và ủng hộ chủ trương của Khrush
Chyov bác bỏ tư tưởng sùng bái cá nhân (I.V.Stalin) và sống hòa bình với thế
giới tư bản. Đường lối này Mao trạch Đông gọi là “Chủ nghĩa xét lại”. Gs Hoàng
minh Chính và các nhân vật đồng chính kiến với ông ủng hộ đường lối của Nga và
chủ trương chung sống hòa bình với nhân dân Miền
Nam VN và chính phủ VNCH. Cuối cùng cả nhóm theo chủ trương của Hoàng Minh
Chính đều bị họa với con số khoảng 300 người trong đó có 30 nhân vật cao
cấp (theo Journal of Cold War History tháng 11/2005)
Ngoài ông Hoàng Minh Chính ra, còn có các nhân vật
cao cấp bị bắt tiêu biểu như: Vũ Đình Huỳnh – Vụ trưởng Vụ Lễ tân Bộ
Ngoại Giao, Lê Trọng Nghĩa – Đại tá Cục trưởng Cục 2 (tình báo QĐ), Lê
Minh Nghĩa – Đại tá Chánh VP Bộ QP, Đỗ Đức Kiên – Đại tá Cục trưởng
Cục tác chiến, Hoàng Thế Dũng – Tổng Biên tập báo QĐND, Vũ Thư Hiên
– Nhà báo, Trần Minh Việt – Phó bí thư thành ủy Tp. Hà Nội kiêm Phó chủ
tịch UB hành chính Tp. Hà Nội, Phạm Hữu Viết – Phó TBT báo Hà Nội mới, Phạm
Kỳ Vân – Phó Tổng biện tập Tạp chí Học tập…
Những nhân vật không bị bắt
nhưng bị khai trừ đảng tiêu biểu như: Ung Văn Khiêm – Bộ trưởng Bộ Ngoại
giao, Lê Liêm – Thứ trưởng Bộ Văn hóa, Thiếu tướng Kim Quang, Nguyễn
Văn Vịnh – Thứ trưởng bộ QP, Bùi Công Trừng – Phó chủ nhiệm Ủy ban
Khoa học.
Ngoài ra còn có khoảng 40 người
xin tị nạn tại Liên Xô vì lúc này đang đi học hoặc công tác trong đó tiêu biểu
như: Nguyễn Minh Cần – Phó chủ tịch UBHC Tp. Hà Nội, Lê Vinh Quốc
– Đại tá Chính ủy Sư đoàn 308, Phó Chính ủy QK III, Đỗ Văn Doãn – Đại
tá, nguyên Tổng biên tập báo QĐND…
GS Hoàng Minh Chính có những
phát biểu đáng chú ý như sau:
- Đất nước VN đứng ở đáy nhân
loại trên mọi bình diện.
- Nhân dân VN hiện nay đang trong cơn quằn quại rũ
bỏ ách nô lệ thâm căn cố đế nội xâm, đã tìm thấy trong chính sách hỗ trợ tự do
dân chủ của Hoa Kỳ một sức mạnh vô giá cho cuộc đấu tranh sống còn của
mình.
- Các đầu tư phát triển quốc tế (FDI) và viện trợ
phát triển (ODA) chẳng qua thực chất là làm đầy túi tham của đảng và chính
quyền.
Ngoài các nhân vật cấp cao tiêu biểu trên, còn có
những nhà chính trị, chính khách có dũng khí, can đảm nói lên tiếng nói của
riêng mình và chỉ trích đường lối độc tôn, độc trị của đảng như cựu UVBCT Trần
Xuân Bách. Ông thể hiện chính kiến của mình là muốn đi theo con đường đa
nguyên chính trị trong lúc ông đang chức ở BCT, cuối cùng ông bị loại ra khỏi
BCT, khỏi BCH T.Ư đảng CSVN và về làm chuyên viên ở Bộ Ngoại giao theo lời mời
của bộ trưởng Nguyễn Cơ Thạch với tư cách là một đảng viên thường. Ông làm ở
đây cho đến khi về hưu và mất ngày 1/1/2006.
Tất cả trên đây là những nhân vật chính trị, quân sự
cấp cao của đảng CSVN sau khi nhận thức được sự thật, thấy rõ đảng CSVN và lý
tưởng bao năm theo đuổi là tai họa của dân tộc, đã thể hiện dũng khí của một kẻ
sĩ, bất chấp an nguy đến sự nghiệp và tính mạng của riêng mình.
Không phải những tính chất cao
đẹp và can trường đó chỉ ở những bậc trí thức, giáo sư, học giả ở tầm cao mới
có mà ở những con người vào tầng lớp thường thường bậc trung hay bình dân,
trong hàng ngũ viên chức, đảng viên thường hay công nhân cũng không
thiếu. Họ cũng đều ở trong điều kiện rất thuận lợi và bước công danh thẳng
tiến, có cuộc sống bản thân, gia đình sung túc, đầy đủ nếu chấp nhận cúi đầu
nghe theo, làm theo đường lối của đảng hay cùng lắm là “đắp tai ngoảnh mặt làm
ngơ” bỏ ra khỏi đầu óc tư duy công lý, sự thật, tự do công bằng dân chủ. Nhưng
họ đã quay lưng lại với đảng và đã bày tỏ thái độ.
Ở trong tầng lớp này cũng có
nhiều người sáng suốt, nhận ra chân lý và thấy con đường từ trước mình đi là
sai lầm và sẵn sàng đổi hướng hoặc quay về như hai anh em Huỳnh Nhật Tân,
Huỳnh Nhật Hải ở Tỉnh Lâm Đồng. Nếu nói về danh phận thì hai anh em họ
Huỳnh ở bậc trung cao. Ông Huỳnh Nhật Hải là Thành uỷ viên, Phó Chủ tịch UBND
Tp Đà Lạt. Ông Huỳnh Nhật Tân là Tỉnh ủy viên dự khuyết, Phó GĐ Trường đảng
tỉnh Lâm Đồng. Sau khi nhận thấy con đường theo đảng từ trước giờ là sai lầm và
đã tự soi mình, cả 2 anh em họ Huỳnh đã can đảm trả thẻ đảng, dứt khoát đoạn tuyệt với đảng CSVN.
Trong một cuộc phỏng vấn của nhà báo Phạm Hồng Sơn
được đăng trên trang Blog Phạm thị Hoài, trong đoạn sau cùng của bài phỏng vấn
2 ông ấy đã nói như sau:
- Ông Huỳnh Nhật Tân: “Tôi có lỗi với dân
tộc. Chính cái hăng hái, nhiệt huyết của tôi đã góp phần dựng lên chế độ độc
tài hiện nay. Đã vô tình đem lại sự đau khổ hiện nay. Và nếu xét về những căn
bản để đảm bảo tự do cho nhân dân và độc lập cho dân tộc thì tôi cũng đã vô
tình góp công sức đưa những người mang danh là “cách mạng” nhưng thực chất là
vì quyền lực tới phá bỏ một chế độ đã được xây dựng trên những căn bản về tự
do, dân chủ và nhân bản tại miền Nam Việt Nam.”
- Ông Huỳnh Nhật Hải:
“Bây giờ nhìn lại con đường chúng tôi đã đi trước 1975 là một con đường sai
lầm. Sự nhiệt huyết lúc đó của chúng tôi đã đem lại bất hạnh hơn là hạnh phúc
cho dân tộc.”
Và mới đây nhất là đảng viên
trẻ tuổi Nguyễn Chí Đức, một thanh niên đầy nhiệt huyết, bức xúc trước
sự hung hăng, bành trướng của tập đoàn CS Bắc Kinh xâm chiếm biển đảo của nước
ta, anh đã tham gia vào hàng ngũ người biểu tình yêu nước VN chống TQ xâm lăng.
Anh đã bị công an CSVN đàn áp, đạp vào mặt. Nhận thấy sự bất cập trong chính
sách của đảng, anh đã tự ý làm đơn xin ra khỏi đảng.
Ngoài những cán bộ đảng viên từ
cao cấp trở xuống có dũng khí, can trường dám thể hiện tư duy, chính kiến của
riêng mình trong khi còn tại chức còn lại hằng hà sa số những kẻ tham sống sợ
chết, tham quyền cố vị, khi còn tại chức thì hết lòng vì đảng, ra tay sát hại
dân lành, bòn rút xương máu của nhân dân, công quĩ, tài sản quốc gia, khi đã về
hưu hay bị ghẽ lạnh, thất sủng hoặc bị kỷ luật sa thải thì lúc đó lại cao giọng
nói lời chỉ trích chính quyền CS và muốn tỏ ra là người đồng hành và đứng về
phía nhân dân.
Trở về với giới tạm gọi là trí thức VN một thời là TNSVHS
dưới chế độ VNCH.
Qua các dẫn chứng từ con người
đến sự việc và tính chất tư duy, đến việc làm của từng thế hệ trong bối cảnh
đặc thù của vũ đài chính trị VN trong suốt thời gian hơn 1/2 thế kỷ qua, toàn
thể quí vị gọi là trí thức trong giới SVHS Sài Gòn mà tôi đã nêu tên ở phần đầu
của bài viết, xét về phần học vị, bằng cấp thì các vị đa phần ở bậc cao, là
những bác sĩ, luật sư hoặc ít ra cũng là cử nhân. Tuy so với Gs Hoàng Minh
Chính hay những vị lão thành cách mạng tương tự khác thì các vị chỉ là một
chiếc lá vàng rụng giữa rừng thu, nhưng so với các nhân vật khác mà tôi đã dẫn
thì các vị đa phần ngang bằng hay hơn hẳn. Thế nhưng ở đây vấn đề bằng cấp, học
vị không phải là “tiêu chuẩn” hay thước đo để đo lường phẩm giá con người, mà ở
đây sau khi tôi đã phân tích các nhân vật nêu trên thì các vị (lãnh đạo SVHS
SG) có lấy làm hổ thẹn? Cái khí phách, nhiệt huyết hừng hực trong tim của các
vị ngày xưa và các nhân vật tôi kể trên trong thời tuổi trẻ cũng ngang nhau.
Thế nhưng trong quá trình dấn thân, cống hiến cho lý tưởng mình theo đuổi thì
các nhân vật nêu trên đã “ngộ” ra rằng con đường trước kia họ đi đã đưa đến sự
sai lầm, kể cả cái học thuyết mà họ ca ngợi và rao giảng! Tuy nhiên, họ đã
không dừng ở sự nhận thức suông mà đã can đảm, sẵn sàng hy sinh, phá bỏ tất cả những luận điệu tuyên
truyền dối trá và tội ác xấu xa. Với dũng khí can trường họ cương quyết rẽ lối
hoặc quay về, đồng thời khẳng khái nói lên sự sai trái, xấu xa của chủ nghĩa mà
một thời họ tôn thờ và ấp ủ như GS Hoàng minh Chính, Trung tướng Trần Độ, lão
thành cách mạng Nguyễn Hộ, UV BCT TƯ đảng Trần Xuân Bách, Bộ trưởng Ngoại giao
Ung Văn Khiêm… cùng các nhân vật cấp cao thượng tầng của đảng CSVN mà trong đó
đa phần là đã vào tuổi xế chiều. Đáng lý ra họ được an nhàn và hạnh phúc của
bản thân và gia đình. Thế nhưng với cái khí phách “ngang tàng” của kẻ sĩ không
cho phép, lương tâm và lý trí của một con người trí thức đúng nghĩa không bằng
lòng với cảnh:
“Bó thân về với triều đình,
Hàng thần lơ láo phận mình ra đâu.
Áo xiêm ràng buộc với nhau,
Vào luồn ra cúi công hầu mà chi?” (Kiều-Nguyễn Du)
So về danh và
phận thì các vị lãnh đạo SVHS chỉ là những cái bóng lu mờ. Về khí phách, dũng
khí can trường thì các vị theo tôi nghĩ rất lấy làm hổ thẹn.
Gần đây các vị lại mang danh là
các nhân sĩ trí thức làm đơn xin đảng, chính quyền để được đi biểu tình thể
hiện lòng yêu nước. Tôi thấy thật buồn cười và lấy làm xấu hổ giùm cho các vị.
Là trí thức nhân sĩ mà làm đơn xin kẻ ác, kẻ cướp cho tôi cho được lấy lại tài
sản của tổ tiên đã bị tước đoạt!? Cuối cùng các vị đã được phúc đáp thế
nào? Có phải cái đơn của các vị nó bị vứt vào góc tủ lãng quên hay có khi là
trong sọt rác và nó đã chết khi chưa ráo
mực? Các vị ngây thơ hay đóng kịch? Có phải vẫn cảnh, màn lừa bịp nhân dân để
cứu nguy cho đảng? Sau khi đệ trình cái đơn ngớ ngẩn đó các vị đã nói rằng nếu
không được đáp ứng thì các vị sẽ tự tổ chức biểu tình và meeting! Từ đó các vị đã tổ chức được bao nhiêu lần? Sao không tổ chức mà lại im hơi lặng tiếng? Cái
hào khí của các vị đã bị đảng cầm tù rồi chăng? Hay các vị đã tự nguyện dâng
lên làm quà cho đảng?
Ngày xưa các vị lao vào các
cánh cửa học đường như cơn bão lớn cuốn phăng SVHS bãi khóa xuống đường. Lúc ấy
các vị có đệ đơn lên tòa đô chính hay phủ đầu rồng để xin phép được biểu tình
chống Mỹ để sau đó tự do và hiên ngang gào thét giữa đường phố Sài Gòn rằng “…Xin
một lần nằm xuống… nhìn anh em đứng lên phất cao ngọn cờ…???”
Hào khí ngất trời và vô cùng sôi
động khi vào ngày 11/7/1970 sau khi tổ chức đại hội SVHS thế giới kỳ I được tổ
chức trước đó tại trường Nông lâm súc, đã biến thành cuộc xuống đường rầm rộ,
đoàn biểu tình trương cao cổ quan tài đỏ ghi đậm hai câu thơ của Tố Hữu:
” Căm thù lại giục căm thù…
Máu kêu trả máu, đầu kêu trả đầu.!”
và tiến thẳng về tòa đại sứ Mỹ trao cho đại sứ
Bunker bảng tuyên bố “Đại hội”.
Trong cuộc biểu tình này ngoài Huỳnh
Tấn Mẫm và chủ tịch đoàn đại hội ra còn có đại diện cho Văn Khoa là Hạ
Đình Nguyên, Nguyễn Hoàng Trúc, Nguyễn Thị Yến (thủ quỹ tổng hội), HS Lê
Văn Nuôi (chủ tịch tổng đoàn HSSG) cùng nhiều đại diện cho các phân khoa
đại học khác nữa. Cao trào thật sôi nổi, tất cả đều băng mình lao về phía trước
(theo sự dẫn đường của trí tuệ, tiếng gọi của trái tim chân chính hướng về tổ
quốc non sông hay từ mệnh lệnh của tập đoàn quỉ dữ mà không cần biết phía trước
là vườn hoa thơm cỏ lạ hay là bãi tha ma?).
Riêng về ông Nguyễn đăng Trừng: Là một
thanh niên miền trung nghèo khó, được mái trường Phan chu Trinh Đà Nẵng giáo
dục và sau này được trường Đại Học Luật khoa Sài Gòn đào tạo dưỡng nuôi,
để rồi mang cái vốn liếng đó đi theo loài quỉ dữ. Đến năm 1968 sau biến cố Mậu
Thân thân phận của Trừng bị bại lộ nên rời tổng hội SVSG chạy vào bưng theo đảng,
lúc này Trừng ở ban thanh vận trung ương cục Miền Nam, sau đó chuyển qua làm
cán bộ ban an ninh T4 trực thuộc đặc khu Sài Gòn-Gia Định mãi cho đến năm 1975.
Tôi phải nói rõ ở phần cá nhân ông Trừng ở phần này vì có sự liên quan đến
đạo đức của một con người mà đã hấp thu nền học vấn từ trường luật Sài Gòn như
sau:
Năm 1970 Lê khắc sinh Nhật một SV Luật
đã đánh bại liên danh Trịnh đình Ban ( Bảy Điểm CS thành đoàn) giành
thắng lợi trong cuộc bầu cử ban đại diện Luật khoa niên khóa 1970-1971. Sau đó
Lê khắc sinh Nhật đứng chung liên danh với Lý bửu Lâm và giành thắng lợi
trong cuộc bầu cử ban đại diện tổng hội SVSG niên khóa1970-1971 ngày 20/6/1971
sau 4 niên khóa liền SV Việt cộng thành đoàn, đặc khu ủy Sài Gòn- Gia Định chỉ
đạo (Hồ hữu Nhựt, Nguyễn đăng Trừng, Nguyễn văn Quỳ và Huỳnh tấn Mẫm) do đó VC cay cú và ra lịnh ám
sát Lê khắc sinh Nhật ngay trường Luật ngày 28/6/1971.
Đến ngày 10/11/1971 lại ám sát GS Nguyễn văn Bông ngay ngả 3
đường Cao Thắng-Phan thanh Giản (Điện Biên Phủ ngày nay) khi xe của GS vừa
trong Học Viện Quốc Gia Hành Chánh đi ra. GS Nguyễn văn Bông là GS chuyên giảng
dạy môn Công Pháp Quốc Tế. Lúc đó giới Luật ở SG gọi GS là “Vua Công Pháp”. Đây
là một tổn thất lớn cho ngành luật ở VN lúc bấy giờ. Vắng GS Bông, môn công
pháp lúc đó ở trường luật hầu như bị tê liệt trong một thời gian dài. Có nguồn
tin được tiết lộ rằng GS chuẩn bị lên làm Thủ Tướng chính phủ VNCH thay thế Thủ
Tướng Trần thiện Khiêm. Tất cả 2 vụ ám sát trên đều do ban an ninh T4 thực
hiện. Hoạch định kế hoạch này thì Nguyễn đăng Trừng trực tiếp tham gia và góp
phần không nhỏ, bởi Trừng là người bao nhiêu năm nằm trong hàng ngũ SV và làm
tay sai đắt lực cho CS họat động ở nội đô. Nói như thế thì đã khẳng định rằng bàn tay của Nguyễn
đăng Trừng đã “Vấy Máu” của SV Lê khắc sinh Nhật và GS Nguyễn văn Bông.
Một người là bạn cùng trường và một người là thầy đã nhiều năm dạy dỗ cho hắn
ta tích lũy từng kiến thức một. Ở đây ta nói lên tính cách của một con người CS
với các bản chất lừa thầy, phản bạn. Riêng ở Nguyễn đăng Trừng còn cao hơn là
giết chết cả thầy lẫn bạn để làm bậc thang bước lên trên con đường gây tội ác
cho nhân dân. Hơn thế nữa, là một Luật sư học trò của các GS Vũ văn Mẫu, Nguyễn
văn Bông, Vũ quốc Thúc…hẵn ông Trừng cũng đã hiểu sâu xa và vốn kiến thức về
luật cũng không tồi, mặc dù ông dành thời gian để làm tay sai cho đảng nhiều
hơn là để học. Như vậy tất nhiên ông cũng đã thấy rõ cái tập đoàn đảng CSVN mà
ông cung phụng có một não trạng vô cùng u tối cộng thêm dã man, rừng rú…ngạo
mạn phủi chân ngồi trên đầu các ông, ngồi xổm trên pháp luật mà ban ra những
chủ trương vô nhân đạo, phản nước hại dân. Thế thì cái vốn kiến thức kia các
ông vứt nơi đâu? Tại sao phải cúi đầu phụng mệnh? Có phải chăng cái bã vinh hoa
hời lồng trong chiếc bánh vẽ mà đảng đã bố thí cho các ông và lấy từ xương máu
của nhân dân?
Nói về ông Lê hiếu Đằng: Là một SV
Việt cộng kỳ cựu, Đằng chịu dưới sự sai bảo trực tiếp của tên CS thuộc Thành
đoàn Nguyễn ngọc Phương (Ba Triết) và cùng khóa tổng hội SVSG với Nguyễn đăng
Trừng. Ông cũng xuất thân là học trò của các GS tôi vừa nêu ở trên. Cái hèn của ông cũng ngang tầm
với N.đ. Trừng và H.t.Mẫm. Đến hôm nay ông tự nhận lấy tư cách là trí
thức cùng với các ông “Lãnh đạo phong trào SVHS chống Mỹ cứu nước” cùng nhau ký
đơn xin được đi biểu tình thể hiện lòng yêu nước thì tôi thấy thật là lố bịch
và nhục quá! Vừa rồi còn tự thú “Tôi đã từng sinh hoạt trong đảng, tôi thấy
chỉ dựa vào phê và tự phê, đấu tranh nội bộ thì hiện nay không có hiệu quả nữa.
Nó đã bị vô hiệu hóa ở chỗ trong các đảng viên có tình trạng nói dối và sợ lẫn
nhau. Có bao giờ đảng viên bình thường dám phê bình lãnh đạo của mình? Bản thân
lãnh đạo cũng nương nhẹ nhau vì cũng sợ người khác phanh phui ra khuyết điểm
của mình.”. Những điều ông nói ở trên có thật vậy sao ông? Chỉ có những người
“ trong nội bộ đảng” của các ông mới biết sao? Và đến ngày nay mới có à! Đúng
là ông đã bị CS cướp mất linh hồn và lý trí kể từ khi ông còn mài đủng quần ở
khoa Luật SG và nghe theo đám CS nằm vùng ở Thành đoàn, ông không còn cảm thấy
nhục khi mình dù sao cũng là một SV có học thức mà chịu sự sai khiến, chỉ bảo
của tên CS vô học Ba Triết mà ông tự cho là hắn “sinh hoạt”? Tôi không ở trong
nội bộ của những kẻ vô đạo của các ông nhưng tôi biết chắc chắn một điều rằng
những lời ông vừa nói ở trên nó đã có từ những ngày đầu mà HCM du nhập
rác rưởi về làm ô nhiễm đất nước VN và còn gấp vạn lần như ông nói ông ạ!
Ông còn nói thêm “Nếu hội nghị T.Ư 6 không
đặt lợi ích đất nước, lợi ích Tổ Quốc lên trên mà đặt quyền lợi phe nhóm hoặc
bản thân cái ghế của mình thì sẽ không đi đến đâu. Sẽ đi đến tình trạng thỏa
hiệp. Có thể đi đến một giải pháp không triệt để trong vấn đề chống tham
nhũng.” Ông càng nói ra tôi thấy càng thêm nặng mùi…Ở đây tôi khẳng định
rằng không có chữ “nếu” nhưng mà tại sao phải dùng từ “nếu” nhỉ? Gần 200 tên
nắm cả trái tim của Tổ Quốc mà không dứt khoát phải vì dân, vì nước mà phải
“nếu” ? Và chính ông cũng dư hiểu rằng các vị tổ sư đang ngồi xổm trên Hiến
Pháp, trên cả “Luật” mà ông đã từng học đang chém giết lẫn nhau để giành quyền
lợi rồi mà! Trước đây tôi đã viết “Phe nào thắng thì nhân dân cũng trắng tay”
ông có đọc được? Thế thì cái bãi sình mà những sư phụ của các ông đang lột quần
áo nhau ra cấu xé không phải vì lợi ích phe nhóm hay là ghế như ông nói thì là
gì? Và sẽ đi đến “Thỏa hiệp” là sao? Thỏa hiệp chính trị để cùng nhau lo cho Tổ
Quốc à? Tôi cũng khen ông nói rõ ở điểm này.
Các con sâu ở thượng tầng có thể không chém
nhau bằng đao kiếm mà sẽ “ thỏa hiệp thương lượng” để chia phần bòn rút, chia
lãnh địa để bóc lột nhân dân. Tôi xin tiếp lời của ông vì ông còn ngại ngần
không dám nói toẹt ra. Dù sao trên đầu của ông cũng còn chiếc búa và lưỡi liềm
cùng lá cờ đẫm máu của dân tộc đang bay phấp phới.
Tệ hại hơn…từ đó đến nay, trong bóng đêm
những tên gọi là trí thức dấu thẻ đảng trong người vẫn cúi đầu làm tay sai cho
đảng như kẻ vô hồn lầm lũi đi trong mưa. Nhưng đôi khi cũng tỏ ra “cuốn theo
chiều gió” ngã lòng về phía nhân dân…nhưng thực ra vẫn giữ cái bản chất dối
lừa, ởm ờ phản biện nhưng thật ra đó là những cánh tay lông lá của loài khỉ
vượn được nối dài từ cửa động Ba Đình.
Gần đây ông Lê hiếu Đằng lại chắp thêm đôi
cánh làm “cò” bay lượn…nói lời thức tỉnh bi ai…tính sổ với đời với đảng
trên giường bệnh ở cái không gian gần kề “Funeral Home”. Cái chiêu bài lập đảng
cò mồi…hô hào cùng nhau bỏ đảng (trong lúc mình luôn giữ khư khư thẻ đỏ sợ đưa
ra nắng sẽ bị nhạt màu mà mất sổ hưu) để lập nên cái gọi là đảng DCXH để
làm theo sự chỉ bảo của 16 con cáo Ba Đình? Với mục tiêu xoa dịu dư luận xã hội
và làm xì hơi quả khinh khí cầu “Dân Chủ, Nhân Quyền” đang gây áp lực cho tập
đoàn CSVN từ trong lẫn ngoài nước. Bài học năm 1946 Hồ tập Chương hô hào thành
lập “Chính Phủ Liên Hiệp” để cùng nhau chung sức chống thực dân để rồi dễ dàng
triệt tiêu, tàn sát sĩ phu yêu nước nghe theo lời Hồ cáo vẫn còn đó. Bây giờ
cái gọi là đảng DCXH cũng vẫn một bài “Đường xưa lối cũ” thật rẻ tiền. Những
đảng viên thức tỉnh nghe theo thì xem như “lộ mặt gian thần của đảng”. Chiêu
này một mũi tên bắn hai mục đích. Một là phần nào tỏ ra dân chủ đa đảng đa
nguyên để tiếp tục lừa mỵ người dân mà kéo dài cai trị. Hai là nhân cơ hội này
mà thanh trừng nội bộ, những đảng viên thức tỉnh cùng những sĩ phu trí thức có
lòng yêu nước, chống độc tài đảng trị thì sẽ có kết quả như các nhà chí sĩ
Nguyễn hải Thần, Vũ hồng Khanh hơn 60 năm về trước. Bài ca Lê hiếu Đằng
xướng giọng và Hồ ngọc nhuận đệm đàn thật lố bịch không xứng tầm với kẻ dù sao
cũng đã từng thu vào tim đưa vào trí những lời giáo huấn dưới mái Đại Học đường
Quốc gia Miền Nam VN ngày trước và một kẻ cũng đã kinh qua trong hàng ngũ dân
biểu của nước VNCH.
Các TNSVHS Việt cộng với vốn kiến thức được xã hội VNCH trang bị cho có
cảm thấy ray rức và thầm hổ ngươi khi đến thời điểm hôm nay mà còn đứng trong
hàng ngũ 500 ông, bà nghị gật và vô thức thông qua, họp thức hóa những chiếc
thòng lọng mà đảng đã tạo sẵn để siết vào cổ nhân dân? Có cảm thấy hổ thẹn với
những bậc thức giả mà tôi đã nêu ở phần đầu. Tuy họ có lầm đường nhưng họ có dũng khí, đảm lược
và can đảm rẽ lối hoặc quay về. Trình độ các vị hơn hẳn
hai anh em nhà họ Huỳnh ở Đà Lạt nhưng các vị có dám nhìn thẳng vào ánh mắt
của hai anh em này nếu mai kia trời xui lỡ gặp? Hay các vị có dám nói lời gì
khi đối diện với người thanh niên Nguyễn Chí Đức tuổi đời đáng hàng con cháu
của mình? Các vị có đủ can đảm hạ mình xin một lời vàng ngọc? Hay tảng lờ quay mặt bỏ đi!
Các vị nói gì với nhân dân, với
tổ quốc trong khi các vị vẫn tự dối lấy chính mình? Không cần các vị phải như
các nhà trí thức đáng quí ở trên mà chỉ cần có được một phần nhỏ là đem hết sức
bình sinh của mình để nâng chiếc thẻ đảng nhẹ như cánh bèo mà trả về nơi nó đã
sinh ra cũng giống như người thanh niên Nguyễn Chí Đức đã làm. Trên phương diện
và ý thức này tuổi tác cùng những tội lỗi của thời dĩ vãng không là rào cản và
cũng chẳng có biên cương nếu tâm hồn, trái tim và khối óc vẫn chưa trở thành nô
lệ.
No comments:
Post a Comment