Ngô Nhân
Dụng
Friday, October 18, 2013 6:16:29 PM
Một
nhà báo ngoại quốc, ông Jonathan Head, đến Việt Nam quan sát và tường thuật đám
tang ông Võ Nguyên Giáp cho đài BBC, nhận xét rằng trong số những người đến bày
tỏ lòng thương tiếc và ngưỡng mộ ông, ngoài các cựu chiến binh lớn tuổi còn có
hàng ngàn thanh niên, nhiều người chưa ra đời khi ông Giáp bị gạt ra khỏi Bộ
Chính Trị đảng cộng sản năm 1982.
Jonathan Head viết: "... những hàng dài thanh niên với nét mặt buồn bã chẳng kém vẻ mặt của các cựu chiến binh.” Nhưng Head cũng nhận xét, “Những khẩu hiệu Marxist cũ rích vẫn được đảng Cộng sản Việt Nam rao giảng nhưng không còn gì hấp dẫn với thế hệ trẻ, vốn đã biết sống theo khuynh hướng xã hội tiêu dùng; và biết những cơ hội mà kinh tế thị trường mang lại cho họ.” Trong khi đó, thì “Tướng Giáp đã luôn trung thành với các khẩu hiệu cũ rích đó... Ông không bao giờ đi chệch đường lối chính sách hay nói về bất cứ nghi ngờ hay mối lo khủng hoảng nào của chế độ... Thay vào đó, ông vẫn hùng hồn nói về quy luật tất yếu lịch sử là chủ nghĩa cộng sản sẽ thắng kinh tế tư bản.”
Võ Nguyên Giáp luôn luôn đóng vai trò một đảng viên cộng sản gương mẫu, tức là lúc nào cũng tin tưởng ở lý thuyết cộng sản và chấp nhận tất cả các quyết định của đảng, như trong mục này đã viết. Nhưng giải thích như vậy cũng không đầy đủ cho câu hỏi, như Huỳnh Thục Vy mới viết, tại sao ông Giáp “lặng thinh một cách vô cảm” trong nhiều trường hợp đáng lẽ phải lên tiếng.
Ông Giáp tuân theo lệnh đảng trước mọi quyết định đối với cá nhân. Vì vậy, ông cắn răng cam chịu khi bị nhóm Lê Duẩn, Lê Ðức Thọ tước hết quyền hành. Ông Giáp vẫn giữ chức tổng tư lệnh, bí thư Quân Ủy Trung Ương; còn làm phó thủ tướng, bộ trưởng quốc phòng, ủy viên Bộ Chính trị của đảng Cộng sản Việt Nam cho đến năm 1975 nhưng nhiều người chỉ có Lê Duẩn chịu trách nhiệm về cuộc chiến tranh xâm chiếm miền Nam. Ông mất chức bí thư Quân Ủy năm 1977, mất chức bộ trưởng Quốc Phòng năm 1980, rồi năm 1982 bị loại khỏi Bộ Chính Trị.
Sau đó, Lê Duẩn, Lê Ðức Thọ còn công khai làm nhục ông khi phong Võ Nguyên Giáp làm chủ tịch Ủy Ban Dân Số và Sinh Ðẻ Có Kế Hoạch, tức chương trình hạn chế sinh sản, còn gọi là cai đẻ. Với chức vụ tổng chỉ huy chiến dịch cai đẻ của ông, dân miền Bắc đã đặt câu ca dao chế nhạo: “Ngày xưa đại tướng cầm quân - Ngày nay đại tướng cầm quần chị em - Ngày xưa đại tướng công đồn, vân vân.”
Không ai nghe ông Giáp than phiền lời nào khi bị nhóm Lê Duẩn, Lê Ðức Thọ hạ nhục trước mặt cả nước như thế. Nhưng trong chín năm làm phó thủ tướng phụ trách khoa học, kỹ thuật, từ 1982 đến 1991, cũng không ai thấy nước Việt Nam đã có những tiến bộ đáng kể nào về khoa học, kỹ thuật. Ngay cả việc sinh đẻ có kế hoạch cũng không ra gì; bằng cớ là dân số Việt Nam đã tăng vọt từ đó tới nay.
Lê Duẩn, Lê Ðức Thọ là những người đồng thời với Võ Nguyên Giáp, dù địa vị thấp hơn nhiều. Ông chịu thua họ, cũng là điều chấp nhận được. Nhưng sau đó, cả đám thuộc hạ hàng thứ ba, hạng tư, như Lê Ðức Anh, Ðỗ Mười lại hạ nhục ông Giáp thêm một lần nữa. Họ phổ biến các tài liệu tố cáo ông từng là con nuôi của chánh sở mật thám Ðông Dương, Louis Marty; từng bán bí mật quân sự cho Ðại sứ Liên Xô Serbakov; còn trong chiến dịch Ðiện Biên Phủ thì Giáp hèn nhát, sợ chết, quanh quẩn trong hầm, không dám ra ngoài (Gần đây, ông Bùi Tín xác nhận rằng hầm trú ẩn của ông Giáp khá an toàn, nằm ngoài tầm trọng pháo của quân Pháp). Ðó là chưa kể cái tội ăn nằm với một cô giáo tới nhà dạy piano. Lê Ðức Anh, Ðỗ Mười đã đuổi Võ Nguyên Giáp ra khỏi Trung Ương Ðảng, một hành động trước đó Lê Duẩn, Lê Ðức Thọ còn tha, chưa nỡ tước bỏ. Bọn Lê Duẩn lột bỏ mũ mãng của Giáp nhưng còn cho mặc cái quần; bọn Ðỗ Mười, Lê Ðức Anh lột hết. Trong mấy chục năm, Bộ Chính Trị đặt ra những chức cố vấn. Lê Ðức Thọ, Phạm Văn Ðồng, Võ Chí Công, vân vân, rồi sau này tới Võ Văn Kiệt, Lê Ðức Anh, Ðỗ Mười đều được mời vào chức cố vấn; nhưng không ai ngó tới Võ Nguyên Giáp.
Võ Nguyên Giáp không bao giờ phản đối, cũng không hề cất tiếng than phiền về thân phận của mình. Lúc bị hạ bệ, đẩy xuống phụ trách việc cai đẻ, ông Giáp có thể từ chức, về hưu, vì đã ở tuổi 70 rồi, để tỏ thái độ, và giữ gìn danh tiết của một con người, nhất là của một ông tướng. Nhưng ông không dám cãi. Thái độ chịu đựng đó cũng thấy trong vụ Lê Duẩn và Lê Ðức Thọ phát động “Vụ Án Xét Lại Chống Ðảng.” Họ nhắm vào ông Giáp nhưng không đánh trực tiếp, mà tấn công vào những người đồng chí trung thành của ông: Thượng tướng Chu Văn Tấn, tư lệnh Quân Khu Việt Bắc; Thiếu tướng Ðặng Kim Giang chỉ huy hệ thống hậu cần trong chiến dịch Ðiện Biên Phủ; Tướng Lê Liêm; Trung tướng Trần Ðộ; người tiếp nhận việc đầu hàng của tướng de Castries; Ðại tá Ðỗ Ðức Kiên cục trưởng tác chiến; Ðại tá Phạm Quế Dương; ông Hoàng Minh Chính; Ðại tá Lê Minh Nghĩa, chánh văn phòng Bộ Tổng Tham Mưu, trưởng đoàn quân sự Việt Nam trong hội nghị Trung Giá; Ðại tá Ðỗ Ðức Kiên; Ðại tá Lê Trọng Nghĩa, cục trưởng Cục Quân Báo; Ðại tá Nguyễn Văn Hiếu chánh văn phòng Bộ Quốc Phòng; và Tổng biên tập báo Quân đội Nhân dân Hoàng Thế Dũng, vân vân. Tất cả bị vu cáo tội “chống đảng, xét lại, làm gián điệp cho nước ngoài.” Võ Nguyên Giáp biết những lời cáo buộc đó đều là ngụy tạo, nhưng ông không bao giờ mở miệng, không bênh vực, không bảo vệ, hay giúp đỡ những đồng đội trung thành đang bị bè lũ cầm quyền đàn áp.
Thái độ “chui trong hầm trú ẩn” của ông không biểu lộ trong đời tư mà thôi; trong cả việc công cũng vậy. Ông Giáp không nói một lời nào khi các chính sách kinh tế của đảng làm dân tộc kiệt quệ, nhiều nông dân chết đói, trong lúc ông đang làm phó thủ tướng. Gần đây, ông không hề lên tiếng khi đảng cộng sản đàn áp dân Việt Nam biểu tình chống Trung Cộng lấn chiếm Biển Ðông và đánh giết ngư dân Việt Nam. Ông không bàn một lời nào đến nạn tham nhũng lan tràn, hoàn toàn im lặng khi các nông dân mất ruộng, mất nhà đi biểu tình phản đối khắp nước. Việc ông lên tiếng về vụ bô xít giúp người ta nhớ đến ông; nhưng sau đó ông lại tiếp tục chui xuống hầm; bị coi là chỉ “đánh trống bỏ dùi.” Trước sau, ông Võ Nguyên Giáp vẫn chui dưới hầm, ngoài tầm pháo kích của các đồng chí đang nắm quyền sinh sát.
Giải thích thái độ im lặng của ông Giáp bằng tinh thần kỷ luật của một đảng viên trung kiên thì không đủ. Nhiều đảng viên và tướng lãnh đã từng lên tiếng phản đối chính quyền cộng sản tham nhũng, lệ thuộc Trung Cộng, và bất lực về kinh tế.
Các tướng Trần Ðộ, Nguyễn Văn Vịnh, Ðại tá Phạm Quế Dương, họ đâu có cam ngậm miệng khi thấy lòng dân phẫn uất?
Cho nên, ông Võ Nguyên Giáp lựa chọn chui xuống hầm chỉ vì lo cho chính ông, và con cháu ông.
Ông Giáp biết các đồng chí trong đảng Cộng sản không từ bỏ một thủ đoạn nào khi họ cần bảo vệ quyền hành. Họ cướp được chính quyền là nhờ dám giết người nhiều hơn, tàn bạo hơn những đối thủ chính trị của họ. Chính ông đã chỉ huy các vụ tàn sát các đảng phái quốc gia yêu nước trong năm 1946; ngụy tạo vụ Ôn Như Hầu để bắt, giết các chiến sĩ Quốc Dân Ðảng, Ðại Việt Dân Chính, những người thoát chết phải sang Trung Quốc lưu vong. Ông đã biết rằng trong đảng bất cứ ai cũng có thể bị thủ tiêu. Ông biết những cái chết bất đắc kỳ tử mờ ám của bộ trưởng Dương Bạch Mai hay Ðại Tướng Hoàng Văn Thái. Sống trong chế độ cộng sản, không ai được an toàn. Ngay sau khi Lê Duẩn chết, các con ông ta còn hỏi Phó Thủ tướng Trần Duy Thành: Liệu “họ” có giết chúng cháu không; theo lời ông Thành kể trong hồi ký.
Mối lo lắng của ông Võ Nguyên Giáp được biểu lộ ngay cả khi chữa bệnh. Bác sĩ Phạm Văn Ngà, người săn sóc sức khỏe cho ông trong 30 năm, kể rằng: “Ðại tướng có một nguyên tắc bất di bất dịch là không bao giờ uống thuốc của ai đưa cho, kể cả con cái, trừ Bác sĩ Ngà.”
Nhờ biết thân, biết phận, giữ mình như vậy, ông vẫn được chế độ hậu đãi. Ông được cung cấp đủ dinh thự, xe cộ, phụ tá, nhân viên văn phòng, bác sĩ, y tá thường trực, vệ sĩ, người giúp việc, và mọi thứ bổng lộc, phụ cấp. Vì ông biết giữ mồm giữ miệng. Lâu lâu ông lại được các thuộc cấp cũ còn tại chức mời dự tiệc, liên hoan, để thấy mình vẫn còn được trọng vọng. Nhưng luôn luôn giữ mồm, giữ miệng; không nói một lời nào “chệch hướng.” Trong đời tư, ông được người ta kính trọng vì lối sống đơn giản, không chạy chọt cho con em làm giầu quá đáng, như các quan chức lớn khác. Ðó cũng là điều Jonathan Head coi là lý do tại sao nhiều cựu chiến binh và giới trẻ còn ngưỡng mộ, đi viếng tang Tướng Giáp.
Nhà báo Jonathan Head viết: “Ông là người giản dị, lịch thiệp và sống đơn giản, họ nói với tôi.” Lời giải thích này khiến Jonathan Head thấy những người dân đi viếng tang ông Giáp là để phản kháng đám lãnh tụ cộng sản đang cầm quyền, một cách gián tiếp. “Những phẩm chất họ ngưỡng mộ nơi ông cũng chính là điều khiến họ bất bình cực độ với giới lãnh đạo hiện nay. Những người đó đã để nạn tham nhũng và trục lợi cá nhân hoành hành; những người đó không đủ cứng rắn khi đối phó với Trung Quốc,” vân vân. Jonathan Head kết luận, “Sau khi chết, ông Giáp lại được người dân nhìn nhận như một biểu tượng của tất cả những gì mà các lãnh đạo cộng sản Việt Nam hiện nay không có.” Nguyễn Phú Trọng, Nguyễn Tấn Dũng, Trương Tấn Sang chắc cũng hiểu được thông điệp này. Phản kháng một cách gián tiếp chắc không đủ để bọn họ chuyển lòng, chú ý đến lợi ích của dân Việt Nam hơn. Nhưng trong đám tang ông Giáp, người dân làm được tới đó là quý lắm rồi. Bởi vì con người ông Giáp không thể nào khích lệ cho ai đứng lên phản kháng một cách mạnh mẽ hơn được. Chính ông là tấm gương nhịn nhục, chịu đựng suốt đời, để được sống an thân, khi chết thì được nghe điếu văn, truy điệu. Chắc chắn đó không phải là một tấm gương cho những thanh niên thời nay, như Huỳnh Thục Vy, Nguyễn Uyên Phương!
Jonathan Head viết: "... những hàng dài thanh niên với nét mặt buồn bã chẳng kém vẻ mặt của các cựu chiến binh.” Nhưng Head cũng nhận xét, “Những khẩu hiệu Marxist cũ rích vẫn được đảng Cộng sản Việt Nam rao giảng nhưng không còn gì hấp dẫn với thế hệ trẻ, vốn đã biết sống theo khuynh hướng xã hội tiêu dùng; và biết những cơ hội mà kinh tế thị trường mang lại cho họ.” Trong khi đó, thì “Tướng Giáp đã luôn trung thành với các khẩu hiệu cũ rích đó... Ông không bao giờ đi chệch đường lối chính sách hay nói về bất cứ nghi ngờ hay mối lo khủng hoảng nào của chế độ... Thay vào đó, ông vẫn hùng hồn nói về quy luật tất yếu lịch sử là chủ nghĩa cộng sản sẽ thắng kinh tế tư bản.”
Võ Nguyên Giáp luôn luôn đóng vai trò một đảng viên cộng sản gương mẫu, tức là lúc nào cũng tin tưởng ở lý thuyết cộng sản và chấp nhận tất cả các quyết định của đảng, như trong mục này đã viết. Nhưng giải thích như vậy cũng không đầy đủ cho câu hỏi, như Huỳnh Thục Vy mới viết, tại sao ông Giáp “lặng thinh một cách vô cảm” trong nhiều trường hợp đáng lẽ phải lên tiếng.
Ông Giáp tuân theo lệnh đảng trước mọi quyết định đối với cá nhân. Vì vậy, ông cắn răng cam chịu khi bị nhóm Lê Duẩn, Lê Ðức Thọ tước hết quyền hành. Ông Giáp vẫn giữ chức tổng tư lệnh, bí thư Quân Ủy Trung Ương; còn làm phó thủ tướng, bộ trưởng quốc phòng, ủy viên Bộ Chính trị của đảng Cộng sản Việt Nam cho đến năm 1975 nhưng nhiều người chỉ có Lê Duẩn chịu trách nhiệm về cuộc chiến tranh xâm chiếm miền Nam. Ông mất chức bí thư Quân Ủy năm 1977, mất chức bộ trưởng Quốc Phòng năm 1980, rồi năm 1982 bị loại khỏi Bộ Chính Trị.
Sau đó, Lê Duẩn, Lê Ðức Thọ còn công khai làm nhục ông khi phong Võ Nguyên Giáp làm chủ tịch Ủy Ban Dân Số và Sinh Ðẻ Có Kế Hoạch, tức chương trình hạn chế sinh sản, còn gọi là cai đẻ. Với chức vụ tổng chỉ huy chiến dịch cai đẻ của ông, dân miền Bắc đã đặt câu ca dao chế nhạo: “Ngày xưa đại tướng cầm quân - Ngày nay đại tướng cầm quần chị em - Ngày xưa đại tướng công đồn, vân vân.”
Không ai nghe ông Giáp than phiền lời nào khi bị nhóm Lê Duẩn, Lê Ðức Thọ hạ nhục trước mặt cả nước như thế. Nhưng trong chín năm làm phó thủ tướng phụ trách khoa học, kỹ thuật, từ 1982 đến 1991, cũng không ai thấy nước Việt Nam đã có những tiến bộ đáng kể nào về khoa học, kỹ thuật. Ngay cả việc sinh đẻ có kế hoạch cũng không ra gì; bằng cớ là dân số Việt Nam đã tăng vọt từ đó tới nay.
Lê Duẩn, Lê Ðức Thọ là những người đồng thời với Võ Nguyên Giáp, dù địa vị thấp hơn nhiều. Ông chịu thua họ, cũng là điều chấp nhận được. Nhưng sau đó, cả đám thuộc hạ hàng thứ ba, hạng tư, như Lê Ðức Anh, Ðỗ Mười lại hạ nhục ông Giáp thêm một lần nữa. Họ phổ biến các tài liệu tố cáo ông từng là con nuôi của chánh sở mật thám Ðông Dương, Louis Marty; từng bán bí mật quân sự cho Ðại sứ Liên Xô Serbakov; còn trong chiến dịch Ðiện Biên Phủ thì Giáp hèn nhát, sợ chết, quanh quẩn trong hầm, không dám ra ngoài (Gần đây, ông Bùi Tín xác nhận rằng hầm trú ẩn của ông Giáp khá an toàn, nằm ngoài tầm trọng pháo của quân Pháp). Ðó là chưa kể cái tội ăn nằm với một cô giáo tới nhà dạy piano. Lê Ðức Anh, Ðỗ Mười đã đuổi Võ Nguyên Giáp ra khỏi Trung Ương Ðảng, một hành động trước đó Lê Duẩn, Lê Ðức Thọ còn tha, chưa nỡ tước bỏ. Bọn Lê Duẩn lột bỏ mũ mãng của Giáp nhưng còn cho mặc cái quần; bọn Ðỗ Mười, Lê Ðức Anh lột hết. Trong mấy chục năm, Bộ Chính Trị đặt ra những chức cố vấn. Lê Ðức Thọ, Phạm Văn Ðồng, Võ Chí Công, vân vân, rồi sau này tới Võ Văn Kiệt, Lê Ðức Anh, Ðỗ Mười đều được mời vào chức cố vấn; nhưng không ai ngó tới Võ Nguyên Giáp.
Võ Nguyên Giáp không bao giờ phản đối, cũng không hề cất tiếng than phiền về thân phận của mình. Lúc bị hạ bệ, đẩy xuống phụ trách việc cai đẻ, ông Giáp có thể từ chức, về hưu, vì đã ở tuổi 70 rồi, để tỏ thái độ, và giữ gìn danh tiết của một con người, nhất là của một ông tướng. Nhưng ông không dám cãi. Thái độ chịu đựng đó cũng thấy trong vụ Lê Duẩn và Lê Ðức Thọ phát động “Vụ Án Xét Lại Chống Ðảng.” Họ nhắm vào ông Giáp nhưng không đánh trực tiếp, mà tấn công vào những người đồng chí trung thành của ông: Thượng tướng Chu Văn Tấn, tư lệnh Quân Khu Việt Bắc; Thiếu tướng Ðặng Kim Giang chỉ huy hệ thống hậu cần trong chiến dịch Ðiện Biên Phủ; Tướng Lê Liêm; Trung tướng Trần Ðộ; người tiếp nhận việc đầu hàng của tướng de Castries; Ðại tá Ðỗ Ðức Kiên cục trưởng tác chiến; Ðại tá Phạm Quế Dương; ông Hoàng Minh Chính; Ðại tá Lê Minh Nghĩa, chánh văn phòng Bộ Tổng Tham Mưu, trưởng đoàn quân sự Việt Nam trong hội nghị Trung Giá; Ðại tá Ðỗ Ðức Kiên; Ðại tá Lê Trọng Nghĩa, cục trưởng Cục Quân Báo; Ðại tá Nguyễn Văn Hiếu chánh văn phòng Bộ Quốc Phòng; và Tổng biên tập báo Quân đội Nhân dân Hoàng Thế Dũng, vân vân. Tất cả bị vu cáo tội “chống đảng, xét lại, làm gián điệp cho nước ngoài.” Võ Nguyên Giáp biết những lời cáo buộc đó đều là ngụy tạo, nhưng ông không bao giờ mở miệng, không bênh vực, không bảo vệ, hay giúp đỡ những đồng đội trung thành đang bị bè lũ cầm quyền đàn áp.
Thái độ “chui trong hầm trú ẩn” của ông không biểu lộ trong đời tư mà thôi; trong cả việc công cũng vậy. Ông Giáp không nói một lời nào khi các chính sách kinh tế của đảng làm dân tộc kiệt quệ, nhiều nông dân chết đói, trong lúc ông đang làm phó thủ tướng. Gần đây, ông không hề lên tiếng khi đảng cộng sản đàn áp dân Việt Nam biểu tình chống Trung Cộng lấn chiếm Biển Ðông và đánh giết ngư dân Việt Nam. Ông không bàn một lời nào đến nạn tham nhũng lan tràn, hoàn toàn im lặng khi các nông dân mất ruộng, mất nhà đi biểu tình phản đối khắp nước. Việc ông lên tiếng về vụ bô xít giúp người ta nhớ đến ông; nhưng sau đó ông lại tiếp tục chui xuống hầm; bị coi là chỉ “đánh trống bỏ dùi.” Trước sau, ông Võ Nguyên Giáp vẫn chui dưới hầm, ngoài tầm pháo kích của các đồng chí đang nắm quyền sinh sát.
Giải thích thái độ im lặng của ông Giáp bằng tinh thần kỷ luật của một đảng viên trung kiên thì không đủ. Nhiều đảng viên và tướng lãnh đã từng lên tiếng phản đối chính quyền cộng sản tham nhũng, lệ thuộc Trung Cộng, và bất lực về kinh tế.
Các tướng Trần Ðộ, Nguyễn Văn Vịnh, Ðại tá Phạm Quế Dương, họ đâu có cam ngậm miệng khi thấy lòng dân phẫn uất?
Cho nên, ông Võ Nguyên Giáp lựa chọn chui xuống hầm chỉ vì lo cho chính ông, và con cháu ông.
Ông Giáp biết các đồng chí trong đảng Cộng sản không từ bỏ một thủ đoạn nào khi họ cần bảo vệ quyền hành. Họ cướp được chính quyền là nhờ dám giết người nhiều hơn, tàn bạo hơn những đối thủ chính trị của họ. Chính ông đã chỉ huy các vụ tàn sát các đảng phái quốc gia yêu nước trong năm 1946; ngụy tạo vụ Ôn Như Hầu để bắt, giết các chiến sĩ Quốc Dân Ðảng, Ðại Việt Dân Chính, những người thoát chết phải sang Trung Quốc lưu vong. Ông đã biết rằng trong đảng bất cứ ai cũng có thể bị thủ tiêu. Ông biết những cái chết bất đắc kỳ tử mờ ám của bộ trưởng Dương Bạch Mai hay Ðại Tướng Hoàng Văn Thái. Sống trong chế độ cộng sản, không ai được an toàn. Ngay sau khi Lê Duẩn chết, các con ông ta còn hỏi Phó Thủ tướng Trần Duy Thành: Liệu “họ” có giết chúng cháu không; theo lời ông Thành kể trong hồi ký.
Mối lo lắng của ông Võ Nguyên Giáp được biểu lộ ngay cả khi chữa bệnh. Bác sĩ Phạm Văn Ngà, người săn sóc sức khỏe cho ông trong 30 năm, kể rằng: “Ðại tướng có một nguyên tắc bất di bất dịch là không bao giờ uống thuốc của ai đưa cho, kể cả con cái, trừ Bác sĩ Ngà.”
Nhờ biết thân, biết phận, giữ mình như vậy, ông vẫn được chế độ hậu đãi. Ông được cung cấp đủ dinh thự, xe cộ, phụ tá, nhân viên văn phòng, bác sĩ, y tá thường trực, vệ sĩ, người giúp việc, và mọi thứ bổng lộc, phụ cấp. Vì ông biết giữ mồm giữ miệng. Lâu lâu ông lại được các thuộc cấp cũ còn tại chức mời dự tiệc, liên hoan, để thấy mình vẫn còn được trọng vọng. Nhưng luôn luôn giữ mồm, giữ miệng; không nói một lời nào “chệch hướng.” Trong đời tư, ông được người ta kính trọng vì lối sống đơn giản, không chạy chọt cho con em làm giầu quá đáng, như các quan chức lớn khác. Ðó cũng là điều Jonathan Head coi là lý do tại sao nhiều cựu chiến binh và giới trẻ còn ngưỡng mộ, đi viếng tang Tướng Giáp.
Nhà báo Jonathan Head viết: “Ông là người giản dị, lịch thiệp và sống đơn giản, họ nói với tôi.” Lời giải thích này khiến Jonathan Head thấy những người dân đi viếng tang ông Giáp là để phản kháng đám lãnh tụ cộng sản đang cầm quyền, một cách gián tiếp. “Những phẩm chất họ ngưỡng mộ nơi ông cũng chính là điều khiến họ bất bình cực độ với giới lãnh đạo hiện nay. Những người đó đã để nạn tham nhũng và trục lợi cá nhân hoành hành; những người đó không đủ cứng rắn khi đối phó với Trung Quốc,” vân vân. Jonathan Head kết luận, “Sau khi chết, ông Giáp lại được người dân nhìn nhận như một biểu tượng của tất cả những gì mà các lãnh đạo cộng sản Việt Nam hiện nay không có.” Nguyễn Phú Trọng, Nguyễn Tấn Dũng, Trương Tấn Sang chắc cũng hiểu được thông điệp này. Phản kháng một cách gián tiếp chắc không đủ để bọn họ chuyển lòng, chú ý đến lợi ích của dân Việt Nam hơn. Nhưng trong đám tang ông Giáp, người dân làm được tới đó là quý lắm rồi. Bởi vì con người ông Giáp không thể nào khích lệ cho ai đứng lên phản kháng một cách mạnh mẽ hơn được. Chính ông là tấm gương nhịn nhục, chịu đựng suốt đời, để được sống an thân, khi chết thì được nghe điếu văn, truy điệu. Chắc chắn đó không phải là một tấm gương cho những thanh niên thời nay, như Huỳnh Thục Vy, Nguyễn Uyên Phương!
Bài
viết trước :
Ngô
Nhân Dụng
Friday, October 04, 2013 6:04:35 PM
No comments:
Post a Comment