Vũ Hoàng
& Nguyễn-Xuân Nghĩa, RFA
2013-10-23
2013-10-23
Khi Quốc hội Việt Nam bắt đầu một kỳ họp được coi là
quan trọng về cải tổ chính sách thì đảng Cộng sản Trung Quốc chuẩn bị một kỳ
họp còn chiến lược hơn về cải cách. Đặt trong bối cảnh chung của những nan đề
khó giải, đâu là cái hướng cải cách của hai nền kinh tế này? Diễn đàn Kinh tế
nêu câu hỏi với chuyên gia kinh tế Nguyễn-Xuân Nghĩa.
Thẩm quyền vẫn thuộc về đảng
Vũ
Hoàng: Xin kính chào ông Nghĩa. Thưa ông trong cả một
tháng sắp tới kể từ Thứ Hai, Quốc hội khóa 13 của Việt Nam có kỳ họp thứ sáu để
thảo luận và quyết định về nhiều bước cải tổ chính sách trong bối cảnh kinh tế
gặp tốc độ tăng trưởng thấp nhất kể từ 13 năm nay. Cùng lúc đó, theo dõi tình
hình Trung Quốc từ lâu, ông cũng biết lãnh đạo đảng Cộng sản Trung Hoa đang
chuẩn bị một kỳ họp chiến lược của Ban chấp hành Trung ương vào tháng tới. Vì
vậy, chương trình chuyên đề của chúng ta sẽ tìm hiểu về việc họp hành và cải
cách của hai nền kinh tế này. Xin ông trình bày cho thính giả của chúng ta nắm
rõ bối cảnh.
Nguyễn-Xuân
Nghĩa: Về nghị trình thì quả là lần này Quốc hội Việt Nam
có một kỳ họp đầy trọng lượng so với những kỳ trước vì phải thông qua việc cải
tổ bản Hiến pháp hay Luật Đất đai, thảo luận về tái cơ cấu kinh tế, hay về
những chỉ tiêu trong năm, v.v... Tuy nhiên, dù không nói về khả năng tổ chức để
các đại biểu có thể nắm vững hồ sơ và nêu ra những vấn đề thật và đáng quan
ngại, thì cơ chế Quốc hội này vẫn không có thẩm quyền đưa ra những thay đổi cần
thiết cho nền kinh tế và cả tương lai đất nước. Thẩm quyền ấy vẫn thuộc về đảng
Cộng sản Việt Nam.
Trong ý đó thì lãnh đạo đảng nên chú ý đến kỳ họp
Tháng 11 của đảng Cộng sản Trung Hoa. Lý do là Ban chấp hành Trung ương khóa 13
của đảng Cộng sản Trung Quốc sẽ có Hội nghị kỳ ba để đưa ra những thay đổi cũng
quan trọng như Hội nghị kỳ ba khóa 13 vào cuối năm 1978 khi Đặng Tiểu Bình
quyết định chuyển hướng qua khẩu hiệu "cải cách và khai phóng". Việc
cải cách đó mở ra 30 năm tăng trưởng kể từ 1979 và cũng phần nào là mẫu mực mà
lãnh đạo Việt Nam đã tiếp thu sau khi đổi mới thật từ năm 1991. Bây giờ, mẫu
mực Trung Quốc đã thành lỗi thời khiến lãnh đạo tại Bắc Kinh muốn đổi thì Hà
Nội cần tìm hiểu để kịp thời cải sửa ngay từ căn bản.
Vũ
Hoàng: Có phải ông đánh giá Hội nghị kỳ ba tới đây của đảng
Cộng sản Trung Quốc là một bước ngoặt mà đảng Cộng sản Việt Nam nên chú ý?
Nguyễn-Xuân
Nghĩa: Tôi cho là Hà Nội nên chú ý và sớm chuyển hướng, vì
việc ấy tương đối còn dễ hơn những gì mà lãnh đạo Bắc Kinh phải giải quyết.
Muốn như vậy, mình ta nên mở rộng tầm nhìn về những quy luật có thể đem lại
thịnh vượng thì sẽ hiểu ra vì sao mà Trung Quốc phải đổi để thoát cơn khủng
hoảng. Nói cách khác, nếu nhìn thấy vết xe đổ của xứ láng giềng này thì ta có
thể tránh được tai họa cho quốc gia và dân tộc.
Vũ
Hoàng: Như vậy, chúng ta sẽ tìm hiểu về yêu cầu chuyển
hướng của Trung Quốc trong khuôn khổ của những quy luật có thể đem lại sự thịnh
vượng cho quốc gia. Xin ông bắt đầu.
Nguyễn-Xuân
Nghĩa: Tôi xin được tóm lược như thế này.
Sau 30 năm áp dụng chiến lược ráo riết đầu tư để đạt
mức tăng trưởng cao bằng mọi giá, lãnh đạo Trung Quốc đã thấy cái giá phải trả
là quá nặng nên muốn cải cách. Nhưng giữa lúc đó thì vụ Tổng suy trầm toàn cầu
bùng nổ vào năm 2008 nên họ vẫn cứ nhấn tới theo hướng cũ và gặp nhiều khó khăn
hơn. Sau Đại hội 18 vào năm ngoái, thế hệ lãnh đạo mới đã rà soát tình hình và
cố chuyển hướng trong những điều kiện còn nan giải và bất ổn hơn. Hội nghị kỳ
ba vào tháng tới sẽ cân nhắc về chuyện này. Đó là về bối cảnh chính trị của họ.
Về thực chất kinh tế, chiến lược của Trung Quốc là
vắt sức dân qua chính sách đè nén, thậm chí bóc lột tài chính, để huy động tiết
kiệm của dân chúng đưa vào đầu tư sản xuất. Bóc lột tài chính vì trả lãi suất
và tỷ giá ngoại hối thấp, lương ít và còn hạn chế quyền sinh sống và cư trú của
người dân qua chính sách hộ khẩu để thu vét phương tiện quá rẻ cho sản xuất. Vì
sự lệch lạc về phí tổn, nôm na là giá cả ở đầu vào thấp, sản phẩm dư thừa ở đầu
ra được ào ạt xuất khẩu với giá bèo làm thế giới khâm phục, nhưng lại tích lũy
nhiều thất quân bình nguy hiểm.
Thứ nhất là phương tiện quá rẻ trưng thu của người
dân đã đánh sụt mức tiêu thụ của thị trường nội địa. Thứ hai là chúng lại trút
vào khu vực kinh tế nhà nước kém hiệu năng nên chỉ làm giàu cho thiểu số có
chức có quyền và gây bất công xã hội. Thứ ba là tình trạng kém hiệu năng đã gây
lãng phí, dẫn đến nạn đi vay quá sức, sản xuất thừa và bong bóng đầu cơ. Lồng
trong ngần ấy nhược điểm là các vấn đề xã hội mà trung ương không kiểm soát
nổi, như nạn ô nhiễm môi sinh và tình trạng đô thị hóa và công nghiệp hóa trong
hỗn loạn. Bây giờ thì đà tăng trưởng ấy đã sụt.
Kết cuộc thì dù tự xưng là "xã hội chủ
nghĩa", chiến lược của Trung Quốc vẫn tập trung tiền tài và quyền lực cho
một thiểu số nên đi ngược quy luật của sự thịnh vượng.
Phát triển đồng tiến
Vũ
Hoàng: Ông vừa tóm lược một số vấn đề mà chính Việt Nam
cũng đang gặp và muốn cải sửa, như khu vực kinh tế nhà nước kém hiệu năng, gánh
nợ xấu của ngân hàng, tình trạng bất công xã hội và ô nhiễm môi trường sinh
sống trong đà tăng trưởng đang giảm sút. Nhưng khi ông nói đến "quy luật
của sự thịnh vượng" thì đấy là gì?
Nguyễn-Xuân
Nghĩa: Tất cả các nước đi sau, có nền kinh tế gọi là
"đang phát triển" - như Trung Quốc, Việt Nam hay cả trăm xứ khác -
đều có thể học từ các nước công nghiệp hóa những kiến năng về công nghệ hay tổ
chức sản xuất để thoát khỏi tình trạng nghèo đói. Trong hạ bán thế kỷ 20, các
nước này đều đã trước sau nâng cao mức sống của người dân so với quá khứ phải
nói là chậm tiến và nghèo khổ. Nhưng dù có lợi thế đi sau nên học được nhiều
điều gần như miễn phí từ các nước đi trước, không phải xứ nào cũng trở thành
quốc gia thịnh vượng, cụ thể là có lợi tức bình quân một đầu người ở khoảng ba
vạn Mỹ kim một năm. Có lẽ thế giới chỉ có ba trường hợp thành công là Đài Loan,
Nam Hàn và xứ Chile tại Mỹ châu La tinh.
Vũ
Hoàng: Thưa ông vì sao như vậy?
Nguyễn-Xuân
Nghĩa: Lý do không phải là địa dư hay nguồn tài nguyên dồi
dào dưới lòng đất, vì thật ra ba nước kể trên đều có bất lợi và không giàu tài
nguyên mà chỉ trong mấy chục năm đã lọt vào hạng giàu có. Lý do là họ biết áp
dụng quy luật của thịnh vượng mà tôi xin gọi là "phát triển đồng
tiến". Cụ thể là trong đà tăng trưởng kinh tế, mọi thành phần đều góp sức
và hưởng lợi tức một cách đồng đều. Nhờ vậy mà mọi người đều gắng sức nên kinh
tế và xã hội mới phát triển một cách bền vững.
Vũ
Hoàng: Ông vừa trình bày một khái niệm hay phạm trù mà
nhiều thính giả của chúng ta có thể thấy là trừu tượng vì vậy xin ông giải
thích thêm cho rõ ràng.
Nguyễn-Xuân
Nghĩa: Chúng ta để ý thấy là Đài Loan, Nam Hàn và Chile đã
từng có chế độ độc tài của phe thủ cựu cánh hữu. Họ không nêu ra khẩu hiệu lý
tưởng gọi là xã hội chủ nghĩa của cánh tả, nhưng đã tự ý cải cách về chính trị
để áp dụng một chế độ dân chủ. Việc cải tổ đó khiến cho thiểu số ở trên không
còn khả năng trưng thu hay đè nén hay bóc lột đa số ở dưới.
Chẳng những vậy, chế độ chính trị của họ còn xây
dựng các định chế cần thiết cho phát triển, như quyền tự do kinh tế, quyền sở
hữu của tư nhân, như hệ thống luật lệ minh bạch với quyền tư pháp độc lập, hay
quyền đàn hặc phê bình lãnh đạo. Nôm na là tư nhân có quyền mà nhà nước phải
tôn trọng và phải bảo vệ vì tay chân nhà nước chỉ là công cụ nhất thời của
người dân.
Đa số quốc gia kia lại chẳng được như vậy vì thiểu
số ở trên áp dụng chiến lược trưng thu và cưỡng bách nên sau giai đoạn cất cánh
tăng trưởng có vẻ ngoạn mục là họ đụng trần và không nâng được lợi tức người dân
quá mức trung bình. Họ rơi vào tình trạng gọi là "cái bẫy của lợi tức
trung bình" mà không thoát ra được. Trung Quốc đang lọt vào cái bẫy đó,
Việt Nam cũng vậy.
Trong một thế giới toàn cầu hóa với thông tin mở
rộng, khi lãnh đạo lại đưa người dân vào bẫy vì "chiến lược trưng
thu" thay vì "chiến lược đồng tiến" thì khủng hoảng rất dễ xảy
ra như chúng ta đã thấy tại nhiều quốc gia.
Vũ
Hoàng: Sau khi đặt vấn đề như vậy rồi thì ông liên hệ
thế nào đến những yêu cầu cải cách mà lãnh
đạo của Trung Quốc và Việt Nam đang muốn tiến hành?
Nguyễn-Xuân
Nghĩa: Tôi xin nêu ra những ví dụ cụ thể đang làm giới
lãnh đạo hai xứ này đau đầu và muốn sửa từ lâu nhưng cứ dậm chân tại chỗ.
Thứ nhất, vì sao khu vực kinh tế nhà nước lại giữ
vai trò chủ đạo? Đấy là hệ quả của chiến lược trưng thu vì vơ vét tài nguyên
quốc dân dồn cho tập đoàn kinh tế nhà nước, thậm chí cho các chính quyền địa
phương như tại Trung Quốc. Tài nguyên đó là tiết kiệm, tín dụng và đất đai.
Chiến lược ấy bất công và bất ổn vì làm giàu cho thiểu số và gây thất quân bình
vĩ mô.
Thứ hai, vì sao các dự án đầu tư và tín dụng của khu
vực công lại gây bội chi ngân sách và chất lên một núi nợ xấu sẽ đổ lên đầu cả
nước? Vì chiến lược trưng thu đã ép sức tiết kiệm của dân và tạo ra nguồn tiền
quá rẻ cho các tập đoàn nhà nước và tay chân tự tiện sử dụng vì lợi ích riêng.
Cũng do chiến lược này ta mới thấy các tập đoàn kinh tế nhà nước đi vay bừa phứa
mà khỏi cần nghĩ đến cách trả nợ.
Thứ ba, vì sao một tài nguyên chung của cả nước là
đất đai lại do một thiểu số quyết định đằng sau khẩu hiệu hay điều luật là
"do nhà nước thống nhất quản lý"? Vì chiến lược trưng thu đã đoạt
quyền tư hữu một phương tiện sản xuất quan trọng là đất đai để tay chân của
đảng và nhà nước có thể lũng đoạn, hay thậm chí đánh bạc, trong các dự án kinh
tế kém hiệu năng của họ. Được thì họ lấy mà thua thì dân chịu.
Căn bản nhất vì cũng là lý do giải thích những bất
công và phi lý ấy là vai trò độc quyền của đảng và công cụ của đảng là nhà nước
và tay chân của đảng là các đại gia thân tộc. Họ trở thành thiểu số tư bản đỏ,
nhân danh xã hội chủ nghĩa mà xây dựng chế độ tư bản nhà nước trên đầu cả nước
và cản trở mọi nỗ lực cải cách. Khi kinh tế phát đạt thì họ đánh bạc làm giàu
trên thị trường cổ phiếu và địa ốc, khi kinh tế suy trầm thì họ tẩu tán tài sản
và tư doanh theo nhau phá sản.
Vũ
Hoàng: Như vậy thì ông cho rằng Việt Nam nên cải cách từ
đâu?
Nguyễn-Xuân
Nghĩa: Tôi nghĩ đến một quy luật chung là nhiều chế độ
thành hình nhờ khẩu hiệu đấu tranh cho công bằng xã hội mà sau đó lại tạo ra
bất công và làm kinh tế không phát triển được. Việt Nam cũng bị tệ nạn phổ biến
này và còn gặp một tai họa khác là chế độ đã xưng danh là đấu tranh cho độc lập
với xương máu của người dân mà đang mất độc lập với Trung Quốc.
Về chuyện trước mắt thì việc Quốc hội họp hành là
"có còn hơn không", nhưng vấn đề rốt ráo không nằm ở đó, như người ta
có thể thấy trong dự thảo sửa đổi Hiến pháp. Vấn đề là hệ thống chính trị và
vai trò của đảng độc quyền.
Thật ra, bên cạnh một Trung Quốc đang xoay trở để
chuyển hướng mà vẫn cố bảo vệ chế độ toàn trị của đảng thì Việt Nam có cơ hội
vượt thoát nếu dám cải cách mạnh dạn hơn và sớm sủa hơn. Cải cách từ hệ thống
chính trị ở trên cho dân chủ hơn xuống chiến lược kinh tế ở dưới cho dân chúng
được tự do hơn. Việc cải cách đó mới thực sự dẫn tới phát triển và đưa Việt Nam
ra khỏi vòng ngoại thuộc.
Vũ
Hoàng: Xin cảm tạ ông Nghĩa về cuộc trao đổi này.
No comments:
Post a Comment