Phạm Chí
Dũng
17/10/2013
Ở
Việt Nam, EVN là một trong những dẫn chứng sống động và dối trá nhất về việc
người ta đã mượn dĩ vãng kinh tế chỉ huy để trục lợi như thế nào. Trong điều
kiện nền chính trị độc đảng, thủ đoạn lợi dụng càng trở nên có ý nghĩa hơn. Độc
quyền và đặc lợi cũng vì thế đồng nghĩa với tội đồ, đối với nền kinh tế và đời
sống dân sinh.
Bù lỗ
vào dân!
Tháng 10/2013. Tròn hai năm từ thời điểm nhiều khuất
tất của Tập đoàn điện lực Việt Nam (EVN) lần đầu tiên được lôi ra ánh sáng. Một
lần nữa, báo chí trong nước phải dùng đến từ “phẫn nộ” đối với điều bị xem là
tội ác của một tập đoàn luôn được chở che bởi cơ chế đặc quyền đặc lợi.
Hai năm trước, vào lúc nền kinh tế Việt Nam dợm chân
vào suy thoái, sự đổ bể của hai thị trường chứng khoán và bất động sản đã kéo
theo một phát minh không tiền khoáng hậu kể từ thời mở cửa: những doanh nghiệp
nhà nước đặc trưng bởi chủ thuyết “giá chỉ có tăng chứ không giảm” như EVN và
Petrolimex (Tập đoàn Xăng dầu Việt Nam) đã tạo thành cặp song sinh có chung hậu
môn. Hàng loạt chiến dịch đầu tư trái ngành của các tập đoàn này vào chứng
khoán, bất động sản và bảo hiểm rốt cuộc đã tích đọng gánh nợ đến trên 40.000
tỷ đồng.
Trong suốt hai năm qua, toàn bộ số nợ nần đó đã được
EVN và Petrolimex tuồn qua tuyến đại tràng để đổ lên đầu người dân đóng thuế.
Nhưng cũng trong suốt hai năm qua, bất chấp những
đợt tăng giá điện vô tội vạ của EVN, đã không có bất cứ cuộc kiểm tra nào được
làm tới nơi tới chốn. Tất cả những dấu hiệu khuất lấp về tài chính và số lương
“nghèo khổ” ít nhất vài chục triệu đồng theo đầu người ở tập đoàn này mà dư
luận bức xúc từ năm 2011, đã hầu như không được cơ quan chủ quản của EVN là Bộ
Công thương đón nhận. Không những thế, những lãnh đạo cao nhất của Bộ Công
thương như ông Vũ Huy Hoàng vẫn không ngơi nghỉ một chiến dịch khác: PR cho
“cậu ấm hư hỏng” của mình.
Đó là một dạng PR không mới, nhưng lại chỉ được dư
luận người dân Việt đặt tên chính thức từ năm 2012: PR chính sách. Chủ thể của
hoạt động này chính là cái tên “nhóm thân hữu” – một chủ đề mà chưa một ủy viên
Bộ Chính trị nào dám mổ xẻ trước bàn dân thiên hạ.
Nhóm thân hữu, về bản chất, lại có mối quan hệ ruột
rà và móc xích giữa các chính khách ở các cấp khác nhau, từ dưới lên và từ trên
xuống. Trong từng trải của người dân Hà Nội, thực tế sinh tồn của các doanh
nghiệp lệ thuộc vào chính sách từ nhiều năm qua đã chứng tỏ một nguyên tắc bất
thành văn là chỉ có chính sách mới tạo ra được lợi nhuận, để đến lượt mình, lợi
nhuận phải quay lại “nuôi” chính sách.
Không quá khó hiểu là những động thái PR chính sách
đã xuất hiện không ít lần, kể cả ở cấp Chính phủ. Cũng không ít lần, cứ sau
cuộc họp thường kỳ hàng tháng của Chính phủ, phát ngôn viên của cơ quan này là
Bộ trưởng Vũ Đức Đam – người đang được hứa hẹn sẽ “nâng lên một tầm cao mới” –
lại đăng đàn với những lời lẽ lấp lửng về lộ trình tăng giá của EVN và
Petrolimex.
Nhưng không giống với sự mơ hồ vô cùng tận của cụm
từ “kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa”, kết quả của sự lấp lửng từ
các nhóm lợi ích thời nay thường dẫn đến thái độ tăng giá “quyết liệt” – từ ngữ
mà giới lãnh đạo chính phủ hay dùng – ngay sau đó.
Như một quy luật, giá điện và giá xăng dầu tìm mọi
cách tăng vào thời gian giữa hai kỳ họp Quốc hội. Còn trong thời gian phiên họp
Quốc hội, những nhà làm giá lập tức áp dụng chính sách giảm giá, nhưng chỉ là
giảm cho có, để thường sau khi Quốc hội “thành công tốt đẹp”, giá lại ào ào
tăng lên.
“Giết
sống” dân chúng
Giá xăng dầu và điện lực tăng tất yếu dẫn đến lạm
phát. Trong thực tế, chỉ số tiêu dùng CPI bị tác động không nhỏ và lập tức kích
hoạt hàng loạt đợt tăng giá của hàng tiêu dùng, thực phẩm, giá vận tải hành
khách và hàng hóa, giá nhà trọ…, làm khốn khó hơn cho đời sống dân nghèo vốn đã
quá khó khăn.
Đời sống dân sinh ấy lại liên đới quá đỗi hữu cơ với
một phần lớn lực lượng vũ trang và công chức viên chức nhà nước. Một viên thiếu
tá an ninh than thở “Không thể tích lũy được chỉ với chục triệu bạc lương, vì điện
và xăng ngốn hết cả rồi”.
Thế nhưng đối mặt với tất cả những trớ trêu và
nghịch lý tận cùng ấy, lãnh đạo Bộ Công Thương vẫn im lặng, trong khi vài ba
viên chức cấp vụ của bộ này vẫn cố gắng “an dân” bằng thuyết minh việc tăng giá
xăng dầu và điện không ảnh hưởng nhiều đến CPI.
Phụ họa cho điều được coi là “ảnh hưởng không nhiều”
trên, các nhà làm thống kê Việt Nam luôn đưa ra những con số không cần nguồn
gốc. Chỉ có điều cho đến nay, rất nhiều người dân và cả giới chuyên gia nhà
nước đã không còn tin vào các con số thống kê nữa. Một trong những scandal lớn
nhất vừa xảy ra là giới chuyên gia phản biện đã thẳng thừng vạch ra hiện tượng
“GDP có chân”, châm biếm về tình trạng báo cáo theo chủ nghĩa thành tích của
các địa phương, và ngay cả con số GDP mà lãnh đạo chính phủ nêu ra cũng khó có
thể mang trên mình tính thực chất.
Nhưng hoàn toàn ngược lại, lợi nhuận mới là thực
chất nhất trong tất cả những vụ áp phe đình đám. Một cuộc thanh tra của Thanh
tra chính phủ mới đây đã phát hiện trong bảng giá thành của mình, EVN đã hạch
toán cả các công trình xây bể bơi, sân tennis và biệt thự vào giá bán điện. Giá
bán điện lại được phổ cập cho mặt bằng dân trí thấp kém trong dân chúng. Và
thêm một lần nữa, người ta có được bằng chứng về cái được coi là “trận đánh
đẹp” của EVN: cuộc chiến bù lỗ vào dân.
Sau khi tăng giá liên tục trong hai năm qua, nợ ngân
hàng của EVN đã được rút bớt. Nhưng chỉ là bớt một ít. Với hơn 30.000 tỷ đồng
thất bát từ đầu tư trái ngành, EVN luôn phải đối mặt với tương lai phá sản nếu
không thanh toán được cho các chủ nợ.
Trong khi đó, một con số lần đầu tiên được công bố
là EVN chính là doanh nghiệp vay nợ ngân hàng lớn nhất Việt Nam, với hơn
118.000 tỷ đồng. Đây là mức dư nợ lớn nhất mà hệ thống ngân hàng dành cho một
tập đoàn nhà nước.
Với nợ nần khổng lồ và số lỗ do đầu tư trái ngành,
người ta ước tính EVN phải tăng giá điện liên tục đến năm 2017-2018 thì mới may
ra “hòa vốn”.
Thế nhưng cái điểm hòa vốn đầy tính nhân quả ấy lại
có thể khiến những người dân nghèo nhất phải quyên sinh. Bởi theo nguyên lý từ
thời tư bản dã man, nếu doanh nghiệp độc quyền hòa vốn, nhân dân phải chịu lỗ;
còn khi doanh nghiệp độc quyền có được lợi nhuận, nhân dân chắc chắn phải mất
đi phần lớn thu nhập của mình.
Không chỉ mất tài sản, người dân còn phải trả giá
bằng cả sinh mạng bởi lối hành xử vô lương tâm của những quan chức độc quyền
nhà nước. Vụ xả lũ không thông báo trước ở Đắc Lắc vào tháng 9/2013 chính là
một cách “giết sống” 12 cư dân nghèo nàn nơi rốn lũ, với trách nhiệm không chỉ
thuộc về doanh nghiệp thủy điện và chính quyền Đắc Lắc, mà còn liên đới đến
những lãnh đạo của EVN.
Tuy nhiên sau vụ “giết sống” trên, những phóng viên
báo chí quốc doanh đành ôm hận vì bị giới tuyên giáo “chặn họng”. Cũng không có
bất kỳ một quan chức vô trách nhiệm nào phải đối mặt với vành móng ngựa.
Tán tận lương tâm chắc chắn là từ ngữ hiển thị đầy
đủ nhất tâm địa của các doanh nghiệp độc quyền trong những năm suy thoái kinh
tế qua. Kinh tế càng xuống dốc, đời sống người dân càng túng quẫn, chủ nghĩa
thực dụng và lợi nhuận càng lên ngôi, thái độ sống chết mặc bay càng đội mồ
sống dậy.
Truy cứu
độc quyền!
Sự tán tận lương tâm của quan chức và hậu quả của nó
không thể không liên quan đến trách nhiệm của giới lãnh đạo chính phủ, những
người đã im lặng hoặc “bật đèn xanh” cho EVN và Petrolimex gây nên các chiến
dịch tăng giá vào thời gian giữa hai kỳ quốc hội.
Không chỉ bị lên án bởi dư luận trong nước, khối u
độc quyền doanh nghiệp quốc doanh ở Việt Nam còn bị nhiều chính phủ xã hội dân
sự trên thế giới và các tổ chức quốc tế chỉ trích kịch liệt, bởi hiện trạng
bệnh hoạn đó đi ngược lại với những cam kết về “hoàn thiện nền kinh tế thị
trường” mà chính phủ Việt Nam đã hùng dũng cam kết trước cộng đồng quốc tế.
Hiện trạng bệnh hoạn trên lại liên quan mật thiết
đến chuyến đi lặng lẽ của Thủ tướng Nguyễn Tấn Dũng đến New York vào cuối tháng
9/2013. Trong cuộc gặp gỡ đó, ông Dũng đã đề xuất một sự “linh hoạt” mà Mỹ và
các nước trong Hiệp định đối tác kinh tế xuyên thái Bình Dương (TPP) “nên” dành
cho Việt Nam – như một đặc cách.
Chỉ có điều, làm thế nào để xứng đáng nhận ân huệ ấy
thì phía Việt Nam lại không nêu được một dẫn chứng cụ thể nào. Trong khi đó, từ
bỏ độc quyền là một trong những điều kiện then chốt để Việt Nam có thể ngẩng
mặt ngồi vào bàn đàm phán TPP.
Ít nhất, đã không có một cam kết cụ thể nào của Việt
Nam được phát ra về kế hoạch xóa bỏ thế độc quyền và cải cách doanh nghiệp nhà
nước. Tất cả những gì được hứa hẹn chỉ là “chúng tôi sẽ tiến hành cải cách”.
Song thời gian để cải cách là bao lâu lại tùy thuộc vào lòng hảo tâm của các
nhóm lợi ích đang lũng đoạn nền kinh tế Việt Nam, và còn lệ thuộc vào cả lòng
thành chính trị của các chính khách của đất nước này.
Nguyên tắc thương mại đa phương quốc tế rất rõ ràng:
chừng nào chưa xóa bỏ độc quyền doanh nghiệp, Việt Nam chưa thể đủ tư cách tham
dự vào bàn tiệc mà phương Tây đã bày sẵn. Không những thế, hệ quả đó còn làm
ảnh hưởng không nhỏ đến vị thế chính trị của giới chính khách lãnh đạo trước
người dân trong nước và trong mối cộng hưởng với các phản ứng của quốc tế.
Phản ứng của người dân, như báo chí trong nước đã
phải dùng đến từ “phẫn nộ”, sẽ không thể kéo dài tâm thế chịu đựng mãi. Nếu ở
những quốc gia như Bungaria, toàn bộ chính phủ đã phải từ chức vào đầu năm 2013
sau cú tăng giá điện của hai tập đoàn điện lực tư nhân mà đã khiến cho hàng
chục ngàn người dân Sophia đổ ra đường biểu tình, xã hội Việt Nam cũng có thể
là một hình ảnh tương tự trong không quá lâu nữa.
Sau hai năm kể từ lúc các chiến dịch “thủ ác” được
kích phát dồn dập và bất chấp oán thán dân tình, kẻ tội đồ EVN đã có đủ thời
gian chứng tỏ nó có năng lực gây ra tội ác ghê gớm đến thế nào.
Bất kể động cơ nào, dù thuộc về tranh đấu nội bộ hay
làm dịu tình cảm phẫn uất của dân chúng…, ban lãnh đạo EVN và cơ quan chủ quản
của tập đoàn này là lãnh đạo Bộ Công Thương cũng rất xứng đáng bị Quốc hội,
Thanh tra chính phủ và Bộ Công an tạm đặt ra “ngoài vòng pháp luật” về thế độc
quyền, đồng thời không thể bỏ qua trách nhiệm pháp lý về ít nhất 17 hành vi có
dấu hiệu sai phạm.
P.C.D.
Tác giả gửi trực tiếp cho BVN
No comments:
Post a Comment