Văn hiến chi bang
Câu
văn “Duy ngã Đại Việt chi quốc thực vi văn hiến chi bang” mà học giả
Trần Trọng Kim, trong Việt Nam Sử Lược dịch là: “Như nước Việt ta từ trước
vốn xưng văn hiến đã lâu là một câu văn không một người Việt Nam gọi là có
học nào không một lần có dịp được đọc và ghi nhớ. Câu này nằm ngay trong phần
đầu của bài Bình Ngô Đại Cáo của Nguyễn Trãi, vị đệ nhất công thần triều
Lê hồi đầu thế kỷ XV, thời dân tộc ta mới đánh đuổi quân Minh ra khỏi bời cõi,
giành lại nền độc lập cho nước nhà.
Nguyên văn “Bình Ngô đại cáo”Trích trong Hoàng Việt Văn Tuyển
phát hành năm 1825, bản lưu trữ tại thư viện Quốc gia Việt Nam
Toàn bộ bài cáo kể trên đã được coi như một bản hùng văn hiếm có trong văn học dân tộc, đồng thời cũng là một bản tuyên ngôn độc lập lần thứ hai của người Việt, sau bài Nam Quốc Sơn Hà Nam Đế Cư”của thời nhà Lý, hồi Lý Thường Kiệt phá quân nhà Tống. Riêng hai chữ văn hiến dường như đã được dùng lần thứ nhất trong văn chương và ngôn ngữ Việt Nam và đã trở thành vô cùng phổ biến. Các câu nói quen thuộc như : Nước ta là một nước văn hiến, Dân tộc ta có bốn ngàn năm (hay năm ngàn năm) văn hiến đã trở thành câu nói cửa miệng của bất cứ một người Việt Nam nào hãnh diện về đất nước và dân tộc mình. Người ta dùng chúng một cách tự nhiên và coi đó là một sự thực không có gì phải thắc mắc. Người ngoại quốc khi nghe và đọc những câu này cũng coi đó là một sự bình thường, dẫn xuất từ lòng hãnh diện về quê hương, giòng giống mình. Một sự hãnh diện mà dân tộc nào cũng có.
Thắc mắc
Hãnh
diện, nhưng đôi lúc người ta cũng thắc mắc là căn cứ vào đâu cổ nhân ta và bà
con ta trong hiện tại có thể khẳng định như vậy? Những người thuộc thế hệ lớn
tuổi có căn bản học vấn ở trong nước hay từ trong nước thắc mắc ít; những người
trẻ nhất là những người trẻ sinh ra hay lớn lên ở hải ngoại thắc mắc nhiều hơn.
Họ căn cứ vào kho tàng sách vở hay những di tích từ thời xưa còn để lại để so
sánh với những gì người Việt Nam có với những gì người Tàu và người Đại Hàn có.
Họ căn cứ vào sự phá hoại các công trình xây dựng có tính cách văn hóa và lịch
sử sau những cuộc thay đổi hay binh biến trong lịch sử truyền thống, đặc biệt
trong những năm khói lửa vừa qua của chính người Việt. Họ căn cứ vào cách đối
xử với nhau giữa chính người Việt và người Việt trong chính trị cũng như trong
xã hội. Họ cũng căn cứ vào tình trạng nghèo nàn, băng hoại, thiếu văn hóa trong
cách con người đối xử với nhau ở Việt Nam hiện tại trong khi nhiều người vẫn
giữ tật tự cao tự đại một cách vô lối, coi khinh các dân tộc khác từ Tàu đến
Tây, từ Nhật đến Mỹ, từ Miên đến Lào không chịu nhận rằng mình thua xa các dân
tộc này không về phương diện này thì cũng về phương diện khác để cố gắng sửa
đổi và để học hỏi. Kết
luận của họ liên hệ tới bài này là người Việt đã quá chủ quan và tự đề cao một
cách quá lố. Theo họ hai chữ văn hiến là do chính người Việt tự nhận cho mình
nếu so sánh với thực tế và nếu cứ tiếp tục được sử dụng hai chữ này một cách
thiếu thận trọng, người ta sẽ vô tình tự làm cản bước tiến chung của cả dân tộc.
Câu hỏi được đặt ra là do đâu người ta lại có thể nói dân tộc Việt Nam là một
dân tộc có tới bốn ngàn năm văn hiến như vậy? Phải chăng đó là do chính người
Việt tự gán cho mình hay do người ngoài gọi?
Ai đã dùng hai chữ Văn Hiến để chỉ đất nước và dân tộc ta?
Thắc
mắc phần lớn là của những người trẻ kể trên, mà người viết được nghe thấy rất
nhiều trong các buổi họp mặt hay trong các lớp học, rất đáng để mọi người chú ý
tới và tìm hiểu. Đó cũng chính là mục đích chính của bài này. Ở đây người viết
không phân tích các hiện tượng và các dữ kiện để xác định xem có thật nước Việt
Nam là một nước văn hiến và dân tộc Việt Nam là một dân tộc có tới bốn ngàn năm
(hay năm ngàn năm) văn hiến hay không mà chỉ nhằm tìm hiểu xem từ thuở nào và
ai hay những ai là người lần đầu tiên đã dùng từ ngữ văn hiến này để nhận diện
người Việt và đất nước Việt.
Để
đạt được mục tiêu kể trên, điều chúng ta có thể làm là trở lại với nguyên văn
câu chữ Hán đã dẫn. Nguyên văn câu này là “Duy ngã Đại Việt chi quốc, thực
vi văn hiến chi bang” Chữ thực vi ở đây có nghĩa là thực là,
một ý nghĩa còn mạnh hơn ý nghĩa của hai chữ vốn xưng mà tác giả Việt Nam Sử
Lược đã dùng để dịch chúng vì chúng có một ý nghĩa khẳng định. Giáo Sư Trương Bửu Lâm, nguyên giám đốc
Viện Khảo Cổ Saigon, sau này là giáo sư Đại Học Hawaii, trong bài dịch tiếng
Anh của bài cáo này của ông đã dịch là “is indeed” (Our state
of Dai Viet is indeed a country wherein culture and institutions have
flourished).[1] Câu hỏi được đặt ra là căn cứ vào đâu Nguyễn Trãi
lại có thể khẳng định như vậy? Lý do là vì không lẽ một đại văn hào, một anh
hùng nổi tiếng vào bậc nhất của một dân tộc, một trí thức đã từng dày công học
tập và đã đỗ đại khoa lại có thể hồ đồ, chủ quan mà hãnh diện như vậy sao?
Để
trả lời câu hỏi kể trên, người ta có thể mở các sách cổ của người Việt được
soạn thảo trước đó như Việt Điện U Linh Tập,[2]
Lĩnh Nam Chích Quái,[3] An Nam Chí Lược,[4] Việt Sử Lược[5]…
để xem hai chữ văn hiến có được dùng để chỉ dân tộc ta và đất nước ta hay
không? Câu trả lời có thể nói là không. Nếu vậy thì hai chữ này chỉ xuất hiện
từ thời Nguyễn Trãi hay không lâu trước đó.
Có
hai loại tài liệu người ta có thể dùng để tra cứu được là những sách vở về lịch
sử nước ta cuối thời nhà Trần và những sách do chính Nguyễn Trãi hay những người
đồng thời với ông biên soạn. Những sách do chính Nguyễn Trãi biên soạn đã giúp
chúng ta tìm được câu trả lời. Cuốn được dùng ở đây là Dư Địa Chí.[6] Đây là cuốn thứ sáu trong bộ Ức Trai
Tướng Công Di Tập. Gọi là của Nguyễn Trãi nhưng thực sự đây là một công
trình tập thể do nhiều người đóng góp, trong đó có Nguyễn Thiên Túng, Nguyễn
Thiên Tích, Lý Tử Tấn…sống đồng thời với Nguyễn Trãi và nhiều người sau này
nữa. Tác phẩm này đã được các dịch giả của cả hai miền Nam, Bắc trước kia dịch
sang tiếng Việt.
Trong
Dư Địa Chí, Chương XLVIII, bản dịch của Á Nam Trần Tuấn Khải của miền
Nam, và Chương 48, bản dịch của của Viện Sử Học Hà Nội, nói về việc cấm người
trong nước không được học theo các tiếng nói và phục sức của các nước Ngô,
Chiêm, Lào và Chân Lạp để làm loạn phong tục ở trong nước, trong phần thông
luận Lý Tử Tấn có viết đại khái là từ sau khi quân Nguyên vào chiếm Trung Quốc,
thiên hạ biến theo cách nói năng, ăn mặc của rợ Hồ, chỉ riêng có Đại Việt cùng
với họ Chu ở Kim Lăng, họ Triệu ở Kim Sơn là không thay đổi mà thôi. Tới khi
vua Thái Tổ nhà Minh lên ngôi, Dịch Tế Dân được phái sang thông hiếu với nước
ta, vua Dụ Tông nhà Trần sai Doãn Thuấn Thuần sang sứ nhà Minh đáp lễ. Vua nhà
Minh trong khi ủy lạo sứ thần nước ta đã khen phong tục, y phục của dân ta vẫn
giữ nguyên văn minh Trung Hoa từ thời nhà Chu và nhà Tống, nhân đó ngự ban cho
mấy câu thơ như sau:
An
Nam tế hữu Trần
Phong tục bất Nguyên nhân
Y quan Chu chế độ
Lễ nhạc Tống quần thần
(An Nam có họ Trần
phong tục không theo Nguyên
áo mũ vẫn theo chế độ nhà Chu
lễ nhạc vẫn hệt như vua tôi nhà Tống)[7]
Phong tục bất Nguyên nhân
Y quan Chu chế độ
Lễ nhạc Tống quần thần
(An Nam có họ Trần
phong tục không theo Nguyên
áo mũ vẫn theo chế độ nhà Chu
lễ nhạc vẫn hệt như vua tôi nhà Tống)[7]
Sau đó vua nhà Minh còn tặng bốn chữ Văn
Hiến Chi Bang và thăng địa vị cho sứ thần Đại Việt lên trên sứ thần Triều
Tiên ba cấp. Đồng thời khi sứ thần ta ra về, vua nha Minh lại sai Ngưu Lượng
mang sắc và ấn vàng sang phong thưởng cho vua ta.
Lời
ghi của Lý Tử Tấn kể trên cho ta thấy rõ nguồn gốc của hai chữ văn hiến mà
Nguyễn Trãi đã dùng trong Bình Ngô Đại Cáo và sau này người Việt thường
dùng khi nói tới văn minh, văn hóa, phong tục, tập quán nói riêng và dân tộc
mình nói chung. Nó không phải là tự người Việt đặt ra cho mình để tự tôn xưng
mình mà là do vua nhà Minh tặng. Đồng thời nó cũng cho người ta thấy được phần
nào thành quả của chiến thắng quân Nguyên của dân tộc ta dưới thời nhà Trần
cùng những thay đổi đã xảy ra ở nước Tàu khi nước này đã thất bại không ngăn
chặn được cuộc xâm lăng của người Mông Cổ và bị Mông Cổ đô hộ. Thành quả đó
không phải chỉ là Việt Nam đã không bị quân Mông Cổ đô hộ, không bị Mông Cổ ảnh
hưởng mà còn giữ nguyên được nền văn hoá truyền thống cũ của mình, trong khi
người Tàu đã không làm được chuyện này. Hoàng Đế Nhà Minh khi tặng Đại Việt bốn
chữ Văn Hiến Chi Bang đã mặc nhiên và công khai công nhận giá trị đó của người
Việt trước sứ thần của các nước khác. Ngoài ra khi đọc đoạn văn liên hệ tới sự
kiện này người ta cũng nên lưu tâm tới chính sách văn hoá của chính quyền Đai
Việt buổi đầu thời Lê. Chính sách này đã được thấy rõ ngay trong tiểu đề của
phần này với nguyên văn như sau:
“Người
trong nước không được bắt chưóc ngôn ngữ và y phục của các nước Ngô (nước Tàu, PCD chú
thích), Chiêm, Lào, Xiêm, Chân Lạp để làm loạn phong tục trong nước.”[8]
Theo dương lịch, năm trao đổi sứ thần
kể trên là năm 1368, trùng hợp với những gì được ghi trong Minh sử và trong Đại
Việt Sử Ký Toàn Thư.
Duy về tên các sứ thần là hơi khác và sử Tàu không nói đến các sự kiện kể
trên.Có điều tất cả đã không xảy ra quá lâu trước thời Nguyễn Trãi và Lý Tử
Tấn, đồng thời ngoài bốn chữ Văn Hiến Chi Bang, họ Lý còn nhớ được cả bốn câu
thơ đi kèm và quyết định thăng địa vị cho sứ thần Việt Nam một cách rành rẽ hay
gởi Ngưu Lượng mang sắc rồng và ấn vàng sang phong thưởng cho vua ta… Tất cả
đều ăn khớp với nhau khiến cho người ta có thể tin rằng những điều ông kể là
khả tín. Còn nếu sử Tàu không ghi lại thì có lẽ là vì người Tàu vốn tự kiêu và
trịch thượng nên sau này đã xét lại đã bỏ đi những chi tiết không có gì đáng
hãnh diện cho họ. Hy vọng chú giải này có thể giúp giải toả phần nào thắc mắc
của các bạn trẻ kể trên trong khi chờ đợi những công trình qui mô, chi tiết
hơn.
Phạm Cao Dương, 2012
1.
Trương Bửu Lâm, Patterns of Vietnamese Response to Foreign Intervention,
1858-1900. New Haven: Yale University, Southeast Asian Studies, 1967, tr. 56.
2.
Lý Tế Xuyên, Việt Điện U Linh Tập Toàn Biên, Những Chuyện Thần Linh Cổ Nhất
Của Ta, bản dịch của Ngọc Hồ. Saigon, Sống Mới, 1974. Việt Điện U Linh
Tập, bản dịch của Lê Hữu Mục. Saigon, Khai Trí, 1960.
3.
Trần Thế Pháp, Lĩnh Nam Chích Quái, bản dịch của Lê Hữu Mục. Saigon,
Khai Trí, 1961; Vĩnh Quỳnh, Kiều Phú, Lĩnh Nam Chích Quái, Truyện Cổ Dân
Gian Việt Nam (sưu tập từ thế kỷ XV). Đinh Gia Khánh-Nguyễn Ngọc San phiên
dịch, chú thích và giới thiệu. Hà Nội, Nhà Xuất Bản Văn Hóa, Viện Văn Học,
1960.
4.
Lê Tắc, An Nam Chí Lược, bản dịch của Ủy Ban Phiên Dịch Sử Liệu Việt Nam
Viện Đại Học Huế. Huế, Viện Đại Học Huế, 1961.
5.
Tác giả khuyết danh đời Trần, Thế Kỷ XIV, Việt Sử Lược,bản dịch và chú
giải của Trần Quốc Vượng. Hà Nội, Nhà Xuất Bản Văn Sử Địa, 1960.
6.
Nguyễn Trãi, “Dư Địa Chí” trong Nguyễn Trãi Toàn Tập, bản dịch của Viện
Sử Học. Hà Nội, Nhà Xuất Bản Khoa Học Xã Hội, 1976, tr. 207-246.
7. Lời
khen này phản ảnh quan điểm của người Tàu đối với các lân bang chung quanh nước
họ, một quan điểm nặng tính cách chủng tộc trung tâm và trịch thượng. Tuy nhiên
dù nhìn thế nào đi chăng nữa, người Tàu đương thời vẫn ghi nhận các phong tục
tập quán và các chế độ liên hệ của người Việt khác với phong tục tập quán và
các chế độ liên hệ của người Tàu dưới thời nhà Minh; còn chúng có hoàn toàn
giống với thời nhà Tống hay không lại là một chuyện khác.
8. Nguyễn
Trãi, Dư Địa Chí, đã dẫn, tr. 212.
No comments:
Post a Comment