Thứ
năm, ngày 15 tháng mười một năm 2012
Theo dõi tình hình Biển Đông, ai cũng
thấy lực cản chính của một giải pháp dĩ nhiên là Bắc Kinh. Nhưng không phải ai
cũng nhận ra "lực cản phụ" là sự thiếu đồng nhất trong nội bộ ASEAN.
Nếu thái độ phản trắc đối với những người cùng hội cùng thuyền ASEAN của
Cămpuchia với tư cách nước chủ nhà của Hội nghị AMM lần thứ 45 thì thái độ của
nước Lào tại Hội nghị Á- Âu (ASEM) do Lào làm chủ nhà mới đây cũng không khá
hơn là mấy. Trong khi đó 3 nước Thái Lan, Singapore và Indonesia, dù rất muốn
đóng vai trò, nhưng thái độ lại "nữa vời". Nhìn quanh rốt cuộc chỉ có
Philipine và Việt Nam phải "giơ đầu chịu báng". Đó là thực trạng của
ASEAN trước một đối phương ngày càng quả quyết hơn là Trung Quốc.
Vì sao có tình trạng "trống đánh xuôi kèn thổi ngược" trong nội bộ ASEAN? Có thể đó là do bản thân một số nước còn nhầm tưởng rằng họ có thể đứng ngoài cơn mưa của chủ nghĩa bành trướng Bắc kinh (?) đồng thời những lợi ích kinh tế, thương mại, đầu tư và cả viện trợ từ Bắc Kinh tỏ ra quá hấp dẫn đối với họ (?)
Vì sao có tình trạng "trống đánh xuôi kèn thổi ngược" trong nội bộ ASEAN? Có thể đó là do bản thân một số nước còn nhầm tưởng rằng họ có thể đứng ngoài cơn mưa của chủ nghĩa bành trướng Bắc kinh (?) đồng thời những lợi ích kinh tế, thương mại, đầu tư và cả viện trợ từ Bắc Kinh tỏ ra quá hấp dẫn đối với họ (?)
Trong số các bài viết và phân tích của nhiều tác giả quốc tế và khu vực về chủ đề tranh chấp Biển Đông, có thể nói bài phân tích có tựa đề "A way ahead in the South East Asia" của tác giả David Brown (*) đăng trên tờ Asia Times online ngày 7/11/2012 là một trong những bài phản ánh khách quan và chính xác hơn về thực trạng của vấn đề tranh chấp Biển Đông cho đến nay. Xin trích đăng lại Bài viết được dịch giả Hoàng Anh chuyển ngữ dưới đây để bạn đọc tiện tham khảo.
Tác giả/ hiệu
đính: David Brown
Asia
Times , 07-11-2012
Người dịch: Hoàng Anh
Posted by basamnews on 14/11/2012
Người ta đã từng rất kỳ vọng rằng
Hiệp hội các Quốc gia Đông Nam Á (ASEAN) sẽ tạo được một bức tường thành vững
chắc, có khả năng ngăn chặn sự bành trướng của Trung Quốc xuống các vùng biển
trong khu vực Đông Nam Á. Và họ cũng đã từng nghĩ rằng để chuẩn bị ứng phó với
tuyên bố chủ quyền “không thể bác bỏ” của Trung Quốc đối với các “vùng biển liên
quan” mà có vẻ vươn tới tận sát vách Singapore, các nước ASEAN sẽ cùng thống
nhất được một lợi ích chung, và vạch ra được một kênh mà các cường quốc ngoài
khu vực như Nhật Bản, Úc, Ấn Độ và đặc biệt là Hoa Kỳ, có thể can thiệp giúp
đỡ.
Tuy nhiên, cơ chế hoạt động dựa trên
nguyên tắc đồng thuận và đối thoại không đối đầu của ASEAN lại là một lỗ hổng
chết người trong trường hợp này. Bốn trong mười quốc gia thành viên – Lào,
Campuchia, Thái Lan và Myanmar – một mực đặt ưu tiên cho việc duy trì mối quan hệ
song phương nồng ấm với Trung Quốc lên trên sự thống nhất của khối ASEAN. Bởi
sự chia rẽ nội bộ này, các thành viên ASEAN đã phải hội đàm không ngừng nghỉ,
nhằm đi đến một kế hoạch khung có khả năng đáp ứng các đòi hỏi của Bắc Kinh ở
mức tối thiểu.
Trong khi đó, họ lại không nhận được
nhiều sự hợp tác từ phía Bắc Kinh. Trung Quốc lẩn tránh mọi đề xuất của ASEAN
nhằm thiết lập một cơ chế kiểm soát xung đột, bao gồm cả bản dự thảo Bộ Quy tắc
Ứng xử trên Biển Đông. Bắc Kinh không đồng ý với việc đem các tuyên bố chủ
quyền chồng lấn ra nhờ trọng tài quốc tế phân xử hay ngay cả việc đàm phán đa
phương. Họ cũng chẳng thèm làm rõ phạm vi tuyên bố chủ quyền của mình ở Biển
Đông. Và bởi lẽ đó, suốt hai thập kỷ qua, đã bao lần ASEAN nhóm họp để rồi
chẳng làm nên trò trống gì.
Bốn trên tổng số mười nước ASEAN đang
trực tiếp ở tuyến đầu của cuộc tranh chấp này. Malaysia, Brunei, Philippines và
Việt Nam tuyên bố chủ quyền đối với toàn bộ hoặc một phần quần đảo Trường Sa,
bao gồm một loạt rặng san hô, bãi đá và các hòn đảo nhỏ nằm rải rác khắp khu
vực phía nam của Biển Đông. Việc kiểm soát các hòn đảo và bãi đá này lại dẫn
đến các tuyên bố chủ quyền đối với các vùng biển xung quanh. Ngoài ra, hai nước
Việt Nam và Philippines còn tuyên bố chủ quyền đối với một số đảo nhỏ và rặng
san hô nằm về phía bắc quần đảo này, gần về phía Trung Quốc.
Đối với Hà Nội, họ tuyên bố chủ quyền
đối với quần đảo Hoàng Sa, nằm giữa khu vực miền Trung Việt Nam và đảo Hải Nam
của Trung Quốc. Bắc Kinh đã đánh chiếm quần đảo này từ tay chế độ Việt Nam Cộng
hòa đang trên đà sụp đổ hồi năm 1974. Đó cũng là nơi mà hồi đầu năm nay, Bắc
Kinh đã bày bố lớp vỏ cho cái mà họ gọi là thành phố Tam Sa với địa hạt bao
trùm lên toàn bộ các tuyên bố chủ quyền rất bành trướng của Trung Quốc ở khu
vực Biển Đông. Còn đối với Manila, họ tuyên bố chủ quyền đối với bãi cạn
Scarborough, một ngư trường ngoài khơi trù phú nằm cách Luzon, hòn đảo chính
của Philippines, chỉ khoảng 200 km. Đây là nơi mà hồi tháng tư vừa qua
Philippines đã phải đối mặt với các tàu tuần duyên của Trung Quốc, và rồi phải
rút lui trong thế bất lợi.
Bởi vậy, không có gì phải ngạc nhiên
khi Việt Nam và Philippines là hai nước tích cực nhất trong việc tìm kiếm một
giải pháp triệt để nhằm đối phó với tham vọng của Trung Quốc muốn đạt được bá
quyền trên vùng biển kéo dài gần 2.000 km về phía nam của đảo Hải Nam. Việc
Manila và Hà Nội nóng lòng lôi kéo sức mạnh hải quân Hoa Kỳ vào cuộc tranh chấp
này, đã khiến cho một số nước ASEAN anh em của họ cảm thấy khó chịu.
Ngược lại, Malaysia và Brunei luôn giữ
một thái độ mềm mỏng hơn. Họ đã tự phân định tranh chấp với nhau và với Việt
Nam, dựa trên các nội dung quy định trong Công ước Quốc tế về Luật Biển của
Liên Hiệp Quốc (UNCLOS) và theo tập quán quốc tế. Cả hai nước để mặc Việt Nam
và Philippines tự bảo vệ các tuyên bố chủ quyền của mình ở khu vực phía bắc
Biển Đông. Mặc dù không phải là nước cờ cao thượng cho lắm, nhưng cả Kuala
Lumpur và Bandar Seri Begawan đều có vẻ hy vọng rằng tham vọng bành trướng của
Trung Quốc sẽ được thỏa mãn trước khi nó lan tới vùng biển mà hai nước này
tuyên bố chủ quyền, bất chấp ngày càng nhiều bằng chứng cho thấy điều ngược
lại.
Indonesia và Singapore cùng có chung
lợi ích trong việc ngăn Trung Quốc theo đuổi các tuyên bố chủ quyền bành trướng
của họ. Vùng biển nằm trong đường chín đoạn gây tranh cãi của Trung Quốc chồng
lấn lên vùng đặc quyền kinh tế của Indonesia ở gần quần đảo Natuna. Jakarta và
Singapore cho đến nay đã nổi lên như là hai nước hậu thuẫn chính cho một “giải
pháp ASEAN”, trong đó Singapore, như thường lệ, công khai chấp nhận vai trò
lãnh đạo của Indonesia.
Mặc dù tuyên bố sẵn sàng đàm phán
tranh chấp song phương với từng nước, nhưng Trung Quốc chẳng mảy may từ bỏ
tuyên bố về quyền chủ quyền lịch sử của mình đối với vùng biển nằm trong đường
chín đoạn. Như vậy, Bắc Kinh đang khẳng định quyền sở hữu đối với các nguồn tài
nguyên biển nằm trong khu vực chiếm hơn 85% diện tích Biển Đông, bất chấp quy
định của Công ước rằng tất cả các quốc gia có đặc quyền về kinh tế đối với phạm
vi vùng biển cách bờ của họ 200 hải lý, hoặc xa hơn nếu thềm lục địa của họ
rộng hơn, trừ khi nó tiếp giáp với vùng đặc quyền kinh tế của một quốc gia
khác. Trung Quốc đã liên tục bác bỏ các quy định của Công ước, bằng cách tuyên
bố rằng các nhà hàng hải và ngư dân của Trung Quốc đã ngược xuôi khắp vùng biển
này từ thời xa xưa.
Tất cả các quốc gia tranh chấp đều có
thể viện dẫn đến các bằng chứng lịch sử để lý giải cho các yêu sách của mình.
Từ hàng nghìn năm nay, Biển Đông vẫn luôn là một khu chợ chung của cả khu vực.
Việt Nam có thể trưng ra hàng đống bản đồ và chiếu dụ từ thế kỷ 18, thể hiện
mối lợi ích trong việc tuyên bố chủ quyền đối với các hòn đảo trên Biển Đông
một cách còn nhất quán hơn nhiều so với Trung Quốc. Cũng như ở Trung Quốc,
những tài liệu cũ đã ố vàng đó lại góp phần khơi dậy ngọn lửa của chủ nghĩa dân
tộc.
Tuy nhiên, tranh cãi dựa trên các
bằng chứng lịch sử sẽ không thể đưa các nước tới lối thoát khỏi mớ bòng bong
các tuyên bố chồng lấn này, trừ khi chúng được hậu thuẫn bởi một thế lực không
thể gạt bỏ được – như ít nhất là có nhân vật nào đó bên phía Trung Quốc tin
tưởng. Bộ trưởng Ngoại giao Trung Quốc Dương Khiết Trì đã từng có một tuyên bố
gây xôn xao tại một cuộc họp vào tháng 8 năm 2010 do ASEAN chủ trì rằng “Trung
Quốc là một nước lớn, còn các nước khác chỉ là những nước nhỏ, và đó là sự
thật”.
Biển Đông dậy sóng
Từ vài năm nay, những triển vọng về
một đột phá ngoại giao lại dấy lên mỗi khi bước vào những tháng mùa thu, khi mà
Biển Đông phải dồn dập hứng chịu những cơn bão. Và cứ mỗi khi các cơn bão lắng
dịu đi, thì các động thái khiêu khích của Bắc Kinh lại càng nhân lên gấp bội,
đặc biệt tập trung vào việc quấy nhiễu, bắt bớ các ngư dân Việt Nam và
Philippines, trong khi hăm dọa, xua đuổi các công ty năng lượng có ý muốn thăm
dò nguồn dầu khí dưới biển do Hà Nội hoặc Manila cấp phép.
Bắc Kinh dựa vào hàng trăm tàu “hải
giám” và “ngư chính” có vũ trang để mở rộng tầm kiểm soát của mình, trong khi
hải quân Trung Quốc cũng đang được đầu tư phát triển tiềm lực từng ngày. Chẳng
đáng phải ngạc nhiên khi Việt Nam, Malaysia, Indonesia và Singapore đã khẩn
trương tăng tốc, củng cố tiềm lực không quân và hải quân của mình. Philippines
là nước chậm chân trong cuộc đua này, nên mặc dù Manila đã có đôi chút chuẩn bị
sau khi bị lôi kéo đột ngột vào những lần va chạm gần đây với Trung Quốc, các
lực lượng của họ vẫn ở trong tình trạng đặc biệt lép vế.
Chính triển vọng nắm được nguồn dầu
mỏ và khí đốt dồi dào dưới lòng Biển Đông, cộng với việc bị dồn nén từ sự miệt
thị của các quốc gia khác từ bấy lâu nay, đã khiến Trung Quốc quyết tâm ôm trọn
Biển Đông vào tầm kiểm soát của mình. Thực tế những cuộc hội đàm của các quốc
gia ASEAN đã thất bại trong việc tìm ra lối thoát cho cuộc khủng hoảng đang leo
thang, cùng với việc Trung Quốc áp dụng chiến lược “vừa đàm vừa đoạt” không
chùn bước, và hệ quả là Hoa Kỳ nhúng tay vào một mớ các tranh chấp này đã khiến
cho giới chuyên gia trở nên gần như tuyệt vọng.
Những suy tính về các kịch bản có thể
xảy ra về vị thế của Trung Quốc trong trường hợp họ, một nước Trung Quốc mang
đậm tư tưởng phục thù, giành thắng lợi trong cuộc tranh chấp hiện nay đã khiến
cho Hoa Kỳ phải bận tâm. Washington không muốn động thủ và vẫn còn chưa rõ xem
liệu Hoa Kỳ sẽ ứng phó ra sao trong trường hợp Việt Nam, Philippines hay thậm
chí Singapore bị rơi vào tầm ảnh hưởng của Trung Quốc. Tuy nhiên, ít ai nghi
ngờ quyết tâm của Hoa Kỳ muốn ngăn chặn Bắc Kinh kiểm soát toàn bộ tuyến hàng
hải đi qua Biển Đông.
Nếu không phải là ASEAN chủ động đứng
ra đương đầu, thì còn ai ra thay thế họ đây? Hoa Kỳ và các nước khác trên thế giới
cần một lý lẽ đủ mạnh để biện minh cho một cuộc can thiệp bền vững và có hiệu
quả. Gần đây, đã quá chán ngấy với con ngáo ộp “vũ khí hủy diệt hàng loạt” tại
Irắc, công chúng Mỹ tỏ ra e dè trước một cuộc phiêu lưu quân sự tiếp theo. Còn
Nhật Bản thì vốn đã luôn e dè với việc phô trương sức mạnh của mình. Nếu các
quốc gia Đông Nam Á quanh vùng biển này muốn Hoa Kỳ và các đồng minh hỗ trợ
nhiều hơn là những lời tuyên bố giữ vững tự do hàng hải ở Biển Đông, thì họ
phải chứng tỏ rõ được rằng họ cần và đáng nhận được sự trợ giúp.
Nhiều người trong giới chính sách
quốc tế ở phương Tây tin rằng Hoa Kỳ nên làm bạn với một “Trung Quốc đang trỗi
dậy”. Những căng thẳng đang leo thang tại Biển Đông là một mối đe dọa cho viễn
cảnh của họ về một cộng đồng các nước Thái Bình Dương hòa bình và thịnh vượng.
Một số chuyên gia ngoại giao này có vẻ sẵn sàng nhường lại một khu vực ảnh
hưởng cho Trung Quốc – chẳng hạn như ASEAN – và họ sẽ không đứng ra bênh vực
bên nào trong các tranh chấp này. Nhiều “chiến lược gia” phương Tây vẫn còn đàm
luận về các cuộc đối đầu này như thể tất cả các bên đều có lỗi như nhau.
Tuy nhiên, quan niệm đó có thể thay
đổi — chỉ cần các nước Brunei, Malaysia, Philippines và Việt Nam thảo luận và
đi đến một chỗ đứng chung. Họ có thể thực hiện điều này được bằng cách khoanh
vùng lại, nếu không phải là dàn xếp ổn thỏa, các tuyên bố chủ quyền chồng chéo
giữa họ với nhau, thông qua việc áp dụng các quy định trong Công ước về Luật
Biển và các quy định khác trong công pháp quốc tế. Họ cũng có thể cam kết sẽ
dựa vào trọng tài quốc tế phân xử cho các tranh chấp còn lại. Các nước không có
tranh chấp như Indonesia và Singapore có thể đứng đằng sau hỗ trợ cho quá trình
dàn xếp này của các nước ASEAN.
Kết quả có thể thấy ngay được đó là
việc phân định rõ các vùng tranh chấp chồng lấn hiện nay của bốn nước đối với
các hòn đảo, rặng san hô và bãi đá ở quần đảo Trường Sa. Họ có thể ngắm tới
việc thỏa thuận các “giới hạn lãnh hải” mà các hòn đảo, bãi đá này tạo ra, và
nhờ đó khoanh vùng địa lý các khu vực còn tranh chấp. Điều này lại giúp tiếp
tục phân định rõ quyền kiểm soát đối với các khu vực biển lân cận.
Đối với các tranh chấp bên ngoài quần
đảo Trường Sa, lấy lại được một chút lợi ích trên bàn đàm phán còn hơn là chẳng
thu lại được gì. Bởi lẽ, Trung Quốc đã kiểm soát quần đảo Hoàng Sa được gần bốn
thập kỷ, và giờ đây lại tỏ rõ quyết tâm chiếm giữ cả bãi cạn Scarborough. Cho
đến thời điểm này, việc Việt Nam và Philippines giành lại được hai khu vực đó
dựa vào các tuyên bố chủ quyền lịch sử dường như là điều hoang tưởng.
Hướng giải pháp thực tế hơn là đấu
tranh buộc Trung Quốc phải chấp nhận vùng đặc quyền kinh tế quy định trong Công
ước về Luật Biển, mà theo đó Việt Nam có thể lấy lại được một phần phía tây
quần đảo Hoàng Sa còn Philippines thì sẽ lấy lại được bãi cạn Scarborough. Nếu
căn cứ vào đó thì Malaysia, Brunei, Indonesia và Singapore sẽ dễ dàng đứng sau
hậu thuẫn hơn, cho dù là họ đã ngần ngại ủng hộ việc đấu tranh thông qua bằng
chứng về chủ quyền lịch sử.
Những bước đi này, có lẽ sẽ đạt đến
sau một vài tháng đàm phán quyết liệt và kín đáo, sẽ giúp kiến tạo nền móng cho
một giải pháp hòa bình cho chuỗi các sự kiện mà nay đã hiện rõ là một cuộc
khủng hoảng. Nó cũng giúp cho Hoa Kỳ và đồng minh có được một lý do thích đáng
để tích cực hỗ trợ, và thậm chí là can thiệp quân sự – nếu tình hình thực sự
leo thang đến mức đó.
Hành trang lịch sử
Trung Quốc, một khi có ban lãnh đạo
mới cho vài năm tới đây, có thể sẽ tìm cách thoái lui khỏi thế đối đầu hiện
nay. Các phát ngôn viên của Trung Quốc đôi lần đã nhắc tới việc nên giải quyết
các tranh chấp dựa trên luật pháp quốc tế, và trong khi chưa giải quyết xong
vấn đề tranh chấp yêu sách, các thỏa thuận về khai thác chung các nguồn tài
nguyên của Biển Đông sẽ góp phần xoa dịu căng thẳng.
Tuy nhiên, sẽ không dễ dàng để Trung
Quốc từ bỏ các tuyên bố về chủ quyền lịch sử của mình. Việc từ bỏ đó là điều
không thể, trừ phi Việt Nam cũng làm vậy – nghĩa là, trừ khi Việt Nam cũng đồng
ý phân định chủ quyền lãnh hải chỉ dựa trên Công ước về Luật Biển và các nguyên
tắc liên quan khác theo công pháp quốc tế.
Giống như Trung Quốc, Việt Nam đầu tư
rất nhiều nỗ lực cho việc đấu tranh dựa trên chứng cứ lịch sử. Trên thực tế,
nhiều học giả độc lập cho rằng nếu dựa trên các chứng cứ lịch sử thì tuyên bố
chủ quyền của Việt Nam đối với quần đảo tranh chấp có sức nặng hơn. Sẽ không dễ
dàng đối với Việt Nam khi phải gác lại chuyện lịch sử, bởi dù sao, Việt Nam
cũng là một quốc gia đã gây dựng bản sắc của mình một phần từ việc liên tiếp
đánh bại các cuộc xâm lăng của Trung Quốc từ năm 938. Và vì vậy, trừ khi hai
cựu thù truyền kiếp bất cân xứng này có thể vượt lên trên bóng ma của lịch sử,
thì có rất ít cơ hội để đi đến một cái kết êm đẹp cho cuộc khủng hoảng tại Biển
Đông hiện nay.
Một số ý kiến cho rằng phủ nhận các
tuyên bố về chủ quyền lịch sử của Trung Quốc và đề xuất giải pháp cùng đàm phán
dựa trên các cơ sở pháp lý phù hợp sẽ chỉ khiến cho siêu cường đang trỗi dậy
này nổi giận. Tuy nhiên, khó có thể hình dung việc nhượng bộ trước những tham
vọng của Trung Quốc lại có thể đem lại một kết quả tốt đẹp hơn.
Vẫn còn một kịch bản có nhiều triển
vọng. Đó là, nhận thấy rằng họ không còn nhiều thời gian, bốn nước ASEAN tham
gia tranh chấp sẽ tự dàn xếp chủ quyền lãnh hải của họ dựa trên các cơ sở pháp
lý liên quan. Được Indonesia và Singapore – nếu không phải là cả khối ASEAN –
hậu thuẫn, họ sẽ có thể tuyên bố sẵn sàng bước vào đàm phán với Trung Quốc với
cùng một tiếng nói chung. Và thay vì phủ nhận các thành quả đàm phán đã đạt
được của các nước hay một mực chỉ đồng ý đàm phán song phương, Trung Quốc chấp
nhận bước vào tiến trình đàm phán. Theo kịch bản này, một thỏa thuận sẽ sớm đạt
được, trong đó thừa nhận chủ quyền của Trung Quốc đối với một phần lớn quần đảo
Hoàng Sa, và một vài đảo lẻ tẻ ở Trường Sa.
Các bên sau đó sẽ quay sang thảo luận
đến các vấn đề liên quan, ví dụ như một Bộ Quy tắc Ứng xử. Tài liệu này sẽ khác
xa so với Bộ Quy tắc Ứng xử mờ nhạt mà ASEAN đã từng vạch ra trước đây. Nó sẽ
là một tài liệu có sức nặng, khẳng định các phương án dàn xếp chủ quyền kể
trên. Và rồi, việc cùng khai thác các nguồn tài nguyên năng lượng có thể sẽ
giúp quy tụ những nền tảng cho một tương lai ổn định, hợp tác ở khu vực Biển
Đông. Các bên cũng có thể sẽ đồng ý “mở cửa” chào đón các quốc gia quanh vùng
với điều kiên họ ứng xử có trách nhiệm.
Nói cách khác, bất kỳ cơ chế giám
sát, quản lý khu vực Biển Đông nào muốn thành công đều phải đảm bảo quyền tiếp
cận bình đẳng tới các nguồn tài nguyên biển cho các doanh nghiệp của Trung
Quốc. Các nước quanh vùng phải chào đón và tạo điều kiện cho các dự án đầu tư
và hợp tác của Trung Quốc, bao gồm cả việc cấp phép cho các công ty Trung Quốc
khai thác các nguồn tài nguyên hyđrôcácbon. Việc đánh bắt hải sản có thể được
các bên cùng quản lý và thực hiện một cách bền vững, trong khi tổ chức các cuộc
tuần tra chung để bảo đảm rằng các quy định được tuân thủ nghiêm túc. Cuối
cùng, các nước quanh vùng và các cường quốc hàng hải có thể đàm phán các quy
tắc nhằm quản lý các tuyến đường, hệ thống báo hiệu, và quyền lưu thông hàng
hải trong vùng Biển Đông.
Có thể sẽ có ai đó phản đối kịch bản
tươi sáng này với lý lẽ nó có thể làm đổ vỡ các nguyên tắc về tổ chức và thông
lệ về lãnh đạo vốn là hiện thân cho thứ được gọi là “Con Đường ASEAN”. Nhưng
trong trường hợp này, chúng ta cần thừa nhận rằng ASEAN không thể giải quyết
vấn đề dựa trên nguyên tắc đồng thuận. Nhìn vào thực tế đó, trong bối cảnh các
tranh chấp đang ngày một leo thang, chúng ta có thể thấy được rằng, việc một
mực cố gắng duy trì tính trung tâm của ASEAN trong vấn đề Biển Đông chỉ càng
làm giảm uy tín và hiệu quả của tổ chức mười nước này mà thôi.
(*)David Brown là một cựu quan
chức ngoại giao Hoa Kỳ tại Việt Nam. Ông chuyên viết bài về các vấn đề thời sự
ở Việt Nam. Liên hệ e-mail: nworbd@gmail.com.
Nguồn: Asia Times
No comments:
Post a Comment