Thứ Ba, 15/10/2013
Tẩy não hay kiểm soát tinh thần
là một tiến trình làm thay đổi nhận thức và niềm tin trong con người, qua đó
một người hay một nhóm người sử dụng các phương pháp phi đạo đức để khuất phục
kẻ khác làm theo các quyết định của một người hay của một nhóm người đó. Khái
niệm tẩy não được biết đến từ lâu qua các tà đạo, chiến tranh, tình báo, tuy
nhiên chỉ dưới các chế độ Cộng Sản kỹ thuật này mới được nâng lên thành quốc
sách và được thực hiện một cách triệt để, có hệ thống, bao trùm mọi lãnh vực xã
hội và trong mọi tầng lớp nhân dân.
Tẩy não một người
Chính sách tẩy não nhắm vào
từng cá nhân được phát hiện lần đầu tiên qua hành vi của các tù binh Mỹ bị
Trung Cộng bắt trong chiến tranh Triều Tiên. Một số binh sĩ Mỹ sau khi được
trao trả đã thay đổi hoàn toàn cách suy nghĩ, thái độ và cả hành động. Tác giả
Edward Hunter phỏng vấn nhiều tù binh bị bộ máy tuyên truyền Trung Cộng tẩy não
và ghi lại trong tác phẩm gây tiếng vang lớn Tẩy não tại Trung Cộng
(Brainwashing in Red China) xuất bản 1951. Nhà báo Edward Hunter trong tác phẩm
Tẩy não, câu chuyện của những người đã thách thức nó (Brainwashing, The Story
of Men Who Defied It) xuất bản 1956 cũng mô tả nhiều trường hợp những lính Mỹ
bị bộ máy tuyên truyền Trung Cộng tẩy não.
Một vài trường hợp điển hình
như Đại Tá Frank H. Schwable sau khi bị tẩy não đã lên đài phát thanh Trung
Cộng tố cáo chính phủ Mỹ phát động chiến tranh vi trùng hoàn toàn tưởng tượng
chống lại nhân dân Triều Tiên hay trường hợp Trung Sĩ Claude Batchelor từ chối
trở lại Mỹ. Nhiều cựu tù binh, ngoại trừ giọng nói là của họ, từ câu văn đến
dấu phẩy, dấu chấm, cách lên giọng, xuống giọng đều giống như vẹt đã được huấn
luyện thuần thục.
Năm 1957, nhà xã hội học Albert
D. Biderman trong bản tin của Viện Hàn Lâm Y Khoa New York đã liệt kê 8 biện
pháp mà các quốc gia Cộng Sản dùng để tẩy não một người gồm (1) cô lập, tước
đoạt mọi nguồn ủng hộ, làm cho nạn nhân tùy thuộc vào kẻ tẩy não (2) độc quyền
hóa khả năng nhận thức, tập trung sự chú ý vào một mối quan hệ giữa kẻ tẩy não
và nạn nhân, (3) làm suy yếu khả năng đối kháng về mặt tinh thần cũng như làm
kiệt quệ về thể lực, (4) đe dọa, trồng cấy sự lo lắng, bất an và tuyệt vọng vào
ý thức của nạn nhân, (5) ban đặc ân để khuyến dụ sự tuân hành, (6) làm cho thấy
việc chống lại chỉ là hành động vô ích mà thôi, (7) phát triển một thói quen
tuân phục, (8) chứng tỏ việc phản kháng chỉ làm thiệt hại cho lòng tự trọng hơn
là việc đầu hàng có điều kiện.
Các phương pháp tẩy não của
Trung Cộng đã làm quốc hội Mỹ phẫn nộ. Edward Hunter và nhiều tác giả khác đã
được mời ra điều trần trước quốc hội Mỹ. Dù sao, nhờ cuộc chiến Triều Tiên mà
nhân loại mới biết nhiều hơn về tẩy não, được gọi một cách văn hoa là “cải tạo
tư tưởng” tại Trung Quốc và các nước CS, trong đó có Việt Nam.
Tẩy não một dân tộc
Những năm sau 1990, nhiều nhà
sử học, nhiều nhà phân tích đổ xô đi tìm lý do tại sao phong trào CS thế giới
sụp đổ, nhưng cũng có nhiều nhà phân tích, nhà sử học khác cho rằng việc truy
tìm hiểu lý do là thiếu khoa học, chủ nghĩa CS sụp đổ là chuyện đương nhiên,
câu hỏi đúng nên đặt ra là yếu tố gì đã giúp CS tồn tại đến hơn 70 năm tại Liên
Xô và các nước Đông Âu. Phần lớn đồng ý là chính sách tuyên truyền tẩy não là
cây cột chống đỡ chế độ CS. Có người còn cho rằng tẩy não đồng nghĩa với CS,
đơn giản vì không có tẩy não, chế độ CS đã sụp đổ từ lâu lắm chứ không đợi đến
thập niên 1990.
Hai cơ quan cầm đầu chính sách
tẩy não tại các quốc gia CS là Ban Tư Tưởng Trung Ương Đảng (Việt Nam gọi là
Ban Tuyên Giáo Trung ương) và Ban Tổ Chức Trung Ương Đảng. Ban Tư Tưởng Trung
Ương Đảng CS kiểm soát toàn bộ đời sống tinh thần của đất nước bằng một chính
sách tuyên truyền tinh vi và có hệ thống khống chế tuyệt đối mọi lãnh vực từ
truyền thanh, truyền hình, báo chí đến phim ảnh, bích chương, hội họp, nghệ
thuật, nhà hát, sách vở v.v… Ban Tổ Chức Trung Ương Đảng là cơ quan bảo vệ sự
sống còn của đảng CS như một tổ chức chính trị và đóng vai trò “tham mưu của
Ban Chấp hành Trung ương Đảng Cộng sản Việt Nam, trực tiếp và thường xuyên là Bộ
Chính trị, Ban Bí thư về chủ trương và các chính sách lớn thuộc lĩnh vực tổ
chức cán bộ của hệ thống chính trị; đồng thời là cơ quan chuyên môn nghiệp vụ
về công tác tổ chức, cán bộ, đảng viên của Trung ương”. Tại các quốc gia CS,
không một sinh hoạt xã hội nào thoát khỏi sự kiểm soát của hai cơ quan nêu
trên.
Để tẩy não một dân tộc đảng CS
thay đổi mọi giá trị và nền tảng văn hóa, lịch sử và truyền thống dân tộc, nói
chung phải xây dựng những con người tuân phục và đất nước tuân phục. Bộ máy
tuyên truyền CS nặn ra nhiều khái niệm chưa từng có trước đó “con người mới”,
“xã hội mới”, “văn hóa mới”, “anh hùng lao động”, “lãnh tụ kính yêu”. Cái gì
cũng mới nhưng thực chất đều là giả tạo. Tại các quốc gia Đông Âu ngày nay, các
“anh hùng” do các đảng CS dựng lên bị khám phá là sản phẩm tuyên truyền và bị
xóa bỏ. Đảng không chỉ có khả năng thay đổi hiện tại, vẽ ra một tương lai nhưng
còn có khả năng thay đổi cả quá khứ của cả dân tộc. Lịch sử một dân tộc được
viết bằng sử quan của đảng CS và được giải thích phù hợp với đường lối, chính
sách của đảng CS trong từng thời kỳ chứ không phải là những sự kiện đã diễn ra
trong quá khứ thăng trầm, vinh quang và thống khổ của dân tộc. Bộ máy tuyên
truyền CS chi phối không chỉ trong các sinh hoạt nhân văn, xã hội mà cả khoa học
tự nhiên như trường hợp lý thuyết kế thừa giống lúa của Trofim Lysenko trong
sản xuất lúa tại Liên Xô những năm 1930, tuy không làm sản lượng lúa tăng được
bao nhiêu nhưng đảng đánh bóng y thành một thiên tài.
Có người cho rằng chế độ CS
thực chất là chế độ phong kiến hiện đại nhưng so sánh đó không hoàn toàn đúng,
ít ra về mặt danh xưng. Khác với các triều đại phong kiến, các vị trí xã hội
dưới chế độ CS thường được đặt ngược. Những kẻ ăn trên ngồi tróc, thực sự làm
chủ đất nước, nắm trong tay quyền sinh sát cả dân tộc lại được gọi là “đầy tớ
nhân dân” trong lúc những tầng lớp cùng đinh trong xã hội, sống không một túp
lều tranh để ở và chết không một chiếc chiếu để bó xác lại bị gán cho một danh
xưng rất đẹp “chủ nhân của đất nước”.
Đặc tính văn hóa của mỗi quốc
gia cũng làm cho chính sách tẩy não thực hiện tại châu Âu và châu Á khác nhau
chút ít. Châu Âu như Liên Xô và các nước CS Đông Âu đặt nặng yếu tố vật chất,
thể xác trong lúc Trung Cộng, Việt Nam yếu tố tư tưởng, tinh thần được chú
trọng nhiều hơn. Một đối tượng tẩy não bị bắt tại Liên Xô sẽ bị hành hạ thể xác
cho đến khi thú nhận những tội ác dù không làm, thừa nhận là sự thật dù biết đó
là giả dối trong lúc tại Trung Cộng và CSVN đối tượng đó sẽ bị “cải tạo tư
tưởng” cho đến khi gục quỵ xuống mới thôi.
Tẩy não một quốc gia thù địch
Kiểm soát tạm thời hành vi và ý
chí của một cá nhân có thể chỉ cần một thời gian ngắn như trường hợp các tù
binh Mỹ trong chiến tranh Triều Tiên nhưng kế hoạch của Liên Xô nhằm tẩy não
nước Mỹ cần nhiều chục năm. Tại sao phải cần đến vài chục năm, theo Yuri
Bezmenov cựu nhân viên KGB đào thoát và được định cư tại Canada năm 1970, giải
thích đó là thời gian cần có để xây dựng một thế hệ con người trung thành với
lý tưởng CS ngay tại Mỹ.
Yuri Alexandrovich Bezmenov là
một cựu nhân viên KGB hoạt động tại Ấn Độ trong thập niên 1960. Cha của ông là
một lãnh đạo cao cấp của tổ chức KGB. Năm 17 tuổi ông theo học ngành ngôn ngữ
học tại đại học Moscow State University do KGB trực tiếp kiểm soát. Nhiệm sở
đầu tiên sau khi tốt nghiệp của Yuri Bezmenov là Ấn Độ với trách nhiệm thực thi
các chính sách nhằm lật đổ chế độ dân chủ Ấn. Tuy nhiên, sự thán phục của ông
dành cho nền văn hóa Ấn và sự bất mãn chế độ Cộng Sản mỗi ngày một gia tăng đã
thúc đẩy Yuri Bezmenov đào thoát khỏi ý thức hệ CS.
Năm 1985, trong một buổi phỏng
vấn đặc biệt với chủ đề “Làm thế nào để tẩy não một quốc gia”, Yuri
Alexandrovich Bezmenov giải thích chiến lược của Liên Xô để thay đổi tư duy của
một quốc gia đối nghịch, trường hợp này là Mỹ.
Không giống như các phim ảnh do
Hollywood dàn dựng với những màn gián điệp gay cấn, hấp dẫn kiểu James Bond,
tẩy não nước Mỹ là một tiến trình được thực hiện từng bước, rất nhẹ nhàng, diễn
ra trước mắt và trải qua bốn giai đoạn gồm (1) lũng đoạn nền tảng đạo đức, (2)
tạo sự bất ổn, (3) gây khủng hoảng và (4) bình thường hóa. Trong bốn giai đoạn,
hủy hoại nền tảng đạo đức của một quốc gia là giai đoạn quan trọng nhất.
Mặc dù mục đích của buổi phỏng
vấn nhằm giải thích cuộc chiến tranh văn hóa tư tưởng mà Liên Xô dùng để đánh
gục nước Mỹ, tẩy não cũng là chính sách chung mà lãnh đạo các đảng CS trên toàn
thế giới áp dụng.
Mỹ chẳng những không bị đánh
gục mà trái lại đã góp phần quan trọng trong việc hạ gục toàn bộ hệ thống Liên
Xô. Tuy nhiên, phía thế giới tự do, trong thời kỳ chiến tranh lạnh cũng tổn
thất khá nặng với Cuba (1959), Congo (1970), Ethiopia (1974), Cambodia (1975),
Việt Nam Cộng Hòa (1975), Lào (1975), Angola (1975), Mozambique, (1979),
Nicaragua (1979) bị rơi vào quỹ đạo CS.
Tạm gác qua bên cuộc chiến bằng
súng đạn, trong bốn giai đoạn mà Yuri Alexandrovich Bezmenov phân tích, giai
đoạn thứ nhất, đầu độc một quốc gia, đáng được phân tích để thấy cuộc chiến
tranh văn hóa tư tưởng do CSVN phát động đã ảnh hưởng thế nào đến sự sụp đổ của
Việt Nam Cộng Hòa. Trong buổi phỏng vấn Yuri Alexandrovich Bezmenov cũng nhắc
đến Việt Nam và tiết lộ các chính sách do CSVN thực hiện chẳng phải là sản phẩm
riêng gì của đảng CSVN nhưng hoàn toàn rập theo khuôn mẫu của Liên Xô. Do đó,
phần còn lại của bài sẽ thay VNCH vào chỗ Mỹ.
Để hủy diệt nền tảng đạo đức
văn hóa của VNCH, trước hết phải đầu độc thành phần trí thức. Giới lãnh đạo
CSVN đã tiến hành một chính sách quy mô nhằm mua chuộc, lũng đoạn, phân hóa
hàng ngũ trí thức miền Nam Việt Nam.
Nhiều người hiểu lầm rằng đối
tượng của chính sách tuyên truyền CS áp dụng vào các thành phần ít học, dễ tin,
đói khát, cùng khổ, hay “không có gì để mất” nói theo quan điểm Marx. Không
phải. Mục tiêu hàng đầu của đảng CS là thu hút thành phần có lý tưởng, có học
thức như nhà báo, nhà xuất bản sách, nhà giáo dục, văn nghệ sĩ, nói chung là
những thành phần có khả năng hướng dẫn dư luận. Hàng khối trí thức miền Nam đã
bị CS tuyên tuyền, đầu độc và trở thành những công cụ của CS trong thời chiến,
khi VNCH gục xuống trong máu và nước mắt, và mãi cho đến ngày nay. Những thành
phần thân Cộng này không nhất thiết phải được kết nạp vào đảng nhưng là những
người biện hộ cho quan điểm của đảng CS bởi vì tiếng nói của họ được xem “khách
quan”, “độc lập”. Những trí thức và chính khách này tự nhận là “thành phần thứ
ba” như được gọi trong sinh hoạt chính trị tại miền Nam Việt Nam trước năm
1975. Thực tế chính trị đã chứng minh, không có quan điểm nào gọi là “độc lập”
hay “khách quan” và tại miền nam Việt Nam trước đây cũng không có thành phần nào
đúng nghĩa là thành phần chính trị thứ ba, ngoài hai lập trường chính trị quốc
gia và cộng sản.
Alexandrovich Bezmenov cũng
giải thích xa hơn, thành phần thân Cộng chỉ cần thiết trong giai đoạn làm sụp
đổ quốc gia thù địch nhưng khi mục đích của đảng CS đã đạt, thành phần này
chẳng những không còn cần thiết mà có thể trở thành một chướng ngại. Nhiều
trong số họ phải bị giết, bị tù và bị thanh trừng qua nhiều hình thức. Lý do?
Những kẻ thân Cộng trong chiến tranh rất dễ bị bất mãn khi thấy đảng CS nắm hết
quyền hành và do đó sẽ trở thành thù địch về mặt quyền lực với chế độ và chống
đối về mặt tư tưởng với chủ nghĩa Marx Lenin. Họ bị thanh trừng, ngoài ra, còn
vì cái tội biết CS quá nhiều. Yuri Alexandrovich Bezmenov nêu lên trường hợp
Nicaragua nơi một phe thân CS trước đó đã hoạt động chống lại tổ chức CS
Sandinistas do José Daniel Ortega lãnh đạo. Tại Afghanistan nơi lãnh tụ CS
Taraki bị Amin giết, rồi Amin bị Karmal giết, và tại Bangladesh nơi Mujibur
Rahman bị chính những người cùng chiến tuyến với y giết.
Để chiến thắng trong trận chiến
quân sự và văn hóa, ngoài khối thân CS nêu trên, đảng CS cần một mạng lưới nằm
vùng trung thành, dã man, cuồng tín và hữu hiệu. Thành phần này cần thiết để
trực tiếp thi hành các chính sách của đảng CS tại các địa phương.
Yuri Alexandrovich Bezmenov
nhấn mạnh đến thành phần nằm vùng bởi vì không có mạng lưới nội ứng tại địa
phương các lực lượng CS bên ngoài không thể xâm nhập được. Trong buổi phỏng
vấn, cựu nhân viên KGB này có nhắc đến trường hợp một thành phố ở Việt Nam,
được viết trong văn bản là Hua, có thể ông muốn nói Huế, để nhấn mạnh đến vai
trò của mạng lưới CS nằm vùng: “Tương tự, trong một quận của Huế tại Nam Việt
Nam, nhiều ngàn người đã bị xử tử trong một đêm khi thành phố bị CS chiếm chỉ
trong hai ngày; CIA không thể nào trả lời được câu hỏi, làm thế nào CS có khả
năng biết từng cá nhân người bị xử tử, ông ta sống ở đâu, đến nơi nào để bắt
ông và để bắt trước bình minh, bỏ ông ta lên xe, lái ra khỏi thành phố và bắn
ông ta. Câu trả lời rất đơn giản. Thật lâu trước khi chiếm thành phố đã có một
mạng lưới của những CS nằm vùng; họ là dân địa phương và là những người biết
một cách tuyệt đối những ai trong thành phố có ảnh hưởng với quần chúng, kể cả
những anh thợ hớt tóc và tài xế taxi. Những ai có cảm tình với Mỹ đều bị xử
bắn.”
Thước đo của mức độ bị tẩy não
Mức độ bị tẩy não cũng có mức
trầm trọng khác nhau. Một người bị tẩy não hoàn toàn sẽ không còn khả năng để
đánh giá sự thật. Sự kiện và bằng chứng không có nghĩa gì với họ. Yuri
Alexandrovich Bezmenov phát biểu từ kinh nghiệm ở Liên Xô “Ngay cả mang anh ta
tới tận Liên Xô và chỉ cho anh ta thấy trại tập trung, anh ta cũng không tin…
cho đến lúc anh ta bị đá ngay vào đít, khi giày đinh đạp lên anh, rồi anh ta
mới hiểu. Nhưng không phải trước đó. Đó là thảm kịch của trình trạng bị băng
hoại về đạo đức trong con người.” Nhiều người Việt Nam hiện nay vẫn chịu đựng
mức độ tẩy não trầm trọng như vậy.
Tuy nhiên, cũng có những người
bị tẩy não ở mức độ thấp hơn. Họ thấy được những hiện tượng sai trái, những bất
công, tiêu cực của chế độ nhưng vẫn “chấp nhận đặc ân để sau đó tuân hành”, vẫn
cho rằng “chống lại chỉ là hành động vô ích”, vẫn “trải qua nhiều chục năm tuân
phục thành một thói quen”, và vẫn nghĩ rằng “phản kháng chỉ làm thiệt hại cho
lòng tự trọng hơn là việc đầu hàng có điều kiện” đúng như các điểm mà nhà xã
hội học Albert D. Biderman đã liệt kê. Điều đó cho thấy, trên thế giới, chủ
nghĩa CS chỉ là một bóng ma hãi hùng của quá khứ, các dân tộc từng bị CS cai
trị từ Âu sang Á đã thức tỉnh sau bảy mươi năm chịu đựng chủ nghĩa tàn bạo nhất
lịch sử loài người nhưng tại Việt Nam vẫn còn nhiều người bị tẩy não. Giống như
đảng CS không bao giờ thừa nhận đã và đang tẩy não cả dân tộc, không ai muốn
thừa nhận mình bị CS tẩy não.
Thước đo mức độ tẩy não không
phải là quá khó để xác định mà nằm ngay trong câu trả lời cho câu hỏi rất đơn
giản “Anh (chị) thật sự muốn gì cho đất nước?”
Con đường duy nhất hiện nay là
tập trung sức mạnh dân tộc, gạt bỏ mọi bất đồng, vận dụng các điều kiện quốc tế
thuận lợi để đẩy mạnh cuộc vận động dân chủ tại Việt Nam đến thành công, xóa bỏ
chế độ độc tài toàn trị CS, thiết lập một chế độ dân chủ pháp trị, hiện đại hóa
đất nước toàn diện làm nền tảng cho việc phục hồi chủ quyền đất nước, mở đường
cho một Việt Nam thăng tiến lâu dài.
Không có con đường nào khác.
Tuy nhiên, không phải ai cũng có một câu trả lời dứt khoát và giống nhau như
thế. Ngay cả trong tầng lớp có học thức, nhà khoa học, nhà văn, nhà thơ, nhà
báo không ít người vẫn còn nghĩ rằng nói gì thì nói đảng CS trong suốt dòng
lịch sử của đảng đã đồng hành với dân tộc, nói gì thì nói chỉ có đảng CS mới có
khả năng đưa đất nước ra khỏi nghèo nàn lạc hậu, nói gì thì nói đảng CS là đảng
nắm trong tay ngọn cờ chính nghĩa, nói gì thì nói Việt Nam vẫn cần ổn định để
phát triển và mọi thay đổi đột biến sẽ dẫn đến hỗn loạn, nói gì thì nói các
lãnh tụ CS vẫn là những người yêu nước, những anh hùng dân tộc và xứng đáng
được kính trọng khi họ sống và tôn thờ, tiếc thương, than khóc khi họ chết.
Lịch sử thế giới chỉ riêng từ
thế chiến thứ hai cho đến nay có nhiều anh hùng đã đóng góp trí tuệ hay máu
xương vào công cuộc bảo vệ tự do cho đất nước họ hay giải phóng dân tộc họ khỏi
ách thực dân. Vài trường hợp điển hình như Mahatma Gandhi (Ấn Độ), Winston
Churchill (Anh), Charles de Gaulle (Pháp), Tưởng Giới Thạch (Trung Hoa Dân
Quốc), Franklin D. Roosevelt (Mỹ). Nhưng khi họ chết, ngoài tang quyến, không
có cảnh “Đời tuôn nước mắt, trời tuôn mưa” như khi Hồ Chí Minh chết và “ôm thật
chặt cột nhà khóc cho thỏa nỗi xót thương” như khi Võ Nguyên Giáp vừa chết ở
Việt Nam. Bởi vì những lãnh đạo thế giới nêu trên là những anh hùng thật, con
người thật, có thành công và thất bại, có điểm tốt và điểm xấu và cuộc đời họ
được phô bày trước dư luận chứ không phải là sản phẩm do nhà máy tuyên truyền
sản xuất trong một xã hội bị bưng bít thông tin. Tuy mức độ có khác nhau, “khóc
lãnh tụ” là đặc điểm của văn hóa CS và chỉ tồn tại tại các nước CS.
Trở lại với thành phần “nói gì
thì nói”. Giới hạn trong hoạt động tri thức của thành phần “nói gì thì nói” mỗi
thời kỳ có thể được nới rộng hơn chút ít nhưng đó không phải là sự mở rộng
thuận theo đà phát triển của văn minh nhân loại mà từ sự thỏa hiệp với đảng CS.
Như kẻ viết bài này có lần đã viết, xã hội Việt Nam là một xã hội được khoanh
vùng có biên giới rõ rệt giữa các thành phần và các thành phần này cùng tồn tại
bằng cách thỏa hiệp với nhau. Không được vượt đèn đỏ, không được lấn lề, vi
phạm sẽ bị phạt. Đảng Cộng sản thỏa hiệp với các thành phần trí thức vì mục
đích duy trì quyền cai trị đất nước. Giới trí thức thỏa hiệp với đảng để được
ban phát bổng lộc, lợi danh. Giới văn nghệ sĩ thỏa hiệp với đảng để các điều
kiện sáng tác, in ấn, phát hành được nới rộng hơn, được đi Tây, đi Mỹ dễ dàng.
Các bè phái tham ô thỏa hiệp với lãnh đạo đảng để được tiếp tục tham nhũng cho
đến khi bị lộ. Chỉ có những người cùng khổ, thấp cổ bé miệng nhưng chiếm đa số
trong xã hội, là không ai cần thỏa hiệp mà họ cũng chẳng biết thỏa hiệp với ai
ngoài số phận hẩm hiu đầy bất hạnh của mình.
Không có gì đáng hãnh diện. Hồ
nước rộng mà thành phần “nói gì thì nói” đang bơi trong đó hôm nay hai chục năm
trước là một chiếc ao nhỏ và bốn mươi năm trước là một lỗ chân trâu nhưng dù là
lỗ chân trâu, ao hay hồ cũng chỉ là nơi tích tụ của những giọt nước tuyên
truyền cùng một nguồn nhỏ xuống suốt hơn nửa thế kỷ qua. Dù thừa nhận hay
không, tầng lớp của những người “nói gì thì nói” chính là những người bị CS tẩy
não, và Việt Nam hôm nay vẫn còn chịu đựng dưới chế độ độc tài trong khi đại đa
số nhân loại sống trong tự do dân chủ không phải vì tài năng của giới lãnh đạo
CS nhưng chỉ vì số người bị tẩy não còn quá đông.
Trần Trung Đạo
Tham khảo:
- Albert D. Biderman, Herbert
Zimmer, Manipulation of Human Behavior (The), Delhaye, 1961
- Kathleen Taylor, Brainwashing THE SCIENCE OF THOUGHT CONTROL, Oxford University Press 2004
- Transcript of G. Edward Griffin interviews Ex-KGB Soviet Defector Yuri Bezmenov, Wed Jun 3 1985
- EDWARD HUNTER, Brainwashing, The Story of Men Who Defied It, New York, 1956
- Louis R. Stockstill, The Forgotten Americans of the Vietnam War, Prisoners of War—A Special Report, US Air force
- Biderman’s Chart of Coercion
- http://vi.wikipedia.org về Ban Tuyên Giáo Trung Ương và Ban Tổ chức Trung Ương đảng CSVN
- Former KGB Agent Yuri Bezmenov Explains How to brainwash a nation
- Archie Brown, The Rise and Fall of Communism, HarperCollins, New York, NY 2011
- Kathleen Taylor, Brainwashing THE SCIENCE OF THOUGHT CONTROL, Oxford University Press 2004
- Transcript of G. Edward Griffin interviews Ex-KGB Soviet Defector Yuri Bezmenov, Wed Jun 3 1985
- EDWARD HUNTER, Brainwashing, The Story of Men Who Defied It, New York, 1956
- Louis R. Stockstill, The Forgotten Americans of the Vietnam War, Prisoners of War—A Special Report, US Air force
- Biderman’s Chart of Coercion
- http://vi.wikipedia.org về Ban Tuyên Giáo Trung Ương và Ban Tổ chức Trung Ương đảng CSVN
- Former KGB Agent Yuri Bezmenov Explains How to brainwash a nation
- Archie Brown, The Rise and Fall of Communism, HarperCollins, New York, NY 2011
-----------------------------------
15 bài viết mới
No comments:
Post a Comment