Được đăng ngày Thứ năm, 10
Tháng 10 2013 19:27
“…ông phải biết tại sao thế hệ
thuộc hàng con cháu ông đang nắm quyền trong đảng và nhà nước đã có một thời
không coi ông ra gì (1983-1984) và lại còn dám “bỏ ngoài tai” cả lời khuyên của
ông bảo đừng để cho người Trung Quốc vào khai thác Bauxite ở Tây Nguyên…”
*
Đại tướng cộng sản Việt Nam Võ
Nguyễn Giáp, nhân vật lịch sử của hai cuộc chiến “chống Pháp giành độc lập” và
“chống Mỹ cứu nước” của Việt Nam, theo cách nói của những người thuộc phe cộng
sản trong cuộc chiến, đã từ trần lúc 18 giờ 9 phút ngày 4/10/2013,
hưởng thọ 103 tuổi.
Ông là người sau cùng trong số
những “tông đồ tiền phong” của người sáng lập ra Đảng Cộng Sản Việt Nam năm
1930, ông Hồ Chí Minh, ra đi sau hơn 59 năm Chiến dịch Điện Biên Phủ kết thúc
(07/05/1954) để Việt Nam bị chia đôi nhưng đã đưa tên tuổi Võ Nguyên Giáp lên
hàng danh tướng với nhiều đánh giá chưa có sự đồng thuận ở hai chiến tuyến quốc
gia và cộng sản.
Bài viết này không có mục đích
cạnh tranh với lịch sử nhưng chỉ nêu lên một số “thắc mắc” dựa theo các sự kiện
gắn liền với cuộc đời và sự nghiệp quân sự và chính trị của ông Giáp.
Tiêu diệt các đảng phái quốc gia
Thắc mắc thứ nhấtlà ông Võ Nguyên Giáp đã căn cứ vào cơ sở pháp lý
nào để chủ động lực lượng công an và quân đội tấn công, tiêu diệt các đảng phái
quốc gia, đặc biệt Việt Nam Quốc Dân Đảng và Đại Việt Quốc Dân Đảng vào ngày
16/06/1946 tại Hà Nội rồi sau đó lan qua các địa phướng khác ?
Về phương diện thẩm quyển, tài
liệu Bách khoa Toàn thư viết : “Ngày 29-5-1946, Chủ tịch Hồ Chí Minh ký Sắc
lệnh số 82-SL về việc ủy nhiệm Huỳnh Thúc Kháng, Bộ trưởng Bộ Nội vụ thay Chủ
tịch Chính phủ đi vắng, ký công văn hàng ngày và chủ toạ họp Hội đồng Chính
phủ.Theo Sắc lệnh số 23/SL của Chính phủ ngày 21 tháng 3 năm 1946, Việt Nam
công an vụ là cơ quan thuộc Bộ Nội vụ, như vậy theo quy định luật pháp thì thẩm
quyền chỉ đạo lực lượng công an nằm trong tay của phó chủ tịch nước Huỳnh Thúc Kháng. Như vậy từ trước khi lực
lượng công an nhân dân phá vụ án phố Ôn Như Hầu, Võ Nguyên Giáp đã không còn là
Bộ trưởng Bộ Nội vụ, ông cũng không ở trong nội các, nên về nguyên tắc theo quy
định của pháp luật thì không có thẩm quyền trong việc điều động chỉ huy lực
lượng công an và Vệ quốc đoàn. Phải đến khi sắc lệnh 230 ra ngày 30/11/1946 có
hiệu lực thì ông Võ Nguyên Giáp theo quy định của pháp luật mới có thẩm quyền
tổng chỉ huy lực lượng quân đội toàn quốc”.
Vẫn theo tài liệu của Bách khoa
Toàn thư thì : “ Việt Nam Quốc Dân Đảng và sử gia người Mỹ Cecil B. Currey
cho rằng : với sự trợ giúp của quân Pháp, chính Võ Nguyên Giáp là người đã chỉ
huy lực lượng công an và quân đội khám xét và bắt giữ các thành phần chống đối.
Theo nhà sử học người Mỹ Cecil B. Currey, ngày 15 tháng 6, Võ Nguyên Giáp bắt
đầu chỉ huy lực lượng an ninh khám xét các tổ chức có thể đe dọa đến Chính phủ.
Số 7 Ôn Như Hầu chỉ là nơi làm việc bình thường của Việt Nam Quốc Dân Đảng. Lực
lượng công an dưới sự chỉ đạo của Võ Nguyên Giáp đã tấn công nơi này trong lúc
Việt Nam Quốc Dân Đảng không đề phòng sau đó dựng hiện trường giả để có cớ tiêu
diệt Việt Nam Quốc Dân Đảng. Còn theo sử gia Trần Trọng Kim thì khi được hỏi về công
việc, bộ trưởng Nội vụ Huỳnh Thúc Kháng đã nói với ông : "Bây giờ
việc gì cũng do địa phương tự trị cả, thành ra không có việc gì mấy, và khi có
việc gì, thì họ làm sẵn xong cả rồi, tôi chỉ có vài chữ ký mà thôi".
Vậy mà vào thời buổi ấy, phe
cộng sản đã tung ra tài liệu viết rằng : “Theo những kết quả điều tra và
những kiến giải của Công An Nhân dân Việt Nam trong
thời điểm đó, những tổ chức thực hiện kế hoạch đảo chính này do Việt Nam Quốc
Dân Đảng và Đại Việt Quốc Dân Đảng thuộc Mặt trận Quốc Dân Đảng Việt Nam phối
hợp với thực dân Pháp,
dự định tiến hành vào ngày 14/7/1946. Cụ thể hơn, kế hoạch của Việt Quốc và
Việt Cách là dự định nhân ngày Quốc khánh nước Pháp (14/7), khi quân đội Pháp
sẽ diễu binh trên một số đường phố lớn ở Hà Nội, người của Quốc Dân Đảng sẽ ném
lựu đạn vào quân Pháp, từ đó tạo cớ cho phía Pháp tấn công bao vây các cơ quan
trung ương, bắt cán bộ lãnh đạo và nhân viên Chính phủ, lật đổ Chính phủ Việt
Nam Dân chủ Cộng hòa, nhân dịp đó Quốc Dân Đảng sẽ tuyên bố đảo chính, lập
Chính phủ mới.[6].[7] Do
lực lượng công an đã điều tra, thu thập thông tin nên sớm phát hiện âm mưu của
Việt Quốc, Việt Cách. Ngày 12/7/1946 lực lượng công an nhân dân đã tiến hành
khám xét trụ sở bí mật của Quốc Dân Đảng ở số nhà 132 phố Duvigneau (nay là phố
Bùi Thị Xuân). Cùng ngày, công an tấn công một loạt cơ sở khác của Quốc Dân
Đảng ở Hà Nội, trong đó có nhà số 7 phố Ôn Như Hầu (nay là phố Nguyễn Gia
Thiều, Hà Nội). Tiếp sau Hà Nội, lực lượng công an nhân dân đã tiến hành khám
xét các cơ sở của Việt Quốc, Việt Cách ở Hải Phòng và một số tỉnh khác ở miền
Bắc” (Bách khoa Toàn thư).
Tài liệu tố cáo tiếp : “Trong
quá trình khám xét trụ sở của Việt Quốc, Việt Cách, công an đã thu được nhiều
vũ khí, truyền đơn, tài liệu, giấy bạc giả, dụng cụ tra tấn... Việc phá vụ án
này có ý nghĩa to lớn góp phần củng cố chính quyền Việt Nam Dân chủ Cộng hòa
mới còn non trẻ, để từ đó chuẩn bị bước vào cuộc chiến tranh chống lại sự tái xâm lược
của thực dân Pháp trong giai đoạn 1946 - 1954”.
Nhưng, Bách khoa Toàn thư cũng
lưu ý rằng : “Theo quan điểm của phía Việt Nam Quốc Dân Đảng và các
nhà sử học như Cecil B. Currey (Hoa Kỳ), thì kế hoạch này không có thật và đây
một vụ việc do phía Việt Minh, dưới sự chỉ huy của Võ Nguyên Giáp, dựng lên
nhằm triệt hạ đối thủ chính trị của mình là Việt Nam Quốc Dân Đảng. Một số học
giả khác như Gisèle Luce Bousquet và Pierre Brocheux (Pháp) thì cho rằng
đến nay chưa ai biết sự thật vụ việc này như thế nào”.
Như thế rõ ràng một điều là ông
Võ Nguyên Giáp có chủ động vụ tấn công các đảng phái quốc gia không ủng hộ đảng
cộng sản Việt Nam, nhưng bằng chứng đưa đến lời cáo buộc của phe cộng sản để
bảo vệ lý do tấn công chưa được làm sáng tỏ đối với một số học gỉa người nước
ngoài.
Lịch sử quanh vụ này còn mang
nhiều nghi vấn, nhưng Đại tướng Bộ trưởng công an Trần Đại Quang đã mau chóng
lập lại “thành tích này” của ông Giáp, chỉ sau 3 ngày ông lìa đời, dựa theo
quan điểm của phiá cộng sản năm 1946 để nói về tính “nhậy bén trong nhiệm vụ”
của lực lượng công an.
Tướng Quang viết : “Trước
những khó khăn, phức tạp của cuộc đấu tranh chống phản cách mạng, bảo vệ chính
quyền cách mạng non trẻ, trên cương vị bộ trưởng Bộ Nội vụ, đại tướng Võ Nguyên
Giáp đã chỉ đạo thống nhất tổ chức, nhiệm vụ và bổ sung cán bộ, củng cố lực
lượng công an trong cả nước theo Sắc lệnh số 23-SL ngày 21/2/1946 do chủ tịch
Hồ Chí Minh ký ban hành về thành lập Việt Nam Công an vụ.
Dưới sự lãnh đạo sáng suốt của
Ban Thường vụ Trung ương Đảng và của đại tướng, lực lượng công an nhân dân đã
đập tan nhiều âm mưu, hoạt động chống phá của bọn phản cách mạng, đặc biệt đã
đập tan âm mưu đảo chính của Quốc Dân Đảng câu kết với thực dân Pháp trong vụ
án phản động xảy ra tại phố Ôn Như Hầu, Hà Nội (gọi tắt là vụ án Ôn Như Hầu)
trong bối cảnh chính quyền cách mạng còn non trẻ như “ngàn cân treo sợi tóc” (Báo Công an Nhân dân, 07/10/2013).
Và ngay chính ông Giáp, 49 năm
sau ngày “càn quét” các đảng phái quốc gia 16/06/1946 để sau đó làm tan rã
Chính phủ liên hiệp Quốc-Cộng đầu tiên, cũng đã xác nhận vai trò của ông ngày
ấy, theo lời kể của tướng công an Trần Đại Quang : “Đại tướng Võ Nguyên Giáp
đã đánh giá cao những thành tích, chiến công xuất sắc của lực lượng công an
nhân dân thời kỳ này và chỉ rõ : “Vụ án Ôn Như Hầu đã trấn áp được bọn phản
động. Nhưng trong lúc trấn áp vừa diệt được lực lượng chống đối, phá được cuộc
đảo chính, lại tranh thủ được sự đồng tình, ủng hộ của nhân dân ; đoàn kết rộng
rãi hơn nữa, kể cả dư luận trong nước cũng như ngoài nước... Vụ án Ôn Như Hầu
là một thành tích tốt, rất tốt của công tác phản gián của ta, của công an nhân
dân. Ý nghĩa của nó không những chỉ dập tắt âm mưu của bọn phản động câu kết
với nước ngoài để cướp chính quyền ở Hà Nội - một hành động đảo chính để làm
tay sai cho Pháp, mà còn làm cho mọi người, kể cả những người còn mơ hồ, thấy
rõ bọn nào là bọn phản quốc và chính sách đại đoàn kết của Chính phủ, càng làm
cho toàn dân ủng hộ chúng ta, tạo điều kiện cho chúng ta củng cố thêm chính
quyền một bước. Tôi đánh giá vụ án đó là một vụ án rất quan trọng. Các đồng chí
làm giỏi, sắc bén, có tinh thần trách nhiệm” (Bài phát biểu của đại tướng
Võ Nguyên Giáp tại Hội thảo về vụ án Ôn Như Hầu, ngày 14/3/1995).
Chuyện quanh vụ án Ôn Như Hầu
cũng giống như chuyện “cuộc Cách mạng mùa Thu” tháng Tám, 1945 do “đảng cộng
sản lãnh đạo toàn dân đứng lên gìanh độc lập” chứ không bao giờ, theo như “kinh
sách giáo điều” tuyên giáo của nhà nước, là “một cuộc cướp chính quyền từ tay
chính phủ non yếu nhưng hợp pháp Trần Trọng Kim”.
Cải cách ruộng đất
Thắc mắc thứ hailà sau khi đất nước chia đôi, hai miền Nam-Bắc có
hai chế độ chính trị khác nhau thì đã có trên 1 triệu người dân miền Bắc chạy
bỏ cộng sản di cư vào miền Nam. Xã hội và người dân miền Bắc bắt đầu cuộc sống
nô lệ nghèo đói. Cuộc cách mạng vô sản làm kiệt quệ cả sức người và tài nguyên
đã đặt nước Việt Nam Dân chủ Cộng hòa miền Bắc vào hàng ngũ các quốc gia cộng
sản hà khắc nhất Thế giới.
Thanh trừng bắt đầu tiếp nối từ
Cuộc cải cách ruộng đất khốc liệt, tàn bạo và dã man ngay cả với những ân nhân
của “cách mạng” từ năm 1953 đến năm 1956.
Ước khỏang có từ 10 đến 15,000
người mất mạng sống, tài sản gồm ruộng vườn, nhà cửa và của riêng bị tịch thu.
Hàng ngàn gia đình bị phân tán, đầy đọa, ngục tù oan khiên khiến ông Hồ Chí
Minh phải nhìn nhận sai lầm và sửa sai tại Hội nghị Trung ương 10 của Đảng Lao
động Việt Nam, tháng 9 năm 1956 với lời tự phê bình : “Giai đoạn vừa qua có
nhiều sai lầm và khuyết điểm. Đặc biệt là trong cuộc cải cách nông nghiệp và
điều chỉnh tổ chức. Hội nghị Trung ương lần thứ 10 đã phân tích chi tiết các
khuyết điểm, tìm ra nguyên nhân và thống nhất những biện pháp khắc phục. Hội
nghị thừa nhận nguyên nhân của những khuyết điểm là sự yếu kém của bộ máy lãnh
đạo. Vì thế Ban chấp hành Trung ương nhận khuyết điểm của mình. Các ủy viên tham
gia trực tiếp đã kiểm điểm trước TƯ theo tinh thần tự phê, và chấp nhận những
hình thức kỷ luật nghiêm khắc” (Tài liệu Bách khoa Toàn thư).
Tài liệu này cũng cho biết :
“Luật sư Nguyễn Mạnh Tường đã nói về tình cảnh
oan sai như sau, trong diễn văn đọc trước Mặt Trận Tổ Quốc, ngày 30 tháng 10
năm 1956 tại Hà Nội :”Qua cuộc Cải cách ruộng đất ta thấy bao nhiêu các
chiến sĩ cách mạng thành tích lộng lẫy, có người ngực gắn tới hai huy chương
kháng chiến bị kết án là phản động, cường hào gian ác và, sau khi nhận tội, bị
tống giam hay bị hành hình. [...] Trong cuộc kháng chiến anh dũng của ta, những
đồng bào đã hi sinh, có thể nói được, chết với trong lòng chan chứa nỗi vui
sướng vì chết cho sự nghiệp giải phóng dân tộc khỏi nanh vuốt của địch. Họ chết
vì địch, cho ta, đó là cái chết tích cực, cái chết vẻ vang, cái chết oanh liệt
mà Tổ quốc ghi nhớ muôn thuở. Trái lại, các người chết oan vì các sai lầm trong
cuộc Cải cách ruộng đất này, lúc tắt thở, cay đắng đau xót vì chết với một ô
danh. Chúng ta đã xoá bỏ cái ô danh đó, nhưng con cháu của các nạn nhân tài nào
mà không ngậm ngùi ? Đau đớn hơn, bây giờ ta làm thế nào mà biến cái khổ cực
của người tắt thở thành một niềm an ủi cho họ được ?”.
Vẫn theo Tài liệu này thì : “Ngày
29 tháng 10 năm 1956, Đại tướng Võ Nguyên Giáp, người không tham gia trực
tiếp vào sai lầm chương trình Cải cách Ruộng đất, thay mặt chủ tịch nước đọc
bản báo cáo của Hội nghị lần thứ 10 Ban Chấp hành Trung ương đảng tại nhà hát lớn Hà Nội, kê khai sai lầm và
phát động chiến dịch sửa sai, phục hồi các chức vụ tài sản cho cán bộ, bộ đội
bị đấu tố”.
Rất đáng chú ý là trong số các
nạn nhân có cả cụ phó bảng Đặng Văn Hướng, bị đấu tố chết tại quê nhà
Diễn Châu (Nghệ An).
Cụ Hướng là bố ruột của trung tá Quân Đội Nhân Dân Việt Nam Đặng
Văn Việt, từng là trung đoàn trưởng đầu tiên của Trung đoàn 174 - một
trong 3 trung đoàn chủ lực đầu tiên của Quân đội Nhân Dân Việt Nam.
Tài liệu Bách khoa Toàn thư
viết : “Ông từng được người Pháp mệnh danh là "Con hùm xám đường số
4" do thành tích chỉ huy đơn vị mình trong Chiến dịch Biên giới thu đông
1950, bắt sống cả 2 chỉ huy binh đoàn Pháp là các Trung tá Marcel Lepage và Pierre Charton…Ngày 19
tháng 12 năm 1953, Luật Cải cách Ruộng đất được
thông qua. Đầu năm 1954, gia đình ông trở thành nạn nhân của cuộc đấu tố tàn
khốc. Cha ông bị đấu tố đến chết tại quê nhà khi đương chức là Quốc vụ khanh đặc trách công tác ở 3 tỉnh
Thanh-Nghệ-Tĩnh trong Chính phủ Hồ Chí Minh, gia đình
ông ly tán khắp nơi. Bản thân ông bị rời khỏi chức vụ Trung đoàn trưởng, được
điều sang Trung Quốc làm công tác luyện quân, thực chất bị loại trừ khỏi vị trí
chỉ huy quân đội.
Năm 1954, ông trở về Việt Nam,
được phân công giảng dạy ở Trường sĩ quan lục quân. Năm 1958,
ông được phong quân hàm trung tá.
Năm 1960, ông xuất ngũ và được điều sang làm cục phó Cục Vật liệu xây dựng, rồi
cục phó Cục Xây dựng cơ bản thuộc ngành Thủy sản đến khi nghỉ hưu”.
Tôi nêu ra trường hợp cụ Đặng
Văn Hướng để thắc mắc không hiểu trong báo cáo trước Hội nghị 10 Ban Chấp hành
Trung ương đảng ngày 29/10/1956, tướng Võ Nguyên Giáp có nói gì đến trường hợp
cụ Hướng không và chẳng nhẽ ông không biết trung tá Đặng Văn Việt, người Trung
đoàn trưởng nổi tiếng dưới quyền ông là con của nạn nhân Quốc vụ khanh trong
Chính phủ Hồ Chí Minh, đã bị “đầy” đi Trung Quốc ?
Và nếu ông Giáp bị rơi vào chỗ
oan ức của trung tá Đặng Văn Việt thì ông sẽ xử trí ra sao, hay là ông cũng là
người lính nên chỉ biết thi hạnh lệnh cấp trên để “đạt mục tiêu bằng mọi gía”,
dù phải hy sinh bao nhiêu mạng lính trên chiến trường ?
Bởi vì, như lời cựu đại tá Bùi
Tín, một người rất gần ông trong nhiều năm chiến tranh, từ tháng 8 năm 1945, đã
viết : “Ông mang danh là một viên tướng «Sát Quân», sát quân một cách lạnh
lùng” (VOA tiếng Việt, 09/10/2013).
Hai người bạn - Hai chiến tuyến
Thắc mắc thứ ba, từ câu nói của cựu đại tá Bùi Tín, nguyên phó
tổng biên tập báo Quân Đội Nhân Dân, tôi lại nhớ đến lần tham quan Sài
Gòn của tướng Giáp đầu tháng 5 năm 1975, sau khi Sài Gòn “được giải phóng”.
Theo Nhà báo Bùi Tín thì đây là lần đầu tiên trong suốt cuộc chiến tranh 20 năm
xâm lăng miền Nam mà ông Giáp đã có phần trách nhiệm lớn xua hàng trăm ngàn
thanh niên, thiếu nữ miền Bắc vượt Trường Sơn vô Nam đổ máu cho cuộc chiến mang
danh nghĩa “giải phóng”, tướng Giáp mới có dịp đặt chân đến thành phố mang tên
“hòn ngọc viễn Đông”.
Tôi thắc mắc không biết tướng Giáp đã nghĩ gì khi ông thấy cảnh sống nhộn nhịp và nhà phố nguy nga của Sài Gòn “được giải phóng” không giống như Hà Nội lạnh lùng, xác xơ “ không thấy phố/ không thấy nhà /chỉ thấy mưa sa / trên màu cờ đỏ” (thơ Trần Dần) ?
Cũng từ thành phố này, lệnh gọi
quân-cán-chính và đảng viên các đoàn thể chính trị, xã hội và văn nghệ sỹ miền
Nam đi “tập trung học tập cải tạo”. Và trong số những chính trị gia nổi tiếng
phải đi “cải tạo” có cả người bạn thời chống Pháp của ông Giáp, luật sự, cựu
dân biểu, cựu phó thủ tướng Việt Nam Cộng Hòa Trần Văn Tuyên.
Luật sư Trần Văn Tuyên
Luật sư Tuyên từng là giáo sư
trường Thăng Long (Hà Nội) cùng với ông Giáp và một thời từng là bạn cùng chí
hướng chống thực dân Pháp, nhưng ông Giáp đi theo cộng sản còn luật sư Tuyên,
là một lãnh tụ của Việt Nam Quốc Dân Đảng chống cả Pháp và cộng sản.
Sự thân thiện giữa hai nhân vật
khác chiến tuyến được giáo sư Nguyễn Quốc Khải, viết trong Vietnam Review
và báo Ngày Nay ngày 21/10/2005 như sau :
“Trong lần cuối cùng gập gỡ
nhau nhân hội-nghị sơ bộ với Pháp khai mạc vào ngày 19/4/1946 tại trường
Yersin, Đà Lạt để chuẩn bị cho hội nghị Fontainebleau, tướng Giáp thuộc phái
đoàn Việt Nam Dân Chủ Cộng-Hòa (Việt-Minh) còn kêu gọi luật sư Tuyên trở về hợp
tác với ông Hồ Chí Minh. Sau khi bị từ khước tướng Giáp còn nói với luật sư
Tuyên một câu bằng Pháp ngữ nguyên văn như sau : "Alors, tu restes
toujours mon ami". (Dù sao anh cũng sẽ mãi mãi là bạn của tôi). Luật sư
Tuyên và tướng Giáp vẫn kính mến nhau mặc dù hai người ở hai chiến tuyến khác
nhau. Luật sư Tuyên đã nhắc lại kỷ niệm đó với một ký giả của tờ báo the Korea
Herald trong một cuộc phỏng vấn vào tháng 9/1972”.
Vẫn theo giáo sư Khải thì : “ Sau
khi Miền Nam thất thủ, tướng Giáp cử một sĩ quan cao cấp vào Sài Gòn đưa thư đề
nghị luật sư Tuyên viết thư cho Bộ Chính Trị tại Hà Nội để khỏi đi học tập cải
tạo. Luật sư Tuyên đã cám ơn tướng Giáp nhưng không chấp thuận đề nghị của
ông”.
Ngày 16/05/1975, chính quyền
cộng sản tại Sài Gòn đã bắt luật sư Tuyên vào "trại cải tạo" tại Long
Thành. Khi bị bắt buộc viết bản tự kiểm thảo, theo lời kể của gia đình, luật sư
Tuyên chỉ viết có mấy hàng chữ : "Tôi không có tội gì với tổ quốc
và đồng bào của tôi cả. Nếu có tội thì đó chỉ là tội chống cộng sản, chống thực
dân, chống độc tài và bất công".
Sau đó, luật sư Tuyên bị đưa ra
giam và lao động cực nhọc tại một trại ở Hà Nam (Hà Sơn Bình). Theo các nhân
chứng, ông bị ngất xỉu trong một buổi nghe quản giáo “thuyết giảng”. Sai khi y
tá trại đến tiêm cho ông một mũi thuốc thì trại giam đã chở ông đi bằng xe vận
tải chở đá.
Một ngày sau, trại giam loan
báo louật sư Tuyên từ trần từ ngày 28
tháng 10 năm 1976 nhưng mãi đến năm 1978 thì chính quyền Hà Nội
mới xác nhận cái chết của ông khi Chính phủ Pháp và các Tổ chức nhân quyền đòi
cộng sản Việt Nam cho biết tin.
Khi qua Pháp vào tháng 6/1977
để xin viện trợ, thủ tướng cộng sản Việt Nam Phạm Văn Đồng đã phải nói dối luật
sư Tuyên vẫn sống và khoẻ mạnh vì sợ công luận Pháp nổi giận.
Lãnh tụ Việt Nam Quốc Dân Đảng
đã từ chối rời Sài Gòn trước ngày 30/4/1975 dù có sự giúp đỡ của hai chính phủ
Pháp và Mỹ. Ông nói với người con gái, bà Trần Đạm-Phương theo chồng sống tại
Mỹ trước ngày 30/4/1975 : “Thà chết vì bàn tay của kẻ thù còn hơn sống yên
thân trong sự khinh thường của đồng bào, của bạn bè, của đồng chí và đồng
minh".
Là bạn thân của luật sự Tuyên,
tôi không biết tướng Võ Nguyên Giáp đã nghĩ như thế nào về nhân cách con người
của nhà cách mạng Trần Văn Tuyên cũng như “cách nói dối của ông Phạm Văn Đồng”
?
Nướng quân, một giá phải trả ?
Thắc mắc thứ tưlà tôi không biết tướng Giáp có suy nghĩ như thế
nào khi ông nhìn thấy, hoặc không bao giờ được trông thấy hình những “thiếu
binh” quân cộng sản chưa đầy 18 tuổi chết ở chiến trường rừng cao su Dầu Tiếng,
tỉnh Bình Dương mà chân họ vẫn còn bị cột giây xích sắt vào cây cao su để không
được bỏ chạy khi lâm trận ?
Tại sao phải làm như thế với
một người lính ? Cũng như tại sao chỉ vì nhu cầu “phô trương thanh thế chính
trị tại bàn Hội nghị hòa đàm ở Paris năm 1972 mà nhiều trung đoàn chính quy
quân đội miền Bắc đã phải “chôn chân” để bị thiệt hại nặng nề, có Tiểu đoàn chỉ
còn 7 người sống sót, trong suốt 81 ngày đêm ở mặt trận cố thủ Cổ thành Quảng
Trị ?
Ước tình có từ 5.000 đến 10.000
quân lính miền Bắc đã bỏ xác ở mặt trận này từ 28/06 đến 16/09/1972.
Tướng cộng sản Việt Nam Lê Phi
Long được Báck khoa Toàn trích nói với BBC vào năm 2008 : "Chiến dịch
Quảng Trị kéo dài, thương vong rất lớn, có thể nói là lớn nhất so với tất cả
các chiến dịch trong hai cuộc kháng chiến. Mỗi lần nghĩ lại tôi rất đau lòng.
Mãi đến bây giờ (2008), tôi và nhiều đồng nghiệp vẫn chưa hiểu vì sao ta phải
cố thủ thành cổ với một giá đắt như vậy, ai chủ trương, ai chịu trách nhiệm
trước lịch sử ? Có cán bộ cấp trên giải thích rằng do yêu cầu của đấu tranh
ngoại giao, cần giữ vững thành cổ để phối hợp với cuộc đàm phán tại hội nghị
Paris. Nhưng quyết định chiến trường phải là người lính”.
Cũng như trong trận tấn công
Tết Mậu Thân của lực lượng cộng sản ở miền Nam năm năm 1968, ai trong Bộ chính
trị Đảng Cộng Sản Việt Nam hay chỉ hai ông tổng bí thư Lê Duẩn và Lê Đức Thọ
phải chịu trách nhiệm vế số thương vong từ 85.000 đến 100.000 quân cộng sản bị
loai khỏi vòng chiến, so với thiệt hại của đồng minh có trên 6.000 tử thương,
ngót 30.000 bị thương và trên 1.000 quân bị mất tích.
Tính riêng tại Huế trong 26
ngày đêm thành phố bị quân cộng sản chiếm đóng cũng đã có từ 5.000 đến 6.000 người
chết và mất tích, đa số bị quân cộng sản thảm sát bằng nhiều hình thức, kể cả
chôn sống hay đập đầu cho chết vì muốn tiết kiệm đạn để chiến đấu.
Cuộc thảm sát thường dân vô tội
ở Huế của bộ đội cộng sản có làm ông Giáp mủi lòng không, hay ông đã nghĩ gì về
lời lên án của bà bộ trưởng y tế Dương Quỳnh Hoa của chính phủ gọi là Cách mạng
Lâm thời Cộng hòa miền Nam Việt Nam nói rằng các cấp chỉ huy quân sự miền Bắc
có chủ ý để cho lính của Mặt trận Giải phóng miền Nam hy sinh đến 80% lực lượng
trong cuộc tấn công Mậu Thân ?
Tướng Võ Nguyên Giáp không có
mặt ở Việt Nam khi cuộc tấn công Mậu Thân xẩy ra mà ông đi chữa bệnh ở Hung Gia
Lợi, nhưng ông lại là người tích cực sọan thảo kế họach tổng tấn công Việt Nam
Cộng Hòa từ sau khi ký kết Hiệp định Paris năm 1973.
Cuối cùng thì miền Bắc, được
quân viện ào ạt của Nga và Trung Quốc đã thắng cuộc chiến ngày 30/04/1975 vì
miền Nam không còn súng đạn và yểm trợ của Hoa Kỳ. Nhưng sau chiến tranh, thay
vì “trả thù tắm máu” thì chính quyền cộng sản đã hủy họai cả tinh thần lẫn vật
chất của người miền Nam.
Ngoài các trại tù lao động được
ngụy trang bằng danh từ mỹ miều “học tập cải tạo” đã làm cho nhiều ngàn quân
lính Việt Nam Cộng Hòa bị chết vì lao động cực nhọc, thiếu ăn và bị đầy đọa nơi
rừng thiêng nước độc, vợ con lính và công chức Việt Nam Cộng Hòa còn bị đuổi ra
khỏi thành phố đến các khu kinh tế mới không nước, không nhà, không lương thực.
Rồi trên 1 triệu người miền
Nam, trong số có hàng ngàn tinh hoa trí thức, đã phải liều chết vượt biên, vượt
biển đi tìm tự do. Bao nhiêu chục ngàn con dân nước Việt, kể cả phụ nữ, trẻ em
và người gìa đã chết chìm, bị hải tặc hãm hiếp, cướp bóc, bị giết mất xác trên
biển Biển Đông chỉ vì không sống nổi với “đạo quân giải phóng miền Bắc”.
Chắc tướng Võ Nguyên Giáp phải
biết tất cả những chuyện đau lòng và tủi nhục này vì ông đã dự phần vào việc
sọan thảo và bàn bạc chính sách của đảng.
Nhưng không ai biết tướng Giáp
đã nghĩ gì về câu nói của thủ tướng Võ Văn Kiệt : “Chiến thắng của chúng ta
là vĩ đại, nhưng chúng ta cũng đã phải trả giá cho chiến thắng đó bằng cả nỗi đau
và nhiều mất mát. Lịch sử đã đặt nhiều gia đình người dân miền Nam rơi vào hoàn
cảnh có người thân vừa ở phía bên này, vừa ở phía bên kia, ngay cả họ hàng tôi
cũng như vậy. Vì thế, một sự kiện liên quan đến chiến tranh khi nhắc lại có
hàng triệu người vui mà cũng có hàng triệu người buồn. Đó là một vết thương
chung của dân tộc cần được giữ lành thay vì lại tiếp tục làm nó thêm rỉ máu” (Tuần
báo Quốc Tế, 18/04/2005).
Ông Kiệt nói không sai vì đất
nước sau ngày chiến tranh chấm dứt tuy đã có độc lập nhưng người dân chưa có tự
do và dân chủ như ông Hồ Chí Minh từng ước ao “không gì qúy hơn độc lập tự
do”. Đói nghèo đối với số rất đông trong 87 triệu người dân vẫn thường
xuyên năm này qua năm khác. Những người lính của Quân đội Nhân Dân cầm súng
theo lệnh tướng Giáp đã được hưởng gì trong hòa bình sau hai cuộc chiến hay vẫn
nghèo xơ nghèo xác để thấy người dân hai miền Nam-Bắc vẫn tiếp tục “xa mặt cách
lòng” hơn bao giờ hết ?
Và sau 38 năm thống nhất đất
nước, chưa bao giờ những kẻ có chức có quyền lại được tự do hành dân và được tự
do tham nhũng làm giầu như thời hậu 1975.
Trong khi ấy thì văn hoá dân
tộc bị suy đồi, lịch sử giữ nước và dựng nước của tiền nhân bị quên lãng chạy
đua song song với mức lên cao các loại tội ác và bất công trong xã hội.
Bên ngoài thì nguy cơ xâm lược
đã đến gần. Tài nguyên và biển đảo của Tổ tiên đang mất dần vào tay Trung Quốc.
Bên trong thì tài nguyên, vật lực của quốc gia đang chạy vào túi riêng của các
nhóm lợi ích quant ham, lòng dân ly tán, mất tin tưởng vào lãnh đạo lên cao.
Chắc hẳn là khi còn khỏe mạnh
và tỉnh táo trước ngày phải vào ở trong quân y viện 108 cách nay vài năm, tướng
Giáp đã biết những thứ gì dân “cần” và dân “thiếu”, cũng như ông phải biết tại
sao thế hệ thuộc hàng con cháu ông đang nắm quyền trong đảng và nhà nước đã có
một thời không coi ông ra gì (1983-1984) và lại còn dám “bỏ ngoài tai” cả lời
khuyên của ông bảo đừng để cho người Tầu Trung Quốc vào khai thác Bauxite ở Tây
Nguyên.
Ông bảo họ rằng : “Việc xác
định một chiến lược phát triển Tây Nguyên bền vững là vấn đề rất hệ trọng đối
với cả nước về kinh tế, văn hóa và an ninh quốc phòng” (thư gửi thủ tướng
Nguyễn Tấn Dũng, 2009).
Giờ đây, sau 103 năm sống trên
thế gian và 73 đi theo cộng sản, ông Võ Nguyên Giáp đã ra người thiên cổ, mang
theo những tấm Huy Chương chói lòa trên ngực của một quân nhân nổi tiếng xuống
lòng đất quê hương Qủang Bình nhưng những thắc mắc quanh ông vẫn còn ở lại với
lịch sử.
Phạm Trần (10/013)
No comments:
Post a Comment