Vũ Thụy
Hoàng
November 13, 2012
November 13, 2012
Cuộc chiến Việt Nam kết thúc đã hơn 37 năm, nhưng nhiều người Việt
vẫn băn khoăn, thắc mắc tại sao chiến cuộc chấm dứt bất ngờ, mau lẹ và thảm hại
cho miền Nam Việt Nam đến thế. Trong việc góp phần vào việc giải đáp những thắc
mắc đó, Việt Thức đăng bài sau đây trích từ cuốn Sài Gòn Tuyết Trắng
của Vũ Thụy Hoàng, xuất bản năm 2000. Tác giả đã từng ở trong ngành báo chí
trên 45 năm, trong đó có 33 năm với báo The
Washington Post và đã về hưu từ năm 2000.
Hình bìa “Sài Gòn Tuyết Trắng”
Vì Ðâu Nên Nỗi?
Nhiều
người dân Sài Gòn không khỏi sững sờ nhìn thấy đa số binh sĩ trong những toán
quân Việt Cộng chiến thắng tiến vào thành phố là những thiếu niên, mặt mũi non
choẹt, thân hình nhỏ bé, gày ốm, điệu bộ quê mùa, khờ khạo.
“Nhìn
chúng, mình tức muốn ứ máu. Vừa tức! Vừa nhục! Tại sao quân đội mình hùng mạnh,
võ khí tối tân mà lại thua thảm hại trước tụi con nít như vậy?” một cựu thiếu
tá Bộ Tổng Tham Mưu quân lực Việt Nam Cộng Hòa nhớ lại ngày mặc chiếc áo thung
bước ra khỏi sở, khi xe tăng Việt Cộng đã chiếm xong cơ sở đầu não của quân
đội. “Sau này vào trại cải tạo phải nghe những giảng viên ngu dốt của nó nói
còn ngọng…thế mà mình lại thua. Tức thật!”
Nam
Việt Nam không những thất trận, mà còn thua một cách thê thảm và mau lẹ làm
nhiều người ngỡ ngàng. Tại sao miền Nam Việt Nam sụp đổ như thế? Vì đâu nên
nỗi?
Câu
hỏi này vẫn từng ám ảnh một số người, trong đó có nhiều người chạy ra hải
ngoại. Ðã có những câu trả lời hoặc giải thích việc thua trận của miền Nam Việt
Nam dưới nhiều khía cạnh và nhãn quan khác nhau. Vì Mỹ bỏ rơi Việt Nam. Vì Mỹ
không chủ tâm đánh thắng Hà Nội. Vì Mỹ không viện trợ đủ cho Nam Việt Nam. Vì
giới lãnh đạo miền Nam Việt Nam yếu kém, tham nhũng. Vì cấp chỉ huy quân sự bỏ
chạy. Vì lính Việt Nam bỏ ngũ, lo chạy vợ con. Vì cộng sản tuyên truyền giỏi và
xâm nhập lũng đoạn hàng ngũ quốc gia.
Mỗi
trả lời đều có lý và đúng theo một khía cạnh của nó. Chiến tranh Việt Nam rất
phức tạp vì kéo dài quá lâu và qua nhiều chính phủ khác nhau, nên khó nói được
cái nào là nhân, cái nào là quả, lý do nào là chính, lý do nào là phụ. Mỗi cái
đều có dính líu và liên hệ với nhau, như những mắt đan của tấm lưới.
Thiết nghĩ chúng ta
nên nhìn vào một số những sự kiện sau đây:
Chênh lệch lực lượng
Khi
Cộng quân mở cuộc tấn công năm 1975, Nam Việt Nam ở thế bất lợi. Cán cân lực
lượng tác chiến đã nghiêng về phía Cộng quân. Ðiều này thể hiện rõ ngay từ khi
hiệp định Ba Lê thành hình. Trước năm 1973, Cộng quân ở Nam Việt Nam phải đương
đầu với trên một triệu quân của Nam Việt Nam, cộng thêm trên 600.000 quân của
Mỹ và đồng minh, được yểm trợ mạnh mẽ bằng phi pháo. Khi quân đội đồng minh rút
đi hết, để lại một lỗ trống quá lớn quân lực Nam Việt Nam làm sao lấp nổi. Tổng
Thống Thiệu nhận thấy điều đó nên khăng khăng không chấp nhận bản dự thảo hiệp
định, theo đó 148.000 quân Bắc Việt(1)
không rút khỏi Nam Việt Nam. Thiệu, trong bài diễn văn từ chức ngày 21/4/75, đã
nói nếu ký hiệp định hồi đó là “phản quốc, là bán đứng Việt Nam cho Cộng sản.”(2) Việt Nam chỉ miễn cưỡng ký bản hiệp định khi
được Tổng Thống Nixon cam kết mật là Mỹ sẽ “phản ứng mạnh mẽ và nhanh chóng”
nếu Cộng quân gây chiến lại.(3)
Lực lượng Cộng quân Bắc Việt không
những không rút đi, mà còn được tiếp tục tăng cường và bổ sung bằng quân xâm
nhập mới, cùng chiến cụ tối tân hơn, để chuẩn bị cuộc chiến. Cộng quân được
trang bị và hiện đại hóa hơn. Họ tổ chức “những binh chủng cơ động,” tập luyện
“tác chiến hợp đồng binh chủng,” đưa “xe tăng, xe bọc thép, tên lửa, pháo tầm
xa, pháo cao xạ vào tới rừng cao su Nam Bộ.” Cộng quân còn xây dựng cả hệ thống
đường xâm nhập 20.000 cây số, trong đó có đường Ðông Trường Sơn mới hoàn thành,
rộng tám thước, chạy hai chiều trong cả bốn mùa. Lính từ bắc vào nam đi xe cơ
giới, và có 10.000 xe vận tải hỗ trợ cho chiến trường.(4) Cạnh đường Ðông Trường Sơn là 5.000 cây số
ống dẫn dầu chạy từ Ðồng Hới tới Lộc Ninh. Một hệ thống giây điện thoại liên
lạc thẳng với Hà Nội đã được thiết lập.(5)
Riêng năm 1973 Cộng quân xâm nhập thêm 75.000 quân với 400 chiến xa. Một trung
đoàn hỏa tiễn SAM cùng 13 trung đoàn phòng không được đưa thêm vào riêng trong
khoảng thời gian từ đầu năm đến cuối tháng 4/1973.(6)
Khi mở cuộc tân công năm 1975, Cộng quân có 19 sư đoàn, cộng thêm những trung
đoàn pháo binh, thiết giáp, cao xạ và đặc công.(7)
Cộng quân đã dốc toàn lực vào chiến trận, đưa hết lực lượng thiết giáp vào nam,(8) đưa sáu trong số tám sư đoàn trừ bị chiến
lược vào chiến trận.(9) Với lực lượng và
hệ thống tiếp liệu như trên, Cộng quân đã trở thành một đạo quân hiện đại.(10)
Trong
lúc Cộng quân tăng cường mạnh mẽ như thế, lực lượng Nam Việt Nam chỉ nhận được
chiến cụ do Mỹ để lại, và được thay thế theo nguyên tắc “một đổi một” của hiệp
định Ba Lê. Quân viện của Mỹ cho Việt Nam lại dần dần bị cắt giảm, làm khả năng
tác chiến của Nam Việt Nam giảm đi tới 60%, theo lời Thiệu.(11)
Với
cán cân lực lượng mất thăng bằng đó, Văn Tiến Dũng nhận định: “Ta thế ngày càng
chủ động và mạnh lên, địch ngày càng bị động và yếu đi.”(12)
Chủ động chiến trường
Chiếm
ưu thế về quân sự, Cộng quân lại duy trì được thế chủ động vẫn thường nắm giữ
trên chiến trường. Muốn tung ra chiến dịch tấn công, Cộng quân chỉ việc chọn
địa diểm. định ngày giờ, rồi tập trung quân và đồ tiếp liệu để tấn công. Khi
Việt Nam và đồng minh mở cuộc tấn công, Cộng quân thường lẩn trốn nếu thấy mình
yếu thế, và chỉ giao tranh nếu thấy đương đầu được với địch hoặc không thể
tránh né được. Mỹ Việt hành quân xong, Cộng quân quay trở về. Cộng quân còn lợi
điểm là muốn nghỉ ngơi, dưỡng sức chỉ việc kéo quân qua Miên, Lào. Trước hè
1973 họ còn sợ phi cơ Mỹ oanh tạc, sau này họ ngang nhiên đi lại dọc theo đường
mòn Hồ Chí Minh.
Khi
mở những trận đánh lớn, Cộng quân thường phối hợp đánh phá và quấy rối ở các
vùng khác để làm kế nghi binh, đánh lạc hướng địch nhận biết chiến trường chủ
yếu và cầm chân lực lượng địch khỏi tiếp cứu nhau. Sau đó Cộng quân cắt đường,
cô lập mục tiêu, mở cuộc tấn công và chờ đánh quân tiếp viện.
Cũng
vậy, năm 1975 Cộng quân gia tăng đánh phá ở vùng Pleiku, Kontum, quấy rối ở Gia
Nghĩa, gia tăng áp lực ở Quảng Trị, trong lúc chọn Ban Mê Thuột làm mục tiêu
tấn công. Ðể đánh Ban Mê Thuột, Văn Tiến Dũng dùng lực lượng tấn cộng đông gấp
năm lần rưỡi quân trú phòng, sau khi đã cắt các đường giao thông đi tới thành
phố.(13) Tướng Phú và Bộ Tổng Tham Mưu ở
Sài Gòn biết được ý đồ của địch thì đã quá trễ. Và cho dù có đoán trước được
cuộc tấn công của địch, Ban Mê Thuột có thể cầm cự lâu hơn, nhưng số mạng Ban
Mê Thuột có lẽ không thay đổi.(14) Chuẩn
Tướng Phạm Duy Tất, người chỉ huy cuộc rút quân khỏi Pleiku, cũng cho rằng nếu
đoán trúng được ý định của địch, cùng lắm cả sư đoàn 23 từ Pleiku kéo về thì
Ban Mê Thuột cũng chỉ làm được như sư đoàn 18 ở Xuân Lộc mà thôi.(15)
Thế
chủ động của Cộng quân còn được dễ dàng vì Cộng quân chỉ lo tấn công, không
phải lo nhiều về phòng thủ. Cộng quân ở miền nam không có lãnh thổ, căn cứ,
đường xá, cầu cống để bảo vệ, trong lúc Nam Việt Nam phải rải mỏng quân khắp
nơi để phòng thủ các cơ sở hạ tầng đó.
Trong
khi ấy Bắc Việt, nơi phát xuất các nguồn lực chiến tranh của Cộng quân, không
sợ bị xâm chiếm, chỉ bị Mỹ oanh tạc hạn chế trước năm 1973.
Mỹ không trở lại tham chiến
Nắm
được ưu thế về quân sự và giữ được chủ động trên chiến trường, Hà Nội biết rằng
ưu thế đó có thể bị đảo lộn nếu không lực hùng mạnh, ghê gớm của Mỹ can thiệp.
Cộng quân đã biết sức mạnh của không quân Mỹ trong kỳ chiến tranh, và trong
cuộc tấn công năm 1972 khi Cộng quân tung nhiều chiến xa vào trận chiến. 450
chiến xa và 50.000 Cộng quân đã bị Không Quân Mỹ tiêu diệt trong cuộc tấn công
này.(16) Khi bàn thảo mở chiến dịch Tây
Nguyên, đánh Ban Mê Thuột, Hà Nội đã đắn đo, suy nghĩ về khả năng can thiệp của
Mỹ. Khi thấy chiếm được Phước Long rồi mà Mỹ bỏ qua không can thiệp, Lê Duẩn
cho rằng Mỹ một khi rút đi sẽ khó trở lại tham chiến nữa. Do đấy Bộ Chính Trị
Hà Nội mới chấp thuận mở chiến dịch đánh lớn dự trù cho hai năm 1975-76.(17)
Mỹ
không trở lại tham chiến làm Hà Nội nức lòng, trái lại làm Nam Việt Nam nhụt
chí, mất tự tin trong cuộc kháng cự chống trả Cộng quân. Sau khi rút khỏi miền
Trung, Nam Việt Nam càng ngoảnh trông về phía Mỹ, trông đợi những đoàn máy bay
B.52 tới dội bom xuống đoàn quân Bắc Việt khơi khơi tiến trên các trục lộ. Giới
lãnh đạo Việt Nam tin vào lời cam kết của Mỹ sẽ hành động tức thời và mạnh mẽ
để cứu nguy cho Nam Việt Nam. Quân dân lúc thường vẫn nghĩ “Mỹ đời nào bỏ.”
Trông đợi vào Mỹ, nhiều người Việt còn coi Mỹ như vạn năng. Việc gì Mỹ nhúng
tay vào thì thành công. Việc gì Mỹ bỏ thì không còn mấy hy vọng thành tựu. Nay
càng trông càng không thấy B.52, tinh thần quân dân trở nên nao núng. Câu “Mỹ
đời nào bỏ” được thay thế bằng câu “Mỹ bỏ đi là hết.” Tâm trạng này cùng với
những tin đồn đại về việc chia cắt đất đai, đã đẩy Nam Việt Nam mau tới chỗ sụp
đổ.
Chán ghét chiến tranh
Vụ
Mỹ không tham chiến trở lại là hậu quả của tình trạng chán ghét chiến tranh đã
lên cao. Hồi Mỹ mới tham chiến, 70% dân Mỹ tán thành việc gửi quân qua Việt Nam
Nhưng dần dần phong trào phản chiến lan rộng vì số thương vong ngày một cao, số
thanh niên bị gọi nhập ngũ ngày một đông, chiến phí ngày một tăng vọt, thất
vọng trước sự hùng mạnh của một đại cường quốc mà không diệt được địch quân bé
nhỏ của một nước hậu tiến. Ðến năm 1968 sau vụ tấn công Tết Mậu Thân, số người
Mỹ ủng hộ việc tham chiến tụt xuống 45%. Ðến năm 1975 khi Cộng quân khởi đầu
cuộc tấn công, số người Mỹ chống đối việc viện trợ thêm cho Nam Việt Nam lên
tới 78%.
Những
cuộc biểu tình với hàng trăm ngàn người tham dự được tổ chức tại các thành phố
lớn. Từ 1967-71 năm nào cũng có những cuộc biểu tình lớn ở thủ đô Hoa Thịnh
Ðốn. Cuộc biểu tình năm 1969 có từ 250.000 đến nửa triệu người. Họ ngăn chặn
nhân viên vào công sở làm việc. Chính phủ phải huy động 9.000 binh sĩ và 3.000
cảnh sát để phòng bị.(18) Ðến đầu thập
niên 1970 việc chống đối chiến tranh Việt Nam ăn sâu vào nền văn hóa chính trị
Mỹ, ảnh hưởng đến mọi giai tầng xã hội Mỹ.(19)
Việc
chống đối chiến tranh không phải chỉ có trong phe tả, mà ở cả phe hữu. Một số
người hăng hái chống Cộng cũng phản đối vì cho rằng Mỹ chưa thẳng tay đánh mạnh
với Cộng sản như đánh thẳng ra miền Bắc Việt Nam hoặc oanh tạc đê điều Hà Nội
để sớm kết thúc chiến tranh.
Trước
khí thế lên cao của phong trào phản chiến, Nixon khi ra tranh cử năm 1968 cũng
phải ám chỉ sẽ chấm dứt chiến tranh. Kỳ vận động tranh cử năm 1972 Nixon cố làm
hết cách để có “hòa bình trong danh dự” là bằng chứng biểu hiệu ước muốn của
hầu hết người Mỹ muốn rút khỏi Việt Nam.(20)
Cử
tri Mỹ qua lá phiếu đi bầu đã ảnh hưởng mạnh đến chính quyền, đến đường lối của
chính phủ. Tổng Thống Lyndon Johnson quyết định không ra tranh cử năm 1968 cũng
vì vấn đề Việt Nam. Khi tinh thần phản chiến ăn sâu vào quốc hội, ảnh hưởng còn
mạnh hơn nữa.
Khi
Mỹ rút hết quân khỏi Việt Nam do hiệp định Ba Lê, việc chống đối chiến tranh
vẫn không tắt hẳn. Sau hiệp định Ba Lê, hai phía Việt Nam vẫn còn những cuộc
đụng độ, và phi cơ Mỹ đã bí mật oanh tạc các căn cứ Cộng quân ở Miên, Lào.
Trước viễn ảnh chiến tranh có thể tái diễn và nguy cơ Mỹ bị lôi vào chiến cuộc
trở lại, quốc hội Mỹ liền thông qua quyết nghị Quyền Chiến Tranh, buộc tổng
thống phải thông báo cho quốc hội trong vòng 48 giờ việc đưa quân tham chiến ở
nước ngoài, và việc tham chiến đó, nếu không được chấp thuận, phải chấm dứt
trong 60 ngày. Tổng Thống cũng có thể xin gia hạn thêm 30 ngày nữa sau thời hạn
60 ngày với lý do phối trí để rút quân được an toàn. Nixon cho rằng quyết nghị
đó hạn chế quyền của tổng thống, nên phủ quyết. Nhưng quốc hội với đa số lớn đã
bác quyền phủ quyết của Nixon. Ðạo luật Quyền Chiến Tranh có hiệu lực, triển
vọng Mỹ tái chiến ở Việt Nam trở nên khó khăn. Rồi Nixon, người được các giới
Việt Nam cho là có lập trường cứng rắn với Cộng sản, phải từ chức vì vụ
Watergate vào tháng 8/1974.
Vụ
Watergate cũng bắt nguồn từ chiến tranh Việt Nam. Khi phong trào phản chiến lên
cao, Nixon muốn theo dõi và thu thập tin tức về những nhóm phản chiến. Một toán
“thợ ống nước” được thành lập để bịt lại những chỗ xì tin tức cho báo chí như
vụ tiết lộ tài liệu của Ngũ Giác Ðài về Việt Nam. Toán thợ ống nước sau đó đột
nhập vào trụ sở đảng Dân Chủ ỏ tòa nhà Watergate và bị phát giác.
Ngoài
việc Nixon ra đi, quân viện Mỹ cho Việt Nam cũng giảm dần. Năm 1973 Việt Nam
được Mỹ viện trợ 1 tỷ 6, Năm 1974 xuống còn 1 tỷ 1. Tới tài khóa 1975, Văn
Phòng Tùy Viên Quân Sự Mỹ đề nghị 1 tỷ 600 triệu Mỹ kim, nhưng Bộ Quốc Phòng
đưa sang quốc hội có 1 tỷ 400 triệu. Các ủy ban tại quốc hội cắt xuống còn một
tỷ, và sau cùng quốc hội chấp thuận có 700 triệu.(21)
Nhưng với vật giá gia tăng và lạm phát vì giá dầu tăng vọt, số ngân khoản trên
chỉ có mãi lực bằng 20% số ngân khoản được cấp phát của năm trước.(22)
Tại
Việt Nam tinh thần phản chiến không bộc lộ công khai và rộng lớn vì những vụ
biểu tình dù nhỏ cũng bị nhà cầm quyền dập tắt ngay, nhưng tâm trạng chán ghét
chiến tranh và ước vọng hòa bình thể hiện dưới nhiều hình thức thụ động và tế
nhị.
Cuộc
bầu cử tổng thống năm 1967 cho thấy một phần ước vọng hòa bình của người dân.
Luật sư Trương Ðình Dzu, một ứng cử viên ít được biết đến trong chính trường,
đã bất ngờ về hạng nhì trong 11 liên danh tranh cử, vượt hẳn trên một số chính
khách có tên tuổi khác, và chỉ đứng sau liên danh Thiệu-Kỳ. Dưới chiêu bài hòa
bình, Dzu chủ trương ngưng bắn, đình chỉ oanh tạc miền Bắc Việt Nam và thương
thuyết với Mặt Trận Giải Phóng Miền Nam. Trong một cuộc bầu cử bị chính quyền
chi phối nhiều, và việc cổ võ hòa bình bị coi là thân Cộng, Dzu đứng hạng nhì
làm nhiều người ngạc nhiên và cho thấy nhiều người Việt mong mỏi chiến tranh
chấm dứt. Dzu đã thắng phiếu nhiều ở miền quê, nơi người dân phải chịu đựng
những tai họa chiến tranh nhiều nhất.
Nhạc
Trịnh Công Sơn, bị coi là phản chiến, đã thịnh hành khắp các thôn xóm qua tiếng
hát đượm buồn, gợi cảm của Khánh Ly. Những lời ca diễn tả tang tóc của chiến
tranh đã phù hợp với tâm trạng của nhiều người.
Ðối
với nhiều thanh niên và binh sĩ, tình trạng mệt mỏi, chán ghét chiến tranh được
ẩn núp dưới những hình thức thích ứng. Công chức, tư chức thường tìm kế để khỏi
động viên, để được hoãn dịch. Thanh niên tìm cách tránh nhập ngũ. Một số bị gọi
vào lính, rồi sau đào ngũ để lo cho gia đình. Số đào ngũ mỗi tháng từ 15.000
đến 20.000,(23) tức là mỗi năm mất đi
khoảng 200.000 quân. Rồi còn nạn vắng mặt lâu ngày không có phép, chạy chọt để
làm lính ma, lính kiểng, có chỗ ngồi ở hậu cứ.
Dân
quê ở đồng ruộng thường phải đi hàng hai: ngày theo Quốc gia, tối theo Cộng
sản, để được an thân.
Mỹ Việt không hiểu nhau
Mỹ,
Việt là đồng minh với nhau trong gần suốt cuộc chiến, nhưng trong nhiều trường
hợp không hiểu được ý của nhau. Không hiểu nhau, thì hành động không đúng ý
mong muốn của bên kia.
Mỹ
can dự vào Việt Nam, đài thọ chiến phí và vũ khí từ đầu thập niên 1950 vì Mỹ
muốn theo chiến lược “be bờ” toàn cầu để ngăn chặn làn sóng đỏ khỏi tràn xuống
vùng Ðông Nam Á. Người Việt thấy Mỹ viện trợ, rồi sau tham chiến ở Việt Nam,
thì coi đó là trách nhiệm của Mỹ, công việc Mỹ phải làm, chứ không nương theo
sự cộng tác đó để vươn lên chỗ tự lực, tự cường.
Nhiều
người Việt thấy Mỹ đổ quân ào ạt vào Việt Nam khoảng giữa thập niên 1960 và bỏ
tiền xây dựng nhiều căn cứ và cơ sở ở Việt Nam như Cam Ranh, Ðà Nẵng, Long Bình
thì cho rằng Mỹ không bao giờ bỏ Việt Nam. Các cơ sở đó to thật đối với Việt
Nam, nhưng có thấm gì so với những cơ sở khác tại Mỹ.
Mỹ
đưa ra chương trình Việt Nam hóa chiến tranh là để sửa soạn rút chân ra khỏi
bãi lầy. Việt Nam ban đầu không hiểu được ý định của Mỹ, vẫn nghĩ rằng Mỹ có
rút sẽ để lại “một lực lượng trú phòng” tại Việt Nam. Thiệu và Nixon gặp nhau ở
đảo Midway vào tháng 6, 1969, rồi loan báo bắt đầu rút quân khỏi Việt Nam. Các
chiến lược gia Việt Nam sau đấy vẫn muốn Mỹ duy trì khoảng 200.000 quân tác
chiến và yểm trợ tại những căn cứ Ðà Nẵng, Cam Ranh và Vũng Tàu, khi chương
trình Việt Nam hóa chiến tranh được hoàn tất vào cuối năm 1972.(24) Như Mỹ từng để quân ở Ðại Hàn, ở Âu châu,
Việt Nam hy vọng lực lượng trú phòng đó sẽ là một bảo đảm cho Nam Việt Nam nếu
Bắc Việt xâm lăng.
Ðể
thử lửa chương trình Việt Nam hóa, quân lực Việt Nam mở cuộc hành quân qua
Kampuchia năm 1970 và Hạ Lào năm 1971. Cả hai cuộc hành quân đều không đạt kết
quả mong muốn. Cuộc hành quân Lam Sơn 719 đánh vào Tchepone ở Lào suýt thành
thảm bại nếu không có không quân Mỹ cứu kịp.(25)
Thế mà cả Thiệu lẫn Nixon đều cho là thành công. Mỹ khen có tính cách xã giao,
khuyến khích và để có cớ rút đi. Mỹ, khi li dị hoặc sa thải nhân viên, vẫn công
khai có lời lẽ ca ngợi, tâng bốc. Việt Nam được Mỹ khen, không nhìn thấy nhược
điểm của mình, không nhận thức được thực trạng mối liên lạc giữa mình với Mỹ.
Khi
hiệp định Ba Lê sắp ra đời, thấy quân Mỹ phải rút đi mà Cộng quân Bắc Việt còn
nằm lại ở miền nam sẽ là mối nguy lớn, Nam Việt Nam đòi Mỹ cam kết sẽ hành động
mạnh nếu Cộng quân gây chiến lại. Hiệp định Ba Lê được ký kết. Mỹ hài lòng vì
đạt được “hòa bình trong vinh dự” như lời Nixon. Thiệu, dù biết không ký cũng
không được, cũng an tâm vì có lời cam kết.
Lời
cam kết không được thi hành vì người cam kết không còn tại chức. Dù còn ở lại,
Nixon cũng không dễ gì thực hiện lời cam kết khi quốc hội và dân chúng Mỹ vì
quá chán ghét chiến tranh đã hạn chế quyền tổng thống đưa quân đi tham chiến ở
nước ngoài. Tổng Thống Gerald Ford, người kế vị Nixon, khi nghe Alexander Haig
yêu cầu can thiệp để cứu Nam Việt Nam đã nói dân Mỹ “không còn lòng dạ nào tiếp
chiến nữa.”(26)
Nam
Việt Nam có thể phải bám vào lời cam kết đó vì không còn gì khác để níu kéo Mỹ.
Nhưng việc trông cậy vào lời cam kết còn cho thấy Nam Việt Nam không am hiểu tình
hình chính trị Mỹ. Tại Nam Việt Nam tổng thống dễ dàng chi phối quốc hội. Tại
Mỹ quốc hội thường gây khó khăn cho tổng thống. Với những cuộc biểu tình khổng
lồ chống đối chiến tranh, với một quốc hội không muốn Mỹ trở lại tham chiến,
tổng thống Mỹ có dám vì Việt Nam đi ngược lại?
Vấn
đề tái can thiệp đã được đề cập đến nhiều lần và nhiều viên chức Mỹ đã cho thấy
quân Mỹ khó có thể trở lại Việt Nam. Ngay sau khi hội kiến với Nixon ở San
Clemente vào tháng 4/1973 để bàn về vấn đề Việt Nam sau hiệp định Ba Lê, Tổng
Thống Thiệu đã được Nixon xác nhận lời cam kết sẽ can thiệp nếu Bắc Việt xâm
lăng. Thiệu cũng tỏ ý tin tưởng là không lực Mỹ sẽ oanh tạc Việt Cộng ở
Kampuchia, thì đại sứ Mỹ Ellsworrth Bunker nói liền triển vọng Mỹ tái chiến ở
Việt Nam “rất xa vời.”(27)
Việt
Nam như một cô gái đã trao cả số phận mình trong tay một công tử hào hoa và
nghĩ cuộc tình bền chặt mãi mãi. Khi chàng trai bay nhảy trở về nguyên quán,
nàng vẫn nghĩ chàng sẽ trở lại và cứ đợi chờ.
Người
dân Mỹ quen với những thể thức dân chủ như bầu cử tự do, tự do ngôn luận, tự do
báo chí, trong lúc nhà cầm quyền Việt Nam, vì phải đương đầu với cộng sản trong
những công tác địch vận, phá hoại và khuynh đảo, nên nhìn những định chế đó như
cản trở và nguy hại cho quyền hạn và địa vị của mình. Người dân Mỹ vì vậy nhìn
những chế độ ở Nam Việt Nam là độc tài, thiếu dân chủ.
Nhiều
hình ảnh trên truyền hình và các phương tiện truyền thông cho thấy những khía
cạnh tham nhũng, thối nát, độc tài, vi phạm nhân quyền ở Nam Việt Nam, mà không
cho thấy được những điều tương tự trong chế độ Bắc Việt.
Nhiều
người Mỹ đã không nhạy bén mau lẹ để nhận biết những mánh lới che đậy của Việt
Cộng. Phải qua mấy năm họ mới biết Mặt Trận Giải Phóng Miền Nam là con đẻ của
Hà Nội và do Hà Nội chỉ huy, và cuộc chiến tại miền Nam Việt Nam do Hà Nội chủ
trương.
Sách lược của Mỹ cũng không thuần nhất, thiếu dứt khoát và không rõ rệt. Mỹ sang giúp Việt
Nam sau năm 1954 chỉ cốt giúp phòng vệ trong trường hợp Bắc Việt xâm lăng miền
Nam Việt Nam. Khi Bắc Việt không xua quân qua sông Bến Hải mà tiến hành cuộc
chiến phá hoại nhằm lật đổ chế độ ở Nam Việt Nam thì Mỹ lo giúp Nam Việt Nam
chống trả cuộc chiến tranh du kích. Khi Bắc Việt đẩy mạnh chiến tranh du kích
và phối hợp với trận địa chiến, Mỹ cho Bắc Việt nếm đòn chiến tranh bằng cách
dội bom dần dần lên phía bắc theo kiểu leo thang, lúc oanh tạc, lúc đình chỉ.
Cuộc oanh tạc nhằm ngăn chặn nguồn xâm nhập người và chiến cụ từ bắc vào nam,
nhằm đánh bại ý đồ xâm chiếm miền Nam Việt Nam, chứ không nhằm đánh bại Bắc
Việt. Khi kết quả không đạt như ý muốn, chiến tranh vẫn tiếp diễn, Mỹ thương
thuyết để có “hòa bình trong danh dự” mà rút đi. Rút ra rồi, Mỹ không muốn trở
lại bãi lầy vừa thoát.
Giới lảnh đạo Việt Nam tất nhiên có trách
nhiệm trong việc Nam Việt Nam sụp đổ. Các nhà lãnh đạo Việt Nam, chính trị cũng
như quân sự, vì quá lệ thuộc vào Mỹ, quá trông đợi vào Mỹ, nên có nhiều bất
động, ít sáng kiến trong việc hoạch định chính sách, không thích ứng mau lẹ
trước những thay đổi và biến chuyển của tình hình, ít dự phóng cho tương lai và
thiếu những kế hoạch dự phòng trong trường hợp khẩn cấp.
Mỹ
bắt đầu rút chân khỏi Việt Nam từ năm 1969 mà giới lảnh đạo Việt Nam không cải
tổ quân đội cho thích hợp với vai trò mới trên chiến trường, ngoài việc tiếp
nhận vũ khí và chiến cụ của Mỹ. Họ vẫn nghĩ Mỹ không rút đi hết. Năm 1969 giới
lãnh đạo Việt Nam nghĩ Mỹ để lại 200.000 quân trú phòng. Ðến năm 1971 khi quân
Mỹ ở Việt Nam còn 200.000, Tổng Thống Thiệu còn nghĩ Mỹ để lại Việt Nam ít là
50.000 quân sau năm 1973. Thiệu cũng nói Việt Nam cần không lực Mỹ yểm trợ
trong nhiều năm nữa.(28) Ðến khi Mỹ rút rồi thì vẫn trông đợi vào
“phản ứng tức thời và mạnh mẽ” của Mỹ trong việc đương đầu với Cộng sản.
Thái
độ quá trông đợi này phải chăng là hậu quả của quá khứ phải dựa nhiều vào người
ngoài, trước là Pháp, sau là Mỹ. Xuất thân từ quân đội và chế ngự sân khấu
chính trị Việt Nam từ sau Tổng Thống Diệm, các tướng lãnh Việt Nam đã ở trong
những lực lượng từng đóng giữ vai trò bổ túc trong gần suốt cuộc chiến. Quân
đội Việt Nam hình thành lúc đầu là để bổ sung cho lực lượng viễn chinh Pháp
trong cuộc chiến Ðông Dương lần thứ nhất. Lớn mạnh lên và được Mỹ huấn luyện
sau năm 1954, quân đội Việt Nam lại cũng đóng vai phụ thuộc trên chiến trường
từ năm 1965 cho tới ngày Mỹ rút.
Về
mặt chính trị, Thiệu cũng như nhiều chính trị gia và tướng lãnh khác đều biết
sự tồn tại của mình tùy thuộc nhiều vào Mỹ. Vụ Thiệu-Kỳ đứng chung nhau trong
kỳ bầu cử năm 1967 cũng có bàn tay Mỹ (xem chương 5, Sài Gòn Tuyết Trắng)
Trong vụ bầu cử tổng thống năm 1971 Mỹ cũng cố sắp xếp để trước là Dương Văn
Minh, sau là Kỳ tham gia bầu cử để khỏi có độc diễn. (xem chương 8, Sài Gòn
Tuyết Trắng)
Ngoài
việc củng cố địa vị của Thiệu, Mỹ đã cài người trong các cơ cấu chính trị, quân
sự và hành chánh của Việt Nam, cùng theo dõi các hoạt động của chính phủ Việt
Nam. Mỹ đã “mua chuộc, hối lộ và bán” nhiều nhân vật trong guồng máy chính
quyền Việt Nam. Phủ Tổng Thống và Phủ Thủ Tướng đều bị Mỹ đặt máy ghi âm để
nghe lén các cuộc thảo luận và chuyện trò. Nghiệp đoàn và các đảng phái đối lập
cũng bị Mỹ mua chuộc, chi phối. (29)
Tại
các phủ bộ khác, những chương trình, kế hoạch dễ được thực hiện nếu được Mỹ tán
thành yểm trợ về ngân sách.
Trong
hoàn cảnh đó, các nhà lãnh đạo Việt Nam không đủ lực để có đường lối hành động
độc lập, không dám làm gì mất lòng Mỹ, hoặc đi ngược lại đường lối Mỹ đã vạch
ra.
Về
mặt quân sự, quân đội lệ thuộc gần như hoàn toàn vào Mỹ, từ võ khí, quân trang,
quân dụng, cho tới cả phi pháo yểm trợ lúc có cuộc hành quân lớn. Cố vấn Mỹ
trong nhiều trường hợp là người thực sự điều khiển trận đánh, vì giữ vai trò
quyết định trong việc làm kế hoạch hành quân và xin phi pháo yểm trợ.
Theo
Chuẩn Tướng Lý Tòng Bá, tư lệnh sư đoàn 25 Bộ Binh, tâm trạng của các chỉ huy
trưởng không phải là tâm trạng chiến đấu. Khi trận đánh trở nên gay go, họ
không muốn chiến đấu nữa. Họ muốn dựa vào Mỹ. Khi không có Mỹ giúp, họ bỏ chạy.
Ðó là bịnh mà quân đội Việt Nam mắc phải.(30)
Vì
quá trông đợi vào Mỹ, giới lãnh đạo Việt Nam không có cả kế hoạch dự phòng
trong trường hợp khẩn cấp. Vụ rút quân khỏi Pleiku không được trù liệu từ
trước, không có hoạch định với chi tiết rõ rệt, mà chỉ được quyết định và thi
hành trong hai ngày. Rút quân bình thường đã là khó. Rút quân trong trường hợp
vội vã, hấp tấp với lực lượng của cả một quân đoàn, cộng thêm với thân nhân và
gia đình đông đảo của binh sĩ, trong lúc địch lại có lực lượng hùng hậu bố trí
sẵn ở gần, làm sao thoát hỏi thảm họa?
“Có
nghĩ rồi mà không dám nói ra,” như lời Ðại Tướng Cao Văn Viên nói với Thiệu,
“vì sợ bị coi là đi ngược lại chính sách của tổng thống, là chủ bại.” Câu nói
của Viên hé lộ người lãnh đạo không cởi mở để dễ dàng đón nhận những ý kiến
trái ngược với mình, và do đấy cộng sự viên không dám trình bày ý kiến mà giữ
thái độ ù lì, bất động. Thiệu tập trung quyền hành trong tay, liên lạc thẳng
với các tướng quân đoàn. Bộ Tổng Tham Mưu không có điều hành chiến trường, mà
chỉ là “hộp thư” chuyển lệnh của tổng thống.(31)
Ðảo
chánh cũng là mối quan tâm khiến các nhà lãnh đạo phải lo đề phòng, nên khó dồn
hết tâm lực vào việc nước. Những cuộc chính biến và biểu tình từ sau vụ đảo
chánh Ngô Ðinh Diệm hẳn đã làm người cầm quyền lo củng cố địa vị và phòng ngừa
biến động.
Rã ngũ để lo cho thân nhân là
một yếu tố nữa làm Nam Việt Nam mau sụp đổ. Trước kia trong những cuộc tấn công
hay chiến đấu phòng vệ, người lính Nam Việt Nam ít phải lo cho thân nhân nên
chiến đấu với nhiều quả cảm. Nhưng vào năm 1975 khi phải rút chạy, họ không
muốn bỏ rơi vợ con, hoặc để vợ con bị Việt Cộng sát hại, nên lo tìm kiếm vợ con
để mang theo. Cảnh quân dân lẫn lộn rút khỏi Pleiku, cảnh thành phố Ðà Nẵng
đông nghẹt dân và lính từ những vùng khác kéo về, đã làm mất khả năng tác chiến
của đơn vị đi cùng. Tình trạng đó sau lan sang các vùng khác.
Sự
suy sụp tinh thần trong một số trường hợp đã biến đổi người lính ưu tú trở
thành tàn bạo. Trong lúc hoảng sợ, chạy Việt Cộng, có binh sĩ thiết giáp cán đè
lên chiến hữu,(32) có anh lính Thủy Quân
Lục Chiến bắn sĩ quan Bộ Binh theo kiểu hành quyết để giữ chỗ trên tàu,(33) có binh sĩ thám báo đạp đàn bà trẻ con để leo
lên máy bay ra khỏi Ðà Nẵng.(34)
Quân dân không nhiệt tình lắm với cuộc chiến là một yếu tố. Không bị kiềm tỏa và kiểm soát chặt chẽ
như ở những vùng Cộng sản, nhiều người dân miền nam coi cuộc chiến đấu chống
Cộng là công việc của chính quyền. Chính quyền là guồng máy công chức và quân
đội. Nhưng đa số công chức và binh sĩ không gắn bó với chế độ, không coi mình
là người của chế độ, mà chỉ muốn là kẻ bàng quan, làm xong công việc mình phải
làm để cấp trên khỏi xài xể, khiển trách hoặc thuyên chuyển. “Tà tà” là danh từ
phổ thông trong giới công bộc nhà nước và trong hàng ngũ quân nhân. “Ăn giải
gì?” là câu nhiều người bảo nhau để lơ là với công việc.
Tìm
cách trốn tránh công việc và tìm chỗ nhàn hạ bằng nhiều mưu kế khác nhau đã
được nhà văn Lê Văn Phúc diễn tả trong cuốn Tôi Làm Tôi Mất Nước.
Quân
dân xa vời và cách biệt với chính quyền vì cho rằng mình phải khổ cực để phục
vụ cho một giai cấp được nhiều ưu đãi. Thanh niên bị nhập ngũ không vui lòng
khi thấy những con nhà lãnh đạo, con các tướng không hề khoác áo nhà binh, nói
gì áo trận. Không thấy tin tức nào nói con các tướng đi trận, trong khi đọc
sách báo thấy Trung Úy Bernard De Lattre de Tassigny của Pháp tử trận ở Ninh
Bình, trong lúc bố làm tổng tư lệnh quân đội viễn chinh tại Ðông Dương. Bảo Ðại
muốn lấy lòng tướng De Lattre đã đề nghị lấy Bernard về làm võ phòng, nhưng De
Lattre không chịu. Trung Úy hải quân John McCain đi oanh kích Bắc Việt và bị
bắn rơi, bị tù sáu năm, trong lúc bố làm đô đốc, rồi làm tư lệnh các lực lượng
Mỹ tại Thái Bình Dương chỉ huy những cuộc oanh kích Bắc Việt. Ðại úy Charles
Robbs vẫn lên đường sang Việt Nam làm đại đội trưởng Thủy Quân Lục Chiến kỳ Tết
Mậu Thân, trong lúc vợ mới cưới được mấy tháng đang mang bầu mà bố vợ là Tổng
Thống Lyndon Johnson quyền thế nhất thế giới.
Việc
tưởng thưởng trong quân đội cũng có nhiều hoen ố. Có những quân nhân ngồi văn
phòng hay hậu cứ mà lên lon nhanh, đoạt huy chương anh dũng bội tinh dành cho
chiến binh ngoài mặt trận, trong khi người chiến sĩ vào sinh ra tử, lập nhiều
chiến tích lại bị cướp công. Có binh sĩ Thủy Quân Lục Chiến ngồi “quanh năm
suốt tháng ở hậu cứ…chưa hề nghe tiếng súng bắn ngược” lại được chọn làm chiến
sĩ xuất sắc đi dự đại hội ở Sài Gòn.(35)
Người
bị động viên thì bị giữ lâu trong quân đội, còn người được hoãn dịch tiếp tục ở
nhà.
Bị
giữ mãi trong đời lính, nhiều quân nhân không còn hăng hái. Một số bỏ đội ngũ,
mỗi tháng cả 20.000 người. Hầu hết những người này đào ngũ không phải vì theo
Việt Cộng, mà chỉ là để lo cho gia đình.
Tham
nhũng và hối mại quyền thế cũng làm dân chúng xa cách chính quyền, dù tệ nạn đã
trở thành một tập tục truyền thống của Việt Nam. Với quan niệm “một người làm
quan cả họ được nhờ,” những người lên cầm quyền khó giữ bàn tay trong sạch.
Cộng sản có sách lược rõ ràng và chỉ có mục tiêu theo đuổi từ đầu
tới cuối.
Trong cuộc chiến dài 30 năm, Cộng sản nắm giữ chiêu bài chống ngoại xâm, giành
độc lập, thống nhất lãnh thổ để vận động quần chúng. Trước kia Việt Minh hô hào
dân chúng chống Pháp để giành độc lập. Sau này Cộng sản cổ võ nhân dân chống Mỹ
để giải phóng miền nam với khẩu hiệu “Ðánh cho Mỹ cút Ngụy nhào.”
Ðể
đạt mục tiêu, Cộng sản mở cuộc chiến toàn diện, dốc toàn lực vào chiến tranh,
huy động mọi nhân lực và vật lực cho chiến trường, mở trận tuyến trên các lãnh
vực quân sự, chính trị, kinh tế, ngoại giao, tuyên truyền, địch vận. Thể chế độc tài, kiểm soát chặt
chẽ, thông tin bưng bít, tuyên truyền xuyên tạc đã giúp Cộng sản đẩy mạnh dân
chúng tham gia cuộc chiến.
Ở
thế yếu lúc ban đầu, Cộng sản chủ trương đánh đến cùng, không có thời hạn, nêu
cao khẩu hiệu “Trường kỳ kháng chiến nhất định thắng lợi.” Bị bom đạn tàn phá,
bị thất thế, Cộng sản vẫn bền bỉ chịu đựng.
Tại
các nước Pháp, Mỹ, chiến tranh kéo dài làm họ suy nhụt ý chí chiến đấu, tạo ra
những bất mãn và chống đối chiến tranh. Khi gặp sự chống đối lên cao của quần
chúng, chính phủ những nước đó không thể không theo ý nguyện của người dân.
Chiến tranh Ðông Dương lần thứ nhất vào lúc cuối đã làm nhiều chính phủ Pháp bị
lật đổ. Tại Mỹ các tổng thống can dự vào chiến cuộc Việt Nam lần lượt ra đi vì
mãn nhiệm kỳ. Chính phủ mới lên, đường lối và chính sách cũng đổi mới theo. Tại
Nam Việt Nam sau vụ đảo chánh Tổng Thống Ngô Ðình Diệm, có tới chín chính phủ
thay nhau trong khoảng 19 tháng.(36)
Tại
Hà Nội giới lãnh đạo vẫn thuần nhất trong suốt ba chục năm chiến tranh, không
có đảo chánh hay chỉnh lý. Hồ Chí Minh chết, Lê Duẩn lên thay, vẫn tiếp tục
cuộc chiến như trước.
Nhìn
lại những sự kiện trình bày trên, việc Mỹ không tái chiến ở Việt Nam vì dân Mỹ
quá chán ghét chiến tranh là yếu tố trội yếu hơn cả để chiến tranh Việt Nam
chấm dứt. Cả hai phía Nam Việt Nam và Bắc Việt Nam đều chú mục và nghiêm chỉnh
cứu xét khả năng Mỹ trở lại tham chiến để từ đó hoạch định đường lối hành động.
Hà
Nội đắn đo, suy tính vì biết Mỹ tái chiến có thể bẻ gãy chiến dịch tấn công của
Cộng quân. Tin rằng Mỹ rút ra rồi sẽ khó trở lại, Hà Nội tiến hành chiến dịch
Tây Nguyên. Hà Nội dự trù cuộc tổng công kích trong hai năm 1975-76, nhưng chưa
đầy hai tháng đã đạt được thắng lợi.
Sài
Gòn biết thực lực của mình và trông đợi vào không lực Mỹ để đẩy lui cuộc tấn
công của Cộng sản. Sài Gòn nghĩ Mỹ sẽ yển trợ mình một khi Bắc Việt mở cuộc tấn
công lớn, và sẽ tiếp cứu nếu Nam Việt Nam lâm nguy.
Cả
Bắc Việt Nam lẫn Nam Việt Nam đều biết cuộc tấn công của Cộng quân có ít cơ may
thành công nếu Mỹ trở lại. Ðiều khác nhau là Bắc Việt đoán đúng Mỹ không trở
lại, còn Nam Việt Nam lầm tin Mỹ sẽ đến cứu.
Vũ Thụy Hoàng
Chú
thích
1.
Davidson, Philip B., Vietnam at War, trang 737
2. New York Times, ngày 22/4/1975.
3. Nguyễn Tiến Hưng, Hồ Sơ Mật Dinh Ðộc Lập
4. Văn Tiến Dũng, Ðại Thắng Mùa Xuân, trang 51
5. Văn Tiến Dũng, Ðại Thắng Mùa Xuân, trang 19-21
6. Davidson, Philip B., Vietnam at War, trang 738
7. Davidson, Philip B., Vietnam at War, trang 737
8. Kutler, Stanley C., Encyclopedia of the Vietnam War, trang 232
9. Lee, Edward J. & Haynsworth, Toby, White Christmas in April, trang 44
10. Currey, Cecil, Victory At No Cost tr. 293-294
11. New York Times ngày 22/4/1975)
12. Văn Tiến Dũng, Ðại Thắng Mùa Xuân, trang 25
13. Văn Tiến Dũng, Ðại Thắng Mùa Xuân, trang
14. Davidson, Philip B., Vietnam at War, trang 772
15. Nói chuyện với Chuẩn Tướng Phạm Duy Tất ngày 30/10/1999 tại Virginia
16. Kutler, Stanley C., Encyclopedia of the Vietnam war, trang 188
17. Văn Tiến Dũng, Ðại Thắng Mùa Xuân, trang 27-28
18. Washington Post ngày 27/9/1969
19. Kutler, Stanley C., Encyclopedia of the Vietnam war, trang 44
20. Kutler, Stanley C., Encyclopedia of the Vietnam war, trang 44
21. Lee, Edward J. & Haynsworth, Toby, White Christmas in April, trang 43
22. Davidson, Philip B., Vietnam at War, trang 746
23 Davidson, Philip B., Vietnam at War, trang 749
24. Washington Post ngày 27/9/1969
25. Kutler, Stanley C., Encyclopedia of the Vietnam war, trang 85
26. Lee, Edward J. & Haynsworth, Toby, White Christmas in April, trang 26
27. Washington Post ngày 7/4/1973
28. Washington Post ngày 17/9/1971
29. Snepp, Frank, Decent Interval, trang 13-15
30. Larry Engelmann, Tears Before the Rain, trang 242
31. Nguyễn Tiến Hưng, Hồ Sơ Mật Dinh Ðộc Lập, trang 451
32. Cao Xuân Huy, Tháng Ba Gãy Súng, trang 116-119
33. Cao Xuân Huy, Tháng Ba Gãy Súng, trang 121-124
34. Butler, David, Fall of Saigon, trang 161-164
35. Cao Xuân Huy, Tháng Ba Gãy Súng, trang 28
36. Tucker, Spencer C., Vietnam, trang 124
2. New York Times, ngày 22/4/1975.
3. Nguyễn Tiến Hưng, Hồ Sơ Mật Dinh Ðộc Lập
4. Văn Tiến Dũng, Ðại Thắng Mùa Xuân, trang 51
5. Văn Tiến Dũng, Ðại Thắng Mùa Xuân, trang 19-21
6. Davidson, Philip B., Vietnam at War, trang 738
7. Davidson, Philip B., Vietnam at War, trang 737
8. Kutler, Stanley C., Encyclopedia of the Vietnam War, trang 232
9. Lee, Edward J. & Haynsworth, Toby, White Christmas in April, trang 44
10. Currey, Cecil, Victory At No Cost tr. 293-294
11. New York Times ngày 22/4/1975)
12. Văn Tiến Dũng, Ðại Thắng Mùa Xuân, trang 25
13. Văn Tiến Dũng, Ðại Thắng Mùa Xuân, trang
14. Davidson, Philip B., Vietnam at War, trang 772
15. Nói chuyện với Chuẩn Tướng Phạm Duy Tất ngày 30/10/1999 tại Virginia
16. Kutler, Stanley C., Encyclopedia of the Vietnam war, trang 188
17. Văn Tiến Dũng, Ðại Thắng Mùa Xuân, trang 27-28
18. Washington Post ngày 27/9/1969
19. Kutler, Stanley C., Encyclopedia of the Vietnam war, trang 44
20. Kutler, Stanley C., Encyclopedia of the Vietnam war, trang 44
21. Lee, Edward J. & Haynsworth, Toby, White Christmas in April, trang 43
22. Davidson, Philip B., Vietnam at War, trang 746
23 Davidson, Philip B., Vietnam at War, trang 749
24. Washington Post ngày 27/9/1969
25. Kutler, Stanley C., Encyclopedia of the Vietnam war, trang 85
26. Lee, Edward J. & Haynsworth, Toby, White Christmas in April, trang 26
27. Washington Post ngày 7/4/1973
28. Washington Post ngày 17/9/1971
29. Snepp, Frank, Decent Interval, trang 13-15
30. Larry Engelmann, Tears Before the Rain, trang 242
31. Nguyễn Tiến Hưng, Hồ Sơ Mật Dinh Ðộc Lập, trang 451
32. Cao Xuân Huy, Tháng Ba Gãy Súng, trang 116-119
33. Cao Xuân Huy, Tháng Ba Gãy Súng, trang 121-124
34. Butler, David, Fall of Saigon, trang 161-164
35. Cao Xuân Huy, Tháng Ba Gãy Súng, trang 28
36. Tucker, Spencer C., Vietnam, trang 124
No comments:
Post a Comment