Trịnh Xích Diễm
Tín Báo (Hồng Công)
Tài liệu tham khảo đặc biệt của THÔNG TẤN XÃ VIỆT NAM
Posted by basamnews on 17/11/2012
Theo tờ “Tín báo” (Hồng Công) ngày 8/11,
Obama đã tái đắc cử tổng thống Mỹ, trong 4 năm tới, quan hệ Trung-Mỹ sẽ gặp
phải những khó khăn gì? Theo dự đoán của Trịnh Xích Diễm – Chủ nhiệm khoa Chính trị Đại học Trung Văn Hồng
Công, sẽ có 3 khó khăn chính sau đây:
1. Vấn đề an ninh và kinh tế thương mại, làm thế nào để
tác động tốt đến nhau?
Kể từ năm thứ 3 của nhiệm kỳ đầu tiên,
Obama đã bất ngờ tuyên bố Mỹ quay trở lại châu Á – Thái Bình Dương, đảm nhiệm
vai trò chính trong việc giữ gìn an ninh khu vực và không chút giấu giếm khi
coi Trung Quốc là nhân tố bất ổn định đối với an ninh khu vực; kết hợp với Nhật
Bản và Hàn Quốc ở khu vực biển Hoa Đông thành lập “Diễn đàn an ninh Đông Bắc
Á”; trong khi ở Biển Đông thì lôi kéo Philíppin, Việt Nam, với lý do duy trì an
ninh cho những nước này.
Ở hai khu vực này, Nhật Bản, Philíppin,
Việt Nam đều đang ra sức lớn tiếng tranh chấp chủ quyền biển đảo với Trung
Quốc, Mỹ tỏ ý muốn bảo vệ an ninh cho những đối tượng này, rõ ràng đã đứng về
phía đối lập với Trung Quốc. Trong tình thế như vậy, e rằng khó tránh khỏi đối
kháng quân sự Trung – Mỹ.
Huống hồ trong vòng chưa đầy hai năm, Obama
đã điều chuyển tới 60% binh lực đóng tại chuỗi đảo thứ nhất và thứ hai bao vây
quanh Trung Quốc, chỉ riêng việc bố trí binh lực như vậy đã làm gia tăng thêm
tình hình căng thẳng ở khu vực.
Tuy Obama cho rằng làm như thế có thể bảo
đảm được an ninh cho khu vực. nhưng tình hình phát triển của khu vực trong thời
gian gần đây đã chứng minh rằng cách nói này rất không đáng tin cậy. Ví như,
Nhật Bản dựa vào đồng minh quân sự bảo đảm an ninh đã đẩy cao lập trường quan
điểm cứng rắn trong tranh chấp chủ quyền đảo Điếu Ngư/Senkaku, vừa đúng với lộ
trình tăng cường bố trí phòng thủ của Mỹ tại khu vực biển Hoa Đông.
Thái độ thay đổi này của Nhật Bản không thể
không liên quan tới Mỹ. Nếu tình hình mất kiểm soát, Trung Quốc và Nhật Bản nổ
ra xung đột quân sự, chắc chắn sẽ là một tai họa đối với nền kinh tế thế giới.
Thử tưởng tượng xem nền kinh tế thứ hai và thứ ba trên thế giới giao tranh với
nhau, kinh tế thế giới có bị tổn thất không?
Có thể Obama cho rằng Mỹ có khả năng thao
túng Nhật Bản trong việc “đánh hay không đánh”; nhưng đến dáng vẻ kiêu căng của
Nhật Bản khi tranh giành đảo mà Obama cũng không thể khống chế nổi, một khi mất
kiểm soát, phía Mỹ làm sao làm chủ tình thế. Điều này khiến người ta nảy sinh
nghi ngờ về việc Obama liệu có ý định “dùng Nhật Bản khống chế Trung Quốc” hay
không?
Tóm lại, Obama đã giương quân bài quân sự
như vậy, lại muốn cùng lúc phát triển kinh tế, khiến an ninh và kinh tế thương
mại có thể tác động qua lại tốt đẹp, rõ ràng là có sự nhầm lẫn trong tính toán.
2. Mỹ có thể làm gương thuyết phục Trung Quốc tuân theo
quy phạm quốc tế?
Sau khi Obama cầm quyền chưa đầy hai năm đã
cho rằng Trung Quốc không tuân thủ quy phạm quốc tế trong lĩnh vực xử lý thương
mại, tài chính, vì thế trong nhiệm kỳ trước, Mỹ đã bảy lần đệ đơn lên Tổ chức
Thương mại Thế giới tố cáo Trung Quốc vi phạm. Điều khiến Trung Quốc cảm thấy
không công bằng là gần đây nhất, lý do Quốc hội Mỹ đưa ra để ngăn cản tập đoàn
Huawei Trung Quốc mua lại công ty phong điện của Mỹ là cực kỳ nhạy cảm: “ngầm
thu thập tình báo”. Những hành động của Mỹ nhằm ngăn cản các công ty Trung Quốc
đầu tư vào thị trường nước này, đặc biệt là thị trường khoa học kỹ thuật, đều
viện lý do an ninh quốc gia để công kích các công ty của Trung Quốc. Đối với
Trung Quốc, Mỹ đã không gương mẫu thì làm sao khiến Trung Quốc tâm phục được?
Ngoài ra, Obama đã mượn Hội nghị Bộ trưởng
kinh tế châu Á – Thái Bình Dương trong năm nay tổ chức tại Hawaii đề xuất “Hiệp
định đối tác kinh tế chiến lược xuyên Thái Bình Dương” (TPP), cố ý loại Trung
Quốc ra ngoài, lôi kéo Xinhgapo, Niu Dilân, cao giọng tuyên truyền rằng tổ chức
này yêu cầu rất cao đối với việc tuân thủ luật thương mại quốc tế, đồng thời cố
ý “bỏ sót” Trung Quốc trong danh sách khách mời. Cách làm như vậy mang đậm mùi
vị tuyên truyền, không hề có thái độ thực sự mang tính xây dựng.
Phản ứng của Trung Quốc như thế nào? Gần
đây, Trung Quốc đã đề xuất việc tổ chức tập đoàn thương mại Đông Á, tên gọi là
“Đối tác kinh doanh đa tầng khu vực” (RCEP), cũng không tính Mỹ ở trong đó. Có
bình luận cho rằng việc làm này là cố tình đối đầu với TPP, vì thế có thể thấy,
một mặt Obama chỉ trích Trung Quốc không tuân thủ quy định, mặt khác bản thân
biết rõ mà vẫn vi phạm quy định. Trung Quốc sẽ không chịu để Mỹ chèn ép, tấn
công như vậy. Gbama muốn thúc đẩy trình tự pháp trị thương mại quốc tế, nhưng
lời nói và hành động không nhất quán thì làm sao có thể thúc đẩy được tinh thần
và hành vi tuân thủ quy định của Trung Quốc được?
3. Có thể thúc đẩy quan hệ đối tác hợp tác Trung-Mỹ?
Trừ phi sau khi tái đắc cử, Obama thay đổi
thái độ không thân thiện đối với Trung Quốc hoặc xóa bỏ thái độ không tin tưởng
lẫn nhau giữa Trung Quốc và Mỹ, nếu không hợp tác Trung-Mỹ sẽ gặp nhiều khó
khăn, quan hệ đối tác cũng rất mờ mịt.
Hai năm đầu khi Obama lên làm Tổng thống
cũng có lần nói rằng Trung Quốc đã trở thành nước lớn thứ hai sau Mỹ, rất nhiều
vấn đề quốc tế cần Trung Quốc hợp tác nếu không sẽ khó giải quyết. Cách nói này
kỳ thực cũng đã được cựu Tổng thống Bush – người nỗ lực chống khủng bố nhắc
tới, hơn nữa thực sự cũng cần Trung Quốc hợp tác mới có thể tiếp tục chống
khủng bố.
Nhưng đến năm cầm quyền thứ ba, thái độ của
Obama đối với Trung Quốc lại ngược với chính sách của Bush đối với Trung Quốc,
tiếp tục triển khai chính sách chuỗi đảo bao vây Trung Quốc, làm vậy thì liệu
có thể hiện được là bạn bè thân thiện đáng tin?
Việc gây dựng lòng tin lẫn nhau giữa Trung
Quốc và Mỹ tới đây cũng thêm phần khó khăn. Nay Obama sẽ cầm quyền thêm 4 năm
nữa, ông không thể nói lời rồi lại nuốt lời, tiến hành thay đổi đáng kể chính
sách đối với Trung Quốc mà tháo bỏ toàn bộ vòng vây xung quanh Trung Quốc. Tình
thế có khả năng xảy ra nhất, ngoài việc gỡ bỏ vòng vây xung quanh Trung Quốc,
là ông chỉ mưu cầu sự thay đổi bên trong của Trung Quốc. Trong khi đó, Trung
Quốc từ lâu cũng không còn tin vào các vấn đề phức tạp của Mỹ. Từ đó có thể
thấy, sẽ là khó khăn rất lớn để Mỹ và Trung Quốc có thể thực sự coi nhau là đối
tác hợp tác.
***
Trung Quốc sẽ là thách thức quan trọng nhất của Chính phủ Obama nhiệm kỳ II
Tạp chí Chính trị Thế giới
TTXVN (Niu Yoóc 13/11)
Ngày 7/11, “Tạp chí Chính trị Thế giới”
của Mỹ đăng bài viết của tác giả Richard Weitz, nhà nghiên cứu cao cấp của Viện
Hudson và biên tập viên cao cấp của tạp chí, trong đó nhấn mạnh, sau gần nửa
năm trời vận động tranh cử quyết liệt, ngày 7/11 đương kim Tổng thống Mỹ Barack
Obama đã đánh bại đối thủ Cộng hòa Mitt Romney. Nhưng ngay sau khi nở nụ cười
chiến thắng, Tổng thống Obama nhận thấy Trung Quốc sẽ là thách thức quan trọng
nhất mà Chính phủ Mỹ phải đối mặt trong chính sách đối ngoại 4 năm tới.
Đảng Dân chủ và đảng Cộng hòa lâu nay vẫn
nhất trí mục tiêu tham vọng có được một Trung Quốc hòa bình ở một khu vực châu
Á thịnh vượng mang các giá trị nhân quyền được Mỹ ủng hộ. Họ cũng thường bác bỏ
ý tưởng theo đuổi một chiến lược ngăn chặn Trung Quốc và thay vào đó tiếp tục
ủng hộ chiến lược can dự toàn diện và cân bằng đã được các Chính quyền Cộng hòa
và Dân chủ theo đuổi từ thời Chiến tranh Lạnh. Mặc dù Trung Quốc thường được Mỹ
và phương Tây coi là đối thủ cạnh tranh ngang hàng nhất, nhưng viễn cảnh về một
cuộc xung đột quân sự Mỹ- Trung Quốc trong thời gian tới vẫn không đáng kể.
Trong lịch sử, các cường quốc đã xác lập vị thế khó có thể nhượng bộ một cường
quốc đang lên. Vì vậy, các quan chức Mỹ rất lo ngại trước những tác động của sự
phát triển ở Trung Quốc đối với cán cân sức mạnh toàn cầu và khu vực cũng như
hiệu quả của các tổ chức được Mỹ hậu thuẫn. Trên một số lĩnh vực, Trung Quốc
tạo ra cho châu Á một số thách thức giống như Đức tạo ra cho châu Âu từ năm
1870-1945. Dân số khổng lồ và nền kinh tế mới năng động khiến Trung Quốc có
khát vọng trở thành bá quyền khu vực. Nếu Trung Quốc xây dựng được sức mạnh
quân sự tiềm tàng, chắc chắn các nước láng giềng của Trung Quốc không thể bảo
vệ lợi ích của họ nếu không có sự giúp đỡ của một cường quốc bên ngoài. Trong
thế kỷ 20, các nhà lãnh đạo chính trị của Trung Quốc dưòng như không hài lòng với
vị thế của Trung Quốc trong trật tự khu vực châu Á-Thái Bình Dưong. Điều này
trở nên phức tạp bởi thực tế Trung Quốc chưa giải quyết các tranh chấp lãnh thổ
với các nước láng giềng Thái Bình Dương của họ. Sức mạnh quân sự tiềm tàng và
chính sách đối ngoại của Trung Quốc cho thấy các nước láng giềng của Trung Quốc
và Oasinhtơn phải xem xét khả năng Trung Quốc trở thành bá quyền khu vực và làm
sao để ngăn chặn tham vọng đó của Bắc Kinh. Các nhà ngoại giao Mỹ và Trung Quốc
đã lên tiếng kêu gọi chính quyền hai nước phát triển một hình thức quan hệ mới
nhằm ngăn chặn một cuộc chiến tranh nữa trong thời kỳ quá độ từ cường quốc đang
lên thành cường quốc được xác lập vị thế. Trong nỗ lực này, các nhà hoạch định
chính sách Mỹ có một số ưu thế so với Trung Quốc. Trước hết, Mỹ có nhiều đồng
minh quốc phòng và các đối tác an ninh, trong khi Trung Quốc chỉ có một số ít.
Thứ hai, Trung Quốc đang cố gắng thâm nhập hệ thống các tổ chức khu vực và toàn
cầu do Mỹ xây dựng trên cơ sở các giá trị của Mỹ. Các nguyên tắc tự do mở của
trật tự này đã giúp Bắc Kinh dễ dàng thâm nhập, nhưng sự giàu có, hiệu quả và
tính phổ biến rộng rãi của hệ thống khiến Trung Quốc không thể thay thế nếu
không có một cuộc chiến tranh lớn.
Một số nhà quan sát cho rằng một Chính phủ
Trung Quốc dân chủ thực sự sẽ ít đe dọa các nước láng giềng hơn chế độ hiện
nay. Họ nhận định nói chung các chế độ dân chủ thường theo đuổi chính sách đối
ngoại ít hung hăng hơn các nước độc tài vì có sự kiểm soát và cân bằng nội bộ,
sự do dự của dân chúng trong việc chi tiêu tiền bạc cho các cuộc xâm lược quân
sự, sự tôn trọng của họ đối với quyền công dân của các nhà nước khác. Những lập
luận này có thể đúng, nhưng những trở ngại kinh tế và chính trị đáng kể đang
ngăn cản Trung Quốc trở thành một nền dân chủ tự do trong vài thập kỷ tới. Đảng
Cộng sản Trung Quốc cầm quyền kiên quyết chống lại các cải cách dân chủ vì
nhiều lý do khác nhau, từ sự bảo toàn lãnh thổ đến mối lo ngại về ổn định của
đất nước. Trong khi đó, giới lãnh đạo kinh doanh Trung Quốc, kể cả khu vực tư
nhân, vẫn không sẵn sàng và không thể thách thức giới lãnh đạo chính trị cũng
như chế độ Bắc Kinh. Những người bảo vệ nền hòa bình dân chủ cũng xác nhận rằng
hòa bình chỉ có được khi cả hai bên đều là các nền dân chủ tự do. Ngay cả khi
Trung Quốc dân chủ hóa, không ai có thể bảo đảm rằng ở các nước còn lại của
châu Á trong năm 2020 sẽ chỉ tồn tại các chế độ dân chủ tự do kiểu phương Tây.
Vì nhiều lý do khác nhau, Đài Loan, Hàn Quốc và thậm chí Nhật Bản đã đoạn tuyệt
với quá khứ độc tài, trong khi Mianma và Bắc Triều Tiên có thể tiếp tục không
có dân chủ. Ngoài ra, mặc dù một số người cho rằng một Trung Quốc hoàn toàn dân
chủ sẽ yêu chuộng hòa bình, nhưng một Trung Quốc đang trong quá trình dân chủ
hóa là một câu chuyện khác. Giới phân tích của các nhà nước chuyển từ độc tài
sang dân chủ cho biết các nhà lãnh đạo của họ có động cơ mạnh mẽ trong việc
theo đuổi các chính sách đối ngoại tích cực để có được sự hỗ trợ chính trị từ
những người dân tộc chủ nghĩa và các thể chế độc quyền như quân đội. Nhiều nhà
lý luận về quan hệ quốc tế khác tin tưởng rằng sự phát triển kinh tế hơn nữa
của Trung Quốc sẽ làm cho một chế độ độc tài có xu hướng ít theo đuổi các chính
sách xét lại. Thậm chí các chính phủ phi dân chủ sẽ nhận ra rằng để tiếp tục
được hưởng các lợi ích của sự phụ thuộc lẫn nhau về kinh tế cũng như đế tránh
các biện pháp trừng phạt, họ phải kiềm chế các tham vọng chính sách đối ngoại.
Nhưng thực tế, kinh tế càng phát triển, Trung Quốc càng lúng túng khi tiến vào
nền kinh tế quốc tế. Các quan chức Trung Quốc càng ít khả năng hành động, họ
càng khó tiếp cận các công nghệ, thương mại và đầu tư nước ngoài.
Mặt khác, do trước đây phương Tây không có
khả năng áp đặt các biện pháp cấm vận tập thể hiệu quả hoặc kéo dài chống Trung
Quốc, nên các nhà hoạch định chính sách Trung Quốc tin rằng họ sẽ chỉ phải chịu
các biện pháp trừng phạt kinh tế một phần và ngắn hạn khi sử dụng vũ lực để
giải quyết các tranh chấp lãnh thổ hoặc thúc đẩy các lợi ích của Trung Quốc ở
Đông Á.
Ngoài ra, khả năng xảy ra một cuộc xung đột
quân sự do các tính toán sai lầm vẫn luôn tồn tại. Một thế hệ các nhà lãnh đạo
mới chuẩn bị ra đời ở Bắc Kinh và sau khi Tổng thống Barack Obama tái cử ngày
7/11, Oasinhtơn sẽ chứng kiến ít nhất một số thay đối vị trí chính sách an ninh
quốc gia và chính sách đối ngoại. Điều này sẽ làm tăng triển vọng của các cam
kết mới của Mỹ ở Biển Đông, bán đảo Triều Tiên và nhiều nơi khác khi cả Mỹ và
Trung Quốc đều cố gắng đánh giá ý đồ và quyết tâm của nhau. Mặc dù các nguyên
nhân chủ yếu dẫn đến căng thẳng Trung-Mỹ như Đài Loan, các hoạt động tuần tra
quân sự của hải quân Mỹ ở vùng biên gần Trung Quốc và phát triển quân sự… bị
đánh giá thấp, nhưng chúng không được hai bên giải quyết. Bên cạnh đó, mặc dù
động cơ bá quyền khu vực của Trung Quốc không gây nên một cuộc đối đầu quân sự
với Mỹ và các nước khác, nhung nó có thể đe dọa trật tự khu vực và gây thiệt
hại nghiêm trọng nền kinh tế của Đông Á. Nếu Mỹ làm ngơ trước những hành động
của Trung Quốc chống các nước đồng minh và các đối tác của Mỹ trong khu vực,
điều đó sẽ làm mất uy tín của Oasinhtơn như một người bảo đảm sự ổn định của
khu vực Đông Á. Các nước khác, đặc biệt là Nhật Bản và Hàn Quốc, có thể tìm
cách thúc đẩy an ninh của họ bằng nhiều cách khác, chẳng hạn mua sắm các loại
vũ khí hạt nhân, từ đó sẽ làm mất ốn định hơn nữa trong khu vực. Vì tất cả
những lý do đó, các nhà hoạch định chính sách của Mỹ phải tiếp tục tìm cách
ngăn chặn Trung Quốc âm mưu sử dụng vũ lực để chiếm đoạt các khu vực lãnh thổ
tranh chấp. Tương tự, Mỹ phải tiếp tục các nỗ lực thúc đẩy dân chủ và cải cách
kinh tế ở Trung Quốc. Nhưng sức mạnh hiện nay của Mỹ trên lĩnh vực này và nhiều
lĩnh vực khác có hạn, Oasinhtơn phải hợp tác với các nước đồng minh khu vực kịp
thời chống lại những hậu quả xấu. Oasinhtơn thường tin tưởng các giá trị của Mỹ
và sức mạnh của người dân Trung Quốc có thể buộc chế độ Bắc Kinh thực hiện các
cải cách tự do. Nhưng Mỹ cũng phải là người bảo đảm chống lại các khả năng mất
ổn định khu vực do sự trỗi dậy của Trung Quốc có thể gây nên trong tương lai.
***
Trung Quốc : Cường quốc năng động tại châu Á – Thái Bình Dương
Asia Times Online
TTXVN (Hồng Công
11/11)
Theo báo mạng Asia Times Online số ra ngày 9/11, nhiệm kỳ thứ hai trong 4 năm
tới của Tổng thống Mỹ Barack Obama sẽ là khoảng thời gian thiết lập những tiếng
chuông đồng hồ cuối cùng đếm ngược tới lúc Trung Quốc nổi lên thành một siêu
cường. “Cường quốc năng động tại châu Á – Thái Bình Dương” này sẽ trở thành một
hình- mẫu quan trọng trong tiến trình lịch sử này.
Trong khi Mỹ có thể hy vọng vào các đồng
minh, đã qua thời gian kiểm chứng, là Nhật Bản và Ôxtrâylia, thì mối bận tâm
của nước này đối với Trung Quốc và Nga lại đang gia tăng và mối bận tâm này
hình thành như thế nào sẽ ảnh hưởng rõ ràng đến “cường quốc năng động tại châu
Á – Thái Bình Dương”.
Những lời chúc mừng theo thông lệ và phản
hồi sớm từ phía Bắc Kinh và Mátxcơva đã cho thấy những dấu hiệu về mức độ kỳ
vọng của hai cường quốc này đối với nhiệm kỳ thứ hai của ông Obama. Cả hai
cường quốc này đều không cho thấy sự quan tâm đáng kể nào đến quá trình cạnh
tranh trong cuộc bầu cử ngày 6/11 cũng như kết quả nào sẽ xảy ra, đồng thời
khoác lên mình một dáng vẻ xa cách thận trọng, nhưng cả hai lại tranh nhau phản
ứng sớm ngay khi thông tin về chiến thắng của ông Obama được công bố.
Trung Quốc duy trì thái độ lạc quan một
cách thận trọng rằng những mâu thuẫn trong mối quan hệ với Mỹ nằm trong tầm
kiểm soát và không cần thiết phải đẩy lên mức đối đầu. Bắc Kinh cố gắng lý giải
rằng sẽ không có bất cứ điều gì là “không thể không biết” xét trong tổng thể
mối quan hệ cho đến thời điểm này vì Bắc Kinh có thể lường trước được những
điều có thể xảy ra trong nhiệm kỳ của ông Obama.
Tất nhiên, quân át chủ bài của Trung Quốc
là sự phụ thuộc lẫn nhau lớn trong mối quan hệ giữa hai nước trong giai đoạn
hiện nay và Bắc Kinh tự tin rằng họ có thế có vai trò hữu ích trong sự phục hồi
kinh tế của Mỹ.
So sánh với Nga, phản ứng của Mátxcơva lại
là một cái gì đó kín đáo và có điều kiện, không phải là thất vọng với những gì
mong muốn nhưng lại không chắc chắn về việc làm thế nào để có được một cách ứng
phó mới. Trong khi đó, Mátxcơva đang muốn đối phó với bầu không khí bất an
trong ngăn hạn.
Sự cởi mở hoàn toàn
Cả Chủ tịch nước và Thủ tướng Trung Quốc
cùng chúc mừng ông Obama, nhấn mạnh sự gần gũi trong mối quan hệ hơn cả ở mức
lễ tân ngoại giao. Điều thú vị là Phó Chủ tịch Trung Quốc Tập Cận Bình cũng gửi
lời chúc mừng tới Phó Tổng thống Mỹ Joe Biden. Joe Biden đã tiếp ông Tập Cận
Bình trong chuyến thăm gần đây nhất đến Mỹ hồi tháng Hai vừa qua và được đánh
giá là chuyến thăm rất thành công. Trong chuyến thăm này hai nhà lãnh đạo được
cho là đã có một cuộc đối thoại trực tiếp sôi nổi trong nhiều giờ. Biden sau đó
thuật lại rằng hai người có một mối quan hệ cá nhân thân thiết bất chấp sự khác
biệt giữa hai quốc gia trong vấn đề chính sách ngoại giao và thương mại. Biden
viết: “Ông ấy đã hoàn toàn thẳng thắn. Ông ấy cởi mở. Cũng như tôi, ông ấy cố
gắng hiểu quan điểm của đối phương. Bạn không thể đòi hỏi hơn thế… Ông ấy muốn
biết chi tiết. Tôi có ý thức rõ ràng rằng ông ấy muốn hiểu mong muốn của chúng
ta và mối quan tâm của chúng ta là gì”.
Bắc Kinh rõ ràng đã có sự khởi động sớm cho
việc lựa chọn ông Tập Cận Bình là người đứng đầu nhà nước vào tháng Ba tới bằng
việc viện vào mối quan hệ cá nhân đã phát triển rõ ràng giữa Tập Cận Bình và
Joe Biden.
Nhưng lạ thay, Mátxcơva đã bỏ qua một cơ
hội tuyệt vời tương tự khi Điện Gremii không chọn quân bài chủ lực Dmitry
Medvedev, mặc dù Thủ tướng Nga Dmitry Medvedev đã có một mối quan hệ rất tốt
với ông Obama trong suối nhiệm kỳ tổng thống Nga cho đến tận tháng Năm vừa qua,
Vì vậy, ông Medvedev, khi đang có chuyến thăm Việt Nam, đã không phản hồi công
khai và trong dịp này, ông đưa ra một thông điệp được chuẩn bị cẩn thận từng
lời từ Tổng thống Nga Vladimir Putin, một thông điệp thận trọng, thân mật nhưng
không có bất kỳ sự nhiệt tình hay nồng ấm cá nhân nào. Trong khi đó, ông
Medvedev rõ ràng là rất cảm xúc: “Tôi vui mừng khi quốc gia lớn nhất và mạnh mẽ
nhất thế giới sẽ được điều hành bởi một người không xem Nga là kẻ thù địa chính
trị số một. Tôi tin rằng ông ấy (Obama) là một tổng thống thành công. Ông ấy là
một đối tác có thể đoán trước của Nga. Tôi không giấu giếm rằng nền kinh tế của
chúng tôi phụ thuộc rất nhiều vào tình hình kinh tế Mỹ. Bất kể chúng tôi có
thích điều đó hay không, bất kể chúng tôi có tốt với người Mỹ hay không, mọi
gia đình Nga đều phụ thuộc vào giá trị của đồng USD… Chúng tôi (tôi và ông
Obama) đã bắt đầu tái khởi động mối quan hệ. Nó đã có những thành công… Chúng
tôi mong muốn nhận được kết quả tốt. Tôi hy vọng rằng chúng tôi sẽ có mối quan
hệ bình thường với Obama. Nó cũng quan trọng đối với tình hình trên toàn thế
giới”.
Mátxcơva rõ ràng đă phát biểu bằng hai
giọng điệu, bất kể là ngoài mong muốn hay bất đồng chính thống. Trên thực tế,
khi một tiếng nói thứ ba xuất hiện song song – của Ngoại trưởng Nga Sergei
Lavrov – tiếng nói đó dễ dàng hòa nhập cùng với thông điệp của Putin.
Ong Lavrov đã nói một điều gì đó na ná như
kiểu Barkis từng chuyển đến Clara Pegotty thông qua David Copperfield trong
cuốn tiểu thuyết kinh điển nổi tiếng của Charles Dickens: Nga sẵn sàng tiến tới
trong quan hệ với Mỹ và sẵn sàng làm gì đó có lợi cho Oasinhtơn.
Trong khi đó, Tổng thống Putin đã mời ông
Obama tới thăm Nga, chuyến thăm có thể diễn ra trong tháng 6/2013 khi Hội nghị
Thượng đỉnh G20 được tổ chức tại thành phố St. Petersburg. Ông Lavrov kết luận:
“Việc chúng tôi tiếp tục hợp tác với chính quyền này là điều tự nhiên. Chúng
tôi sẵn sàng làm hết khả năng trên cơ sở của sự công bằng, cùng có lợi và tôn
trọng lẫn nhau, tương ứng với những gì chính quyền mới của Mỹ sẵn sàng thực
hiện”.
Công bằng, tin cậy lẫn nhau và cùng có lợi
Phản ứng của Trung Quốc và Nga về nhiệm kỳ
mới của ông Obama tại Nhà Trắng cho thấy những mối quan tâm và ưu tiên của hai
quốc gia này. Sự không thoải mái của Mátxcơva là rất rõ ràng. Obama đưa ra
những cam kết có lựa chọn đối với Nga, trong khi bỏ qua các vấn đề khác và
không chú ý đến lợi ích của Nga. Mặt khác, Bắc Kinh lại nhận được quá nhiều sự
chú ý của Obama.
Nga tìm kiếm sự công bằng xét về khía cạnh
vai trò gánh nặng trong sự cân bằng chiến lược toàn cầu, điều mà Nga coi là cốt
lõi của trật tự thế giới thời hậu Chiến tranh Lạnh và không vui với việc
Oasinhtơn không còn chú ý đến những điều này kể từ sau khi Liên bang Xôviết sụp
đổ.
Ngược lại, Trung Quốc cảm thấy tự tin rằng
sự phụ thuộc lẫn nhau giữa Bắc Kinh và Oasinhtơn hầu như khiến họ phải đứng về
cùng một phía và hai nước này có nhu cầu thực sự phải “bơi cùng nhau”.
Bình luận của Tân Hoa xã về chiến thắng của
ông Obama, đăng tải ngày 7/11: “Không một Tổng thống Mỹ nào có thể bỏ qua mối
quan hệ với Trung Quốc trong 4 năm tới, khi mà kim ngạch thương mại song phương
có thể đạt mức cao nhất 500 tỷ USD trong năm nay và gần 10.000 người qua lại
giữa hai nước mỗi ngày”.
Trong khi Mátxcơva đánh giá rằng việc Obama
“tái khởi động” mối quan hệ Nga-Mỹ đã bị suy tàn, thì Bắc Kinh lại cố gắng hài
lòng rằng bất chấp những mâu thuẫn bắt nguồn từ việc Mỹ “tái cân bằng” tại châu
Á, quan hệ đối tác Trung-Mỹ đã có bước tiến vững chắc trong 4 năm qua. Tân Hoa
xã nhấn mạnh: “Với hiểu biết chung về việc xây dựng một mối quan hệ hợp tác dựa
trên sự tôn trọng lẫn nhau và lợi ích chung, hai nước đã xác định vai trò của
đối phương và quan hệ với nhau theo một cách rõ ràng và tích cực hơn. Đối thoại
giữa hai nước đã suôn sẻ và hiệu quả hơn.”
Cảm giác lo lắng như trong giọng điệu của
Nga không có trong đánh giá của Trung Quốc về quỹ đạo của mối quan hệ trong
tương lai với Mỹ. Một lần nữa, chủ nghĩa hiện thực lại xuất hiện trong những ưu
tiên của Trung Quốc trong bối cảnh một thế giới mở, Tân Hoa xã nhận định: “Tuy
nhiên, tranh cãi giữa quốc gia phát triển nhất và quốc gia mới nổi lớn nhất thế
giới cũng là rất rõ ràng và luôn tồn tại nguy cơ đối đầu… Trung Quốc muốn xây
dựng một kiểu quan hệ mới – dựa trên sự hợp tác và lợi ích chung… Nếu Mỹ không
thay đổi những định kiến truyền thống, mâu thuẫn sẽ xuất hiện ngày càng nhiều
khi mà Trung Quốc tiếp tục phát triển và bảo vệ lợi ích của mình.
Trung Quốc có rất nhiều vấn đề cấp bách nội
bộ cần quan tâm… Trung Quốc không thể kham nổi chi phí cho sự đối đầu toàn diện
với thế giới bên ngoài. Mỹ cũng cần Trung Quốc, không chỉ về phát triển kinh
tế, mà còn trong nhiều phạm vi khác. Khủng hoảng tài chính toàn cầu cho thấy
toàn cầu hóa đã khiến các quốc gia phụ thuộc lẫn nhau như thế nào… Trung Quốc và
Mỹ cần hợp tác cùng nhau vì sự ổn định của thế giới trong tương lai.”
Những cánh rừng sâu, tối và hấp dẫn
Trong khi Trung Quốc đang đánh giá một khu
rừng – xem cánh rừng đó sâu và tối đến đâu, thì Nga lại khác biệt khi kiên trì
đi đếm từng gốc cây. Mátxcơva bị sa lầy vào suy nghĩ rằng Hạ viện Mỹ sẽ ban
hành cái gọi là Danh sách Magnitsky, cái mà Nga coi như là một sự thay thế ngầm
cho Luật sửa đổi Jackson-Vanik thời kỳ Chiến tranh Lạnh theo đó đã hạn chế quan
hệ kinh tế Nga-Mỹ.
Theo nhận định của Sergei Rogov, giám đốc
của Học viện Nghiên cứu về Mỹ và Canada tại Mátxcơva, các đám mây đang tụ lại
để chuẩn bị cho một cơn bão bất ngờ trong quan hệ Nga-Mỹ, tuy nhiên “sau một
thời gian, Chính quyền Obama có thể tiến tới một lịch trình mới cho quan hệ với
Nga”.
Rogov cho rằng Obama sẽ phải tìm đến hợp
tác với Nga về vấn đề Ápganixtan và vấn đề giải trừ quân bị và những thảo luận
cực kỳ nghiêm túc sẽ diễn ra về vấn đề gây tranh cãi xung quanh chương trình
phòng thủ tên lửa. Nhưng theo Rogov, điều tốt nhất có thể nói là: “Nhìn chung,
tôi không cho rằng Chính quyền Obama sẽ đẩy quan hệ Nga-Mỹ đến khủng hoảng
nghiêm trọng”. Tóm lại, Mátxcơva có thể kỳ vọng nhiều hơn vào giải pháp hỗn hợp
như trước đây là tham gia có lựa chọn và phớt lờ một cách ôn hòa trong nhiệm kỳ
thứ hai của ông Obama.
Cả Bắc Kinh và Mátxcơva đều rất háo hức với
sự lựa chọn của Obama về vị trí Ngoại trưởng Mỹ tiếp theo. Cả hai đều hình dung
rằng sự lựa chọn của Obama sẽ thu hẹp nhằm vào Thượng nghĩ sỹ John Kerry.
Tất nhiên, John Kerry còn mới đối với quan
hệ với Trung Quốc, trong khi ông ta là một gương mặt quen thuộc đối với
Mátxcơva và là một gương mặt mang lại cảm giác vừa ưng ý vừa mất lòng (mặc dù
nó sẽ tồi tệ hơn rất nhiều nếu Obama chuyển sang lựa chọn Susan Rice, người đã
có rất nhiều bình luận không khéo léo về các chính sách của Nga). Để chắc chắn,
Trung Quốc sẽ mong muốn sự thay đổi vị trí của Bộ trưởng Tài chính Mỹ Timothy
Geithner.
***
Barack Obama : “Nước Mỹ sẽ hướng tới một siêu cường thế giới
được tôn trọng trong bầu không khí an ninh”
Sankei
TTXVN (Tôkyô
14/11)
Theo mạng tin “Sankei” ngày 8/11,
chiến thắng vang dội trước úng cử viên Cộng hoà Mitt Romney trong cuộc đua gắt
gao vào Nhà Trắng là một đảm bảo vững chắc cho 4 năm cầm quyền tiếp theo của
Tổng thống tái đắc cử Barack Obama và chính sách “hồi sinh nước Mỹ hùng mạnh”
mà đảng Dân chủ đang theo đuổi.
Trong bài phát biểu sau thắng lợi, ông
Obama khẳng định: “Nước Mỹ sẽ hướng tới một siêu cường thế giới được tôn trọng
trong bầu không khí an ninh” đồng thời, Tổng thống tái đắc cử cũng bày tỏ quyết
tâm đối mặt với những thách thức cả bên trong lẫn bên ngoài, tiến tới phục hồi
vai trò đầu tàu của thế giới cũng như hoàn thành nốt nhiệm vụ chưa làm được
trong nhiệm kỳ đầu là phục hồi kinh tế Mỹ.
Đặc biệt, điều mà Nhật Bản trông đợi hơn cả
đối với ông Obama chính là sự nhất quán trong chính sách “trở lại châu Á” nhằm
đối phó với Trung Quốc trong bối cảnh trọng tâm của an ninh và kinh tế của thế
giới sẽ chuyển sang khu vực châu Á – Thái Bình Dương bên cạnh sứ mệnh vực dậy
nền tài chính Mỹ nhằm củng cố nền móng cho sự phục hồi sức mạnh quốc gia.
“Thoát khỏi vực thẳm tài chính”
Để đạt được những mục tiêu này, Mỹ cần hợp
tác và liên kết với Nhật Bản, coi việc tăng cường liên minh Nhật-Mỹ là trụ cột
chính trong chính sách “trở lại châu Á”. Oasinhtơn cũng cần hợp tác với cộng
đồng quốc tế và các nước đồng minh khác nhằm hồi sinh nước Mỹ một cách mạnh mẽ.
Nhũng “việc cần làm ngay” của ông Obama
trong thời gian tới là giải quyết các nguy cơ tài chính và phục hồi nền kinh tế
Mỹ. Tổng thống Obama sẽ phải đối mặt với “vách đá tài chính” khi chính sách cắt
giảm thuế quy mô lớn hết hiệu lực và cắt giảm chi tiêu bắt buộc vào năm 2013
trong bối cảnh tỷ lệ thất nghiệp ở nước này hiện vẫn đang ở mức cao 7%. Việc
tăng thuế đáng kể và cắt giảm chi tiêu công sẽ mang về cho ngân sách quốc gia
khoảng 600 tỷ USD, tương đương với 4% tổng sản phẩm quốc nội (GDP). Tuy nhiên,
Văn phòng Ngân sách Quốc hội Mỹ đã lên tiếng cảnh báo nguy cơ suy thoái kinh tế
trầm trọng và một nửa tỷ lệ tăng trưởng kinh tế thế giới năm 2013 sẽ “bốc hơi”
do khủng hoảng nợ công ở châu Âu.
Bên cạnh vấn đề nợ công châu Âu, tăng
trưởng kinh tế của các nước mới nổi như Trung Quốc cũng phụ thuộc mạnh mẽ vào
xuất khẩu sang thị trường Mỹ. Do đó, một khi kinh tế Mỹ trượt dốc, kinh tế thế
giới chắc chắn sẽ đổ vỡ. Tại Hội nghị các bộ trưởng tài chính và thống đốc ngân
hàng Trung ương Nhóm các nền kinh tế phát triển và mới nổi hàng đầu thế giới
(G-20) diễn ra trước cuộc bầu cử Tổng thống Mỹ, các nước đều đồng loạt đưa ra ý
kiến khẳng định trách nhiệm của Mỹ đối với kinh tế thế giới.
Tuy nhiên, để Mỹ thoát khỏi khó khăn tài
chính, Nhà Trắng phải thu hẹp khoảng cách bất đồng đảng phái tại Quốc hội. Tuy
nhiên, trong bối cảnh đảng Dân chủ nắm Thượng viện trong khi đảng Cộng hoà lại
kiểm soát Hạ viện như hiện nay, Tổng thống Obama sẽ tiếp tục vấp phải những trở
ngại lớn trong việc thực thi chính sách phục hồi kinh tế.
Đạo luật cải cách bảo hiểm y tế, hay “Obama
Care”, được coi là thành tích trong nhiệm kỳ đầu của ông Obama từng vấp phải
trở ngại lớn khi ứng cử viên Romney tuyên bố cương quyết “bác bỏ ngay lập tức”
đạo luật này. Điều này cho thấy làn sóng phản đối mạnh mẽ của phe bảo thủ đối
với đường lối “đại chính phủ” của ông Obama. Do đó, khả năng thương thuyết và
năng lực lãnh đạo đầy thiện chí của ông Obama có thể là chìa khoá duy nhất giúp
Quốc hội Mỹ thông qua các quyết sách kinh tế và xã hội quan trọng.
Trên phương diện ngoại giao, Oasinhtơn còn
hàng tá những công việc như vấn đề hạt nhân Iran, Mỹ rút quân khỏi Ápganixtan
(cuối năm 2014), cuộc nội chiến ở Xyri, tiến trình hoà bình Trung Đông. Trong
số những vấn đề này, việc phát triển chiến lược châu Á – Thái Bình Dương của
Tổng thống Obama có vai trò quan trọng sống còn đối với Nhật Bản và châu Á.
Vào năm 2009, ông Obama từng tìm kiếm triển
vọng “Hợp tác Trung-Mỹ” (G-2) thông qua đối thoại chiến lược và kinh tế. Tuy
nhiên, trước việc Trung Quốc ồ ạt tiến ra đại dương coi Biển Đông là “lợi ích
cốt lõi” và phát triển sức mạnh quân sự, kể từ năm ngoái, Oasinhtơn đã chuyển
trọng tâm chiến lược ngoại giao và an ninh của Mỹ sang khu vực châu Á – Thái
Bình Dương.
Trách nhiệm đồng minh của Nhật Bản
Trước tình hình đó, Mỹ buộc phải hành động
có trách nhiệm đối với Trung Quốc trên tất cả các phương diện chính trị, kinh
tế và an ninh nhằm kiềm chế Bắc Kinh có những hành động quá khích, đảm bảo hoà
bình và phồn vinh của thế giới, về phần mình, Nhật Bản muốn Oasinhtơn thúc đẩy
hơn nữa chiến lược này.
Từ ngày 8/11, Trung Quốc khai mạc Đại hội
18 Đảng Cộng sản nhằm chuyển giao thế hệ lãnh đạo từ êkíp Hồ cẩm Đào sang êkíp
Tập Cận Bình. Để tăng cường nền tảng quyền lực cho chính quyền mới, Bắc Kinh có
nhiều khả năng sẽ theo đuổi đường lối cứng rắn hơn trong đó có cuộc đối đầu
Nhật-Trung xung quanh vấn đề quần đảo tranh chấp Senkaku. Nhật Bản và Mỹ cần có
sự chuẩn bị tốt nhất cho các biện pháp phòng vệ tập thể cũng như đối sách kiềm
chế Trung Quốc.
Vì Ngoại trưởng Mỹ Hillary Clinton, người
đề xướng chuyển trọng tâm chính sách đối ngoại sang châu Á, đang có ý định
“nghỉ hưu” sau bầu cử Mỹ nên Tổng thống Obama có khả năng sẽ phải tuyển chọn
một đội ngũ cộng sự ngoại giao có đủ khả năng đảm nhiệm chính sách coi trọng
châu Á và am hiểu về Nhật Bản. Do vậy, là một đồng minh của Mỹ, Nhật Bản cần
cảm thấy phấn khởi vì điều này thay vì lo ngại. Trong vòng ba năm dưới chính
quyền của đảng Dân chủ, quan hệ đồng minh Nhật – Mỹ lâm vào ngõ cụt trong vấn
đề di chuyển Căn cứ Không quân Futenma và vấn đề triển khai trực thăng vận tải
thế hệ mới Osprey. Việc hai bên chưa thể hoàn tất kế hoạch tái bố trí lực lượng
Mỹ ở Nhật Bản, vốn được coi là đối trọng không thể thiếu nhằm kiềm chế Trung
Quốc, có thể nói là sẽ còn kéo dài trong thời gian tới.
Rõ ràng, Nhật Bản không nhũng hy vọng Mỹ có
thể phục hồi vai trò “sen đầm quốc tế” mà Tôkyô còn trông mong vào một nước Mỹ
hùng mạnh để có thể bảo đảm an ninh cho Nhật Bản cũng như duy trì hoà bình và
ổn định ở khu vực châu Á – Thái Bình Dương. Chính vì vậy, bên cạnh việc thực
hiện tốt trách nhiệm của một nước đồng minh, Nhật Bản cần thực hiện đường lối
ngoại giao phản ánh lợi ích và những đòi hỏi của mình, góp phần tích cực cho
quá trình xây dựng và tăng cường chiến lược “trở lại châu Á” mà Chính quyền
Tổng thống Obama đang theo đuổi./.
No comments:
Post a Comment