GIẢI THOÁT DÂN TỘC
VIỆT - TOÀN TẬP [PHẦN IV]
Nguyễn Thiện Nhân
26-08-2012
Tác phẩm gồm 5 phần. Phần I:
Không thể đi theo Chủ nghĩa cộng sản. Phần II:
Việt Nam nên đi theo con đường nào? Phần III:
Những tử huyệt của chế độ cộng sản ở Việt Nam. Phần
IV: Những thủ đoạn của đảng CSVN. Phần V:
Giải pháp cho dân tộc.
Tác phẩm gồm tổng cộng hơn 40 trang (A4). Tập trung nhiều
nhất vào phần giải pháp (phần chính) với 20 trang.
LỜI GIỚI THIỆU
Nước Việt Nam có vị trí địa lý tốt, có bờ biển dài, có
những vùng đất màu mỡ, có tài nguyên thiên nhiên phong phú, có bề dày văn hóa
mấy nghìn năm, có lực lượng lao động dồi dào, con người khá thông minh có thể
thi thố với các quốc gia trên thế giới, đã hưởng nền hòa bình gần 40 năm(từ
1975). Thế mà nhân dân VN vẫn nghèo, khoa học cơ bản kém cỏi, công nghệ sản
xuất lạc hậu, chưa sản xuất được một chiếc xe máy hoàn chỉnh chứ đừng nói đến
xe hơi, máy bay hay máy vi tính. Vì sao? Tệ nạn xã hội đầy rẫy, môi trường ô
nhiễm, nợ nần chồng chất, tài nguyên cạn dần, tham nhũng tràn lan, nhân quyền
bị xâm phạm… Ai gây nên những họa này?
Nhìn lại những quốc gia giàu có xem họ đã làm gì?
Nhìn lại các quốc gia Châu Á giàu có, mà trước đây những năm
sau chiến tranh thế giới lần II họ từng nghèo khổ, xem họ đã làm gì?
Nhìn sang Thái Lan, nước láng giềng xem họ đã làm gì?
Đừng đổ thừa chiến tranh, đừng đổ thừa dân trí thấp, đừng
nói rằng đời sống nhân dân đã khá lên. Đó là thái độ của người vô trách nhiệm,
lãng tránh và ngụy biện.
Chủ tịch Hồ Chí Minh đã nói:
Không có gì quý hơn độc lập tự do
Dân có giàu thì nước mới mạnh
….
Nhưng dân tộc VN vẫn còn nghèo, và chưa thật sự được có
độc lập tự do.
Nói chưa có độc lập là bởi vì hiện nay VN đang lệ thuộc chính
trị vào Trung Quốc, là bởi vì TQ đã xâm chiếm Hoàng Sa và đang tiếp tục xâm
chiếm Trường Sa của chúng ta. Nói chưa có tự do bởi chính quyền chưa cho phép
thành lập phương tiện truyền thông của tư nhân (báo chí, đài truyền hình, đài
phát thanh), từ đó tiếng nói bất đồng/phản biện vẫn còn bị trù dập và hạn chế
tác dụng.
Ai đang dẫn dắt dân tôc VN? Đường lối như thế nào? Làm
sao để có sự cải cách? Làm sao để giải thoát dân tộc Việt khỏi sự nghèo khổ và
khỏi bàn tay của Trung cộng?
PHẦN IV: NHỮNG THỦ ĐOẠN CHÍNH TRỊ CỦA ĐẢNG CSVN
Cần nói rõ rằng Đảng CSVN ngày nay đã biến chất so với
Đảng CSVN do Hồ Chí Minh lãnh đạo. Không thể chấp nhận việc lấy những giá trị
của đảng trong những năm tháng kháng chiến chống Pháp, Mỹ để phủ bác sự ra đời
của đảng mới. Càng không thể cho rằng nhân dân đã tin tưởng giao phó cho đảng
lãnh đạo nên đảng cứ tiếp tục lãnh đạo toàn diện được. Muốn biết nhân dân có
còn tin đảng không, muốn biết nhân dân có chấp nhận đảng tiếp tục lãnh đạo hay
không, muốn biết nhân dân có muốn đa đảng hay không, phải trưng cầu dân ý trong
điều kiện tự do báo chí trong lĩnh vực chính trị.
Quyền lực của nhân dân dần trở nên mờ nhạt và chỉ còn về
mặt hình thức, hay nói cụ thể hơn là chỉ còn trên ngôn từ trong văn kiện của
Đảng mà thôi. Sự hấp dẫn của quyền lực và lợi ích vật chất kéo theo đã đẩy hệ
thống XHCN đến chỗ độc tài. Quyền lực dồn về Đảng và tập trung ở bộ phận chóp
bu. Chính trường do nhóm chóp bu này ở “hậu trường” đạo diễn. Quyền lực của QH
yếu đi, quyền lực CTN yếu đi, quyền lực Đảng tăng lên và tập trung ở BCT do
khoảng 15 ủy viên nắm giữ. UBMTTQ, đoàn thanh niên, công đoàn…trở thành công cụ
của Đảng.
Cốt lõi tư tưởng Hồ Chí Minh đã không được những người
thừa kế áp dụng.
Từ trước khi thành lập Đảng CSVN (1930), Hồ Chí Minh đã
chỉ trích thực dân Pháp kiểm duyệt báo chí. Thế mà ngày nay, điều này còn tồn
tại ở Việt Nam.
Những người thừa kế xây dựng lăng tẩm, tượng đài và ra
sức ca ngợi Hồ Chí Minh để núp vào đó ngấm ngầm thực hiện độc tài. Đây chắc
chắn là điều mà Hồ Chí Minh không mong muốn.
Những con quỷ dữ đang chui vào trong đảng và giành lấy
những vị trí cao nhất. Oan nghiệt. Dân tộc VN lại phải mang lấy một kiếp nạn.
Khổ.
Đảng ngày nay đã khác, đã thối nát, và cần phải để nhân
dân có quyền lựa chọn thể chế chính trị phù hợp cho đất nước của mình trong
tình hình mới.
1) Âm thầm phản bội tư tưởng Hồ Chí Minh
Miệng nói một đằng, chân đi một nẻo. Đảng CSVN hiện nay
không đi theo tư tưởng HCM, nhưng họ lãng tránh điều đó và ra vẻ như trung
thành với tư tưởng của người.
Ngay khi Hồ Chí Minh vừa mất, người ta đã làm sai di chúc
của người. Lợi dụng tình cảm nhân dân dành cho Bác, Đảng đã đem thi hài của
người ướp hóa chất bảo quản và xây lăng tẩm thật hoành tráng. Trình độ dân trí
lúc ấy làm sao nhận ra tác hại của việc này khi mà trong di chúc Hồ Chí Minh đã
yêu cầu hỏa táng thi thể của mình và chia tro cho ba miền như lời dặn: “Hỏa
táng thi hài; tro hỏa táng chia làm ba phần, bỏ vào ba hộp sành cho miền Bắc,
Trung, Nam; mỗi hộp tro hỏa táng được chôn trên một quả đồi, không dựng tượng đồng,
bia đá trên đó”.
Ngay ở nội dung này của di chúc, ta thấy cái tầm tư tưởng
của Hồ Chí Minh. Cái quyền định đoạt thi thể của mình mà vị lãnh tụ vĩ đại cũng
bị Đảng khước từ. Sự sai trái này của Đảng đã bị những lãnh đạo kế nhiệm sau
này lợi dụng. Họ phô trương hình thức để núp bóng người cha già dân tộc đáng
kính. Đảng ngày càng suy thoái, và càng suy thoái thì họ càng ca ngợi HCM, càng
suy thoái thì họ càng ra sức hô hào về những trang sử hào hùng của đảng mà HCM
đã dày công xây dựng. Họ mài lịch sử để mong được giữ quyền lực độc tài lâu
hơn.
Lúc sinh thời, Hồ Chí Minh đã nói “Một Đảng mà giấu giếm
khuyết điểm của mình là một Đảng hỏng”. Bây giờ, chẳng những che giấu khuyết
điểm mà Đảng còn trù dập người chỉ vào những khuyết điểm của Đảng.
Tư tưởng cốt lõi của HCM là thực thi dân chủ, lấy dân làm
gốc.
Hồ Chí Minh đã từng chỉ trích thực dân Pháp không cho tự
do báo chí.
Dưới đây là 2 điểm chính mà Đảng đã làm trái tư tưởng HCM
nhưng Đảng luôn né tránh, luôn tìm cách ngụy trang cho mình, ngụy biện cho hành
vi gian trá này:
a) Vấn đề “tự do báo chí và tự do ngôn luận”
Năm 1919, HCM đã gửi đến chính phủ Pháp và các chính phủ
đồng minh bản yêu sách gồm 8 điểm, trong đó có đòi tự do báo chí và tự do ngôn
luận.
Năm 1920, tại đại hội lần thứ XVIII của Đảng Xã Hội Pháp,
HCM phát biểu: “ Chúng tôi không có quyền tự do báo chí và tự do ngôn luận,
ngay cả quyền tự do hội họp và lập hội cũng không có”.
Năm 1924, HCM viết như sau: “Giữa thế kỷ XX này, ở một
nước có đến 20 triệu dân mà không có lấy một tờ báo! Các bạn có thể tưởng tượng
được như thế không? Không có lấy một tờ báo bằng tiếng mẹ đẻ của chúng tôi. Tôi
gọi báo là một tờ báo về chính trị, về kinh tế hay văn học như ta thấy ở Châu
Âu và các nước Châu Á khác, chứ không phải một tờ báo do chính quyền thành lập
và do bọn tay chân điều khiển, chỉ nói đến chuyện nắng mưa, tán dương những kẻ
quyền thế đương thời, kể chuyện vớ vẩn, ca tụng công ơn của nền khai hóa và ru
ngủ dân chúng. Báo đầu đọc người ta như thế, thì ở Đông Dương cũng có 3-4 tờ
đấy”.
Báo Dân Chúng ra đời vào năm 1938. Trụ sở báo Dân Chúng
đặt tại số 43 đường Lê Thị Hồng Gấm, phường Nguyễn Thái Bình, quận 1, thành phố
Hồ Chí Minh, thời Pháp thuộc (1938) là đường Hamelin.
Nội dung chính của báo Dân Chúng là:
Tuyên truyền lý luận, đường lối quan điểm chính sách của
Đảng;
Cổ động và tổ chức quần chúng đấu tranh thực hiện các
khẩu hiệu dân chủ và chống chiến tranh phát xít;
Đấu tranh chống Tơ rốt kít;
Cổ vũ cho mặt trận dân chủ Đông Dương, ủng hộ mặt trận
dân chủ ở các nước đấu tranh chống phát xít, đặc biệt là ở Tây Ban Nha, Trung
Quốc, ủng hộ mặt trận bình dân Pháp, chống sự hữu khuynh của Chính phủ Pháp,
ủng hộ Liên bang Xô Viết.
Báo Dân Chúng là tờ báo ra được nhiều số, đứng thứ 3
trong lịch sử báo chí trước tháng 8 năm 1945, là tờ báo được vinh dự đăng bài
đầu tiên của Chủ tịch Hồ Chí Minh viết cho báo trong nước trong thời kỳ vận
động dân chủ, là tờ báo in có số lượng cao nhất, có nhiều bạn đọc nhất trên đất
Đông Dương trong cả quá trình lịch sử trước Cách Mạng tháng 8 năm 1945.
Ngày 22/7/1938, báo Dân Chúng ra số báo đầu tiên. Ngày
7/9/1939, nhà cầm quyền Pháp đã ra lệnh đóng cửa báo Dân Chúng. Báo Dân Chúng
đã ra 81 số. (Đọc thêm tại đây)
Như vậy dưới thời thực dân Pháp đã có hơn
một năm, Thực dân Pháp cho phép tự do báo chí.
Còn ngày nay, 74 năm sau, năm 2012, dưới sự
cai trị của Đảng CSVN thì sao?
Có đến hàng trăm tờ báo nhưng không có báo chí tư nhân.
Tự do báo chí chỉ có ở các lĩnh vực phi chính trị. Lĩnh vực chính trị bị kiểm
soát chặt, một sự kiểm duyệt kiểu mới. Trước tiên, lãnh đạo các tờ báo này đa
số là những đảng viên, nhất là các tờ báo lớn, được quán triệt tư tưởng Đảng.
Ngày báo chí VN 21/6/2012, Bộ trưởng công an Trần Đại
Quang đã cảnh báo báo chí không được xa rời mục tiêu chính trị và bỏ quên việc
‘định hướng dư luận xã hội’. Và đây, xem những gì ông này nhắc nhở:
“Tiếp tục tuyên truyền sâu rộng về Chủ nghĩa Mác – Lênin, Tư tưởng Hồ Chí
Minh, quan điểm, chủ trương, đường lối, chính sách của Đảng, pháp luật của Nhà
nước về an ninh, trật tự,” .
“Báo chí công an nhân dân cần tích cực tham gia và thể hiện vai trò đi đầu
trong cuộc đấu tranh chống ‘diễn biến hòa bình’ trên lĩnh vực tư tưởng… phản
bác các luận điệu sai trái, thù địch, góp phần thực hiện thắng lợi cuộc đấu
tranh phòng, chống ‘diễn biến hòa bình’, ‘tự diễn biến’, ‘tự chuyển hóa’”
Lời của một ông quan nắm quyền ‘bắt bớ, giam giữ, điều
tra’ để chuyển qua tòa án ‘xử tội’ những ai làm trái thì khó có lãnh đạo tờ báo
nào dám chống lại.
Như vậy báo chí không những bị áp đặt tư tưởng chính trị
mà còn bị ép làm công cụ tuyên truyền đường lối của Đảng, thử hỏi báo chí có tự
do ngôn luận về mặt chính trị không?
Những nhân sự có tư tưởng đổi mới hay chỉ trích chính quyền
hay cố phơi bày cái xấu của Đảng sẽ dần dần bị loại khỏi hàng ngũ. Những sự
kiện “nhạy cảm” nổi cộm có ảnh hưởng đến quy tín của Đảng phải có chỉ đạo từ
Đảng để xem xét cho đăng hay không đăng hoặc tóm gọn, gọt dũa, thậm chí bẻ cong
nó rồi mới đăng tin.
Ví dụ 1: tin tức về biều tình (2011) chống Trung Quốc xâm
lược lúc thì “nín thinh”, lúc thì đăng cực ngắn với những từ ngữ đã bị “làm
nhẹ” đi như từ “biểu tình” được viết thành “tụ tập”, thông tin đăng tải không
phản ánh được mức độ, màu sắc của sự kiện.
Ví dụ 2: Tin tức về cưỡng chế ở Tiên Lãng thì được tự do
đăng tải, nhưng ở các vụ sau đó như cưỡng chế ở Văn Giang, Vụ Bản thì không
đăng!
Sự kiểm duyệt báo chí rất tinh vi của Đảng CSVN khiến
nhiều thông tin bị bưng bít, đa số dân chúng không biết tin. Trong khi các tin
tức phi chính trị thì đầy ắp các trang báo. Nhiều thông tin bị bẻ cong, đăng
sai sự thật trên các báo nhất là báo QĐND, CAND, Hanoimoi, ANTĐ…Điều này gây
ngộ nhận cho đa số người dân trong nhận thức chính trị, lĩnh vực vốn bị Đảng CSVN
nhồi sọ học sinh sinh viên suốt những năm tháng ngồi trên ghế nhà trường.
Như vậy tự do báo chí trong lĩnh vực chính trị đã chưa hề
xuất hiện sau khi chấm dứt chiến tranh, thống nhất đất nước (1975). Một điều
tồi tệ hơn cả thời thực dân Pháp.
Mặc dù Hiến Pháp cho tự do báo chí, tự do ngôn luận (Điều
69), mặc dù VN đã tham gia công ước quốc tế nhằm thực thi quyền này, nhưng thực
tế thì những người cầm quyền thông qua hệ thống công an, tòa án đã bất chất
pháp luật, chà đạp quyền này của người dân. Ngày càng nhiều những nhà bất đồng
chính kiến phải vào tù vì họ cố gắng bày tỏ mong muốn cải cách chính trị với
mong muốn đa nguyên đa đảng…Chưa hề có tự do ngôn luận về mặt chính trị từ 1975
đến nay!
“Hội hè, tín ngưỡng, báo chương
Họp hành đi lại có quyền tự do”
(Hồ Chí Minh)
Tư tưởng của HCM về tự do báo chí, tự do ngôn luận nay đã
bị những người lãnh đạo Đảng CSVN âm thầm phản bội.
b) Vấn đề “Dân biết, dân bàn, dân làm, dân kiểm tra”
Các báo đài nhà nước, các cuộc họp của Đảng vẫn luôn
tuyên truyền ra rả rằng “mọi chủ trương, chính sách của Đảng và Nhà nước, tất
cả các vấn đề quốc kế dân sinh phải để cho dân biết, dân bàn, dân làm, dân kiểm
tra; tinh thần dân chủ phải được thể hiện trong tất cả các lĩnh vực của đời
sống xã hội”.
Đấy là lời đầu môi chót lưỡi, còn thực tế thì:
“Mấy trăm tờ báo toàn lề Đảng, làm gì có tự do báo chí!
Dân cặm cụi làm ăn lo miếng cơm manh áo, nào biết gì chuyện của mấy quan, chỉ
thấy chúng thằng nào cũng giàu lên nhanh chóng. Những nhà bất đồng chính kiến,
những người đấu tranh cho dân chủ bị chúng bắt giam, tòa án thông báo xử công
khai nhưng thực tế dân không được đến, chân lý làm sao có được?”
Hàng chục vụ cưỡng chế đất đai ầm ĩ với hàng trăm công an
nhúng tay thực hiện, các báo đâu có đưa tin (trừ vụ cưỡng gia đình anh Đoàn Văn
Vươn). Hàng trăm cuộc biểu tình, khiếu nại của dân oan, có vụ lên đến hàng
nghìn người, báo chí đâu có đưa tin. Biểu tình chống TQ xâm lược mấy nghìn
người tham gia báo chí cũng né tránh, ú ớ không ra lời. Chuyện góp ý văn kiện
đại hội đảng của 22 nhà trí thức là những vị Gs, Ts kỳ cựu báo chí nào có đăng!
Ở lĩnh vực chính trị, không có tự do báo chí, dân biết gì
mà bàn, mà làm, mà kiểm tra?
Để “Dân biết, dân bàn, dân làm, dân kiểm tra” tức là có
dân chủ thì điều kiện cần là:
+ Tự do báo chí, tự do ngôn luận, tự do lập hội
+ Được bầu cử trực tiếp nguyên thủ quốc gia
+ Được biểu tình
+ Cạnh tranh chính trị (đa đảng)
+ Nhà nước pháp quyền với tam quyền phân lập
Nhưng những lãnh đạo đảng cứ giả ngu giả ngơ như không
biết, ai góp ý cứ mặc, chúng cứ làm cái gì lợi cho chúng thôi, chúng không
thích cải cách bởi cải cách làm giảm quyền lực và giảm thu nhập bất chính của
chúng.
Những cốt lõi về tự do-dân chủ ngày xưa Bác nói, Bác đấu
tranh, Bác mong mỏi nay bị bọn hậu sinh phớt lờ, chúng chễm chệ trên ghế cao quyền
lực với những chiếc mặt nạ giả dối, miệng nói một đằng chân đi một nẻo. Hậu quả
dân tình gánh chịu còn chúng cứ say sưa thụ hưởng giàu sang và quyền thế cho
riêng bọn chúng. Một lũ súc sinh.
Đảng CSVN bây giờ như con ốc mượn hồn, vỏ khác ruột khác. Hồ Chí Minh, vị lãnh tụ vĩ đại, và sự vĩ đại của người bị lợi dụng, bị biến thành tượng đài che chắn cho một chế độ thối nát. Biết bao xương máu của các chiến sỹ cộng sản ngã xuống, nay bọn tham quan tham nhũng mặc sức mà tổ chức những buổi lễ ôn lại chiến tích hào hùng. Ôi, hài cốt. Ôi, linh hồn. Tội nghiệp!
Đảng CSVN bây giờ như con ốc mượn hồn, vỏ khác ruột khác. Hồ Chí Minh, vị lãnh tụ vĩ đại, và sự vĩ đại của người bị lợi dụng, bị biến thành tượng đài che chắn cho một chế độ thối nát. Biết bao xương máu của các chiến sỹ cộng sản ngã xuống, nay bọn tham quan tham nhũng mặc sức mà tổ chức những buổi lễ ôn lại chiến tích hào hùng. Ôi, hài cốt. Ôi, linh hồn. Tội nghiệp!
2) Giáo dục nhồi sọ, gian manh xảo trá
Một bộ sách giáo dục chính trị đồ sộ đề cao CNCS, công
kích CNTB được đưa vào dạy chính thức cho sinh viên đại học.
Bộ sách này gồm 3 giáo trình:
- Triết học Mác-Lênin (NXB Chính trị, biên soạn 2004, dày
670 trang)
- Kinh tế chính trị Mác-Lênin (NXB Chính trị, biên soạn
2004, dày 673 trang)
- Chủ nghĩa xã hội khoa học (NXB Chính trị, biên soạn
2004, dày 555 trang)
Bộ sách này quá dày! Không biết có được bao nhiêu lời lẽ
của Mác và Lê nin trong hơn 1800 trang của bộ sách này, tôi nghĩ sự duy ý chí
của những người Việt biên soạn đã làm dày bộ sách, quá nhiều thứ viết tràn lan,
khô khan, với những ngôn từ rất ư là ‘khủng’ lập đi lập lại nhằm khẳng định
đường lối của CNCS như “vĩ đại, cao cả, đúng đắn, chân chính, tất yếu, trong
sáng, vững mạnh, khoa học…”.
Tư duy của sách rất phiến diện, thiếu khách quan, đả kích
CNTB bằng những lý luận áp đặt, quy chụp, phủ lấp, ích kỷ và khuyến khích bạo
động. Trong khi không đi sâu vào tính khả thi hay bất khả thi của nó. Những ai
từng đọc sẽ biết, nghĩ lại thấy thật ngán ngẫm, thật vô bổ, lãng phí thời gian
của sinh viên, tiêu tốn tiền bạc của phụ huynh và ngân sách nhà nước.
Ngoài ra còn có hẳn môn ‘lịch sử đảng’ để tuyên truyền
chiến công của Đảng CSVN, chiếm một lượng đáng kể thời gian.
Không chỉ ở bậc đại học, ở PTTH, Trung học, Cao đẳng…đều
có những môn rao giảng về CNXH, nay chẳng còn phù hợp với thực tiễn.
Sinh viên nào dám nêu tư tưởng trái với những gì bị nhồi
nhét thì rớt là cái chắc.
Giáo dục nhồi nhét và thi cử gian lận kéo dài do bệnh
thành tích ở các trường PTTH.
Ngay sau khi thực hiện phong trào “Hai không”, kết thúc
mùa thi năm 2007, cả xã hội bàng hoàng vì kết quả chấm thi cho thấy: Tỷ lệ tốt
nghiệp THPT trung bình cả nước giảm từ 94% xuống 66%. Nhưng ở cái xã hội này,
sự trung thực chỉ có thể tồn tại trong thời gian ngắn ngủi bởi một ‘phép thử’,
sau đó đâu lại vào đấy, sự giả dối lại hồi sinh và ngự trị. Năm 2008: 75%. Năm
2009: 84%. Năm 2010: 93%. Năm 2011: 96% ( bằng con số của trước những năm “hai
không”). Năm 2012: 98%.
Xã hội không chấp nhận thực tế là chỉ có 2/3 học sinh là
thi đỗ bằng năng lực học tập. Bệnh thành tích luôn tồn tại có tính hệ thống.
Người ta vui vẻ với kết quả giả dối: 95% đến 98%!
Trong kỳ thi tốt nghiệp PTTH 2012, một học sinh đã tung
ra những clip gian lận thi cử mà em đã quay lén được ở Trường Đồi Ngô (Bắc
Giang). Nhưng lãnh đạo tỉnh vẫn không thừa nhận tệ nạn này là phổ biến trong
tỉnh và có cách xử lý né tránh.
Phó bí thư Bắc Giang khẳng định, năm nay kết quả tốt
nghiệp hơn 99% của Bắc Giang đánh giá được thực chất quá trình dạy học của
tỉnh: “Còn việc xảy ra ở Đồi Ngô do đây là trường dân lập, có vấn đề trong quản
lý, giảng dạy. Tiêu cực thi ở Đồi Ngô không phải là tình trạng phổ biến ở Bắc
Giang”.
Số liệu thống kê sẽ nói lên tất cả: Năm 2007, lần đầu làm
‘hai không’ nghiêm túc, tỉnh này đỗ hơn 60% hệ THPT và Đồi Ngô chỉ đỗ 6%. Vậy
mà những năm gần đây, khi cuộc phát động 2 không chìm vào quên lãng thì tỷ lệ
đỗ của tỉnh này lại cao vút, năm 2012 tỉnh này đỗ 99% và Đồi Ngô đỗ 78%.
Người trung thực không thể làm quan lớn trong cái xã hội
nhiễu nhương này. Đúng như dân gian thường kêu ca “thời nhiễu nhương quỷ vương
lộng hành”. Vì vậy nói dối nói nịnh đã trở thành bản chất của quan chức. Ông
Phó Bí thư Bắc Giang cũng thế mà thôi.
3) Bầu cử hình thức, không có giá trị thực tiễn
Các cơ quan truyền thông, báo chí tập trung tuyên truyền
rôm rả trước-trong và sau bầu cử. Nào là “ngày trọng đại”, nào là “ngày hội”,
nào là “cơ hội để nhân dân chọn người đủ đức đủ tài…”. Hình ảnh bầu cử đông đúc
(chế độ độc tài nào mà bầu cử chả đông!) kèm theo những lời xua nịnh được phát
lên TV, báo chí.
Tôi trực tiếp đi bầu cử ngày 22.5.2011. Có bốn phiếu bầu,
một là bầu HĐND cấp xã, hai là bầu HĐND cấp huyện, ba là bầu HĐND cấp tỉnh, bốn
là bầu đại biểu quốc hội. Có cả thảy trên hai chục người ứng cử viên. Dân lo
tất bật với cuộc sống, ai lo tìm hiểu hơn 20 vị này? Có tìm hiểu đi nữa thì
cũng chả biết ai tốt ai xấu.
Thiết nghĩ, cần phải xác định nguyên thủ quốc gia là ai,
quyền hành phải được tập trung về vị lãnh đạo này và vị trí này phải được dân
bầu trực tiếp. Ngoài ra dân địa phương phải được bầu Chủ tịch tỉnh. Đấy là hai
vị trí then chốt mà dân cần được bầu. Tổng số vị trí mà dân phải bầu nên khoảng
3-7 vị trí. Không nên quá nhiều bởi nhiều quá thì dân nào theo dõi nổi! Mặc
khác những chức vụ phải bầu cử thì phải cho những đối thủ tranh đua vận động
bầu cử để người dân có điều kiện soi rọi, so sánh. Ở VN chưa có được điều này,
bầu cử ở VN chỉ là phô trương hình thức, không có giá trị thực tiễn.
4) Tổ chức một hệ thống chính trị chằng chịt cắm sâu vào
mọi ngóc ngách xã hội
Để đổ móng cho chế độ cai trị độc tài, Đảng CSVN triển
khai một hệ thống chính trị chằng chịt cắm sâu vào mọi ngóc ngách xã hội. Cụ
thể là:
+ Thâu tóm quyền lực qua triển khai hệ thống chi bộ đảng
trong các cơ quan của chính quyền.
+ Gắn lý lịch đảng với đề bạt chức vụ trong chính quyền.
Hầu hết các chức vụ quan trọng trong chính quyền đều do những đảng viên nắm
giữ. Sự lạm quyền, che đậy tội lỗi cho nhau luôn hiện diện trong tư tưởng các
quan chức.
+ Lợi dụng và khống chế tôn giáo, điển hình nhất là tại
Giáo hội Phật giáo VN (Nhìn xem, trên đầu trang Web của GHPGVN có cụm từ CNXH
đính trên đó. Trong lễ hoằng pháp 2011, bài diễn văn sặc mùi chính trị với
những từ xua nịnh Đảng)
+ Khống chế và biến MTTQ, công đoàn, tòa án…thành các
công cụ để củng cố và duy trì quyền lực thống trị.
+ Bắt buộc quân đội và an ninh trung thành với Đảng, thực
hiện các nhiệm vụ mà Đảng chỉ đạo hoặc phân công.
5) Hứa suông và mồm mép
Hứa suông trở thành tật xấu với các quan chức từ trung
ương đến địa phương, lời hứa riết rồi trở thành một thứ hình thức. Không ai còn
hy vọng vào các lời hứa vĩ mô của các quan chức nữa. Khi không thực hiện được
lời hứa của mình các quan không xin lỗi nhân dân, không bị cách chức, thậm chí
vẫn thăng chức bình thường.
Năm 2006, khi mới nhậm chức, thủ tướng Nguyễn Tấn Dũng
hứa: ”sẽ từ chức nếu không chống được tham nhũng”, nhưng thực tế tham nhũng
càng nghiêm trọng hơn còn ông thì chẳng những không từ chức mà còn làm thủ
tướng thêm một nhiệm kỳ nữa.
Ông bộ trưởng bộ giáo dục Nguyễn Thiện Nhân khi nhậm chức
vào ngày 17-11-2006 đã hứa “Bộ sẽ trình Chính phủ đề án cải cách tiền lương nhà
giáo để đến năm 2010, nhà giáo có thể sống được bằng đồng lương của mình”. Rồi
thì lời hứa tan theo mây khói, lương giáo viên vẫn không đủ sống, còn ông Bộ
trưởng thì lên làm Phó thủ tướng.
Chính phủ luôn nói rằng “quyết tâm CPH DNNN”, dân nghe
chính phủ lên kế hoạch rằng “đến năm 2010 sẽ CPH hầu hết các DNNN, sẽ CPH toàn
bộ các Tổng công ty nhà nước…” rồi ra nghị quyết, quyết định…cuối cùng việc CPH
đã diễn ra ì ạch suốt mười mấy năm trời. Kết quả là thế này đây: “Đến cuối
2010, có 1207 DNNN là công ty TNHH một thành viên, 1900 DN Nhà nước có cổ phần
chi phối. Theo báo cáo của Ban Cải cách và phát triển doanh nghiệp-Viện Nghiên
cứu quản lý kinh tế Trung ương (đơn vị chủ trì đề án), Bộ Kế hoạch và Đầu tư,
DNNN hiện chiếm 70% vốn đầu tư của toàn xã hội, 50% vốn đầu tư nhà nước, 60%
tín dụng của các ngân hàng thương mại, 70% nguồn vốn ODA và chỉ đóng góp vào
GDP ở mức khoảng 37-38%.” (Xem: http://www.mof.gov.vn)
Với bao lý do lý trấu được người ta đưa ra để biện hộ cho
hành vi. Các công ty nhà nước hấp dẫn như những mỏ vàng mà các quan chức ra sức
vơ vét cho vào túi riêng. Chúng đâu có dại gì mà vội vàng đóng cửa các mỏ vàng
này. Nếu thực hiện đúng kế hoạch thì đâu có những tổn thất như ở Vinashin,
vinalines…Chẳng ai xin lỗi dân cả. Cái gì có lợi cho quan thì quan làm, còn lợi
cho dân thì quan đủng đỉnh từ từ, đổ thừa hoàn cảnh.
Lạm phát kéo dài, quan chỉ nêu nguyên nhân là do khó khăn
chung của kinh tế thế giới, nào là giá dầu thô thế giới tăng, nào là do khủng
hoảng kinh tế ở Mỹ, rồi khủng hoảng nợ ở Châu Âu….Không thấy quan nói vì sao
lạm phát ở VN cao hàng topten thế giới, đến 2 con số và cứ tái đi tái lại! Cái
nguyên nhân từ sự đầu tư lãng phí, không hiệu quả vào những DNNN và các dự án,
công trình của nhà nước thì quan lại giấu đi. Đến khi lạm phát giảm (do quy
luật là chủ yếu) thì quan hí hửng cho rằng “chính sách kiềm chế lạm phát của
chính phủ đã phát huy tác dụng…”. Bởi thế nhân dân truyền miệng nhau câu rằng
“Mất mùa là tại thiên tai, được mùa là bởi thiên tài Đảng ta”.
Thật tồi tệ, khi quan phá nhà gia đình Đoàn Văn Vươn thì
quan đổ thừa “nhân dân bức xúc vào phá”, khi quan xua quân đánh dã man hai nhà
báo VOV, bị dân quay lại clip thì quan báo cáo với thủ tướng rằng “clip giả do
thế lực thù địch dựng lên”, làm sai mà quan thản nhiên đổ thừa ma quỷ. Cuối
cùng, chẳng quan nào bị ở tù dù chỉ 1 ngày!…Miệng quan càng nói càng thối.
6) Bôi nhọ, trấn áp và bắt giam những người đấu tranh
Ngày càng đông lực lượng an ninh chìm và lực lượng thường
phục tay sai để theo dõi, trấn áp và bắt bớ những người đấu tranh.
Không cho thành lập báo chí tư nhân cũng như phương tiện
truyền thông khác như truyền hình, phát thanh… Khống chế và sai khiến hệ thống
báo chí nhà nước. Sử dụng hệ thống truyền thông nhà nước để xuyên tạc, bôi nhọ
nhân phẩm những người đấu tranh. Ts Cù Huy Hà Vũ, Gs Nguyễn Huệ Chi, Ts Nguyễn
Xuân Diện, cụ Lê Hiền Đức, chị Bùi Thị Minh Hằng… là những người đấu tranh mạnh
mẽ đã bị chúng bôi nhọ.
Các báo đài đi đầu trong việc dùng xảo ngữ để bôi nhọ
người đấu tranh là: Tờ CAND, tờ Hanoimoi, tờ QĐND, tờ ANTĐ, đài truyền hình Hà
Nội…kế đến là Đài truyền hình Việt Nam (VTV). Cái hệ thống đã đẻ ra ‘những quái
thai được tắm gội bằng nước hoa’. Hành vi bôi nhọ, lăng mạ người đấu tranh là
nỗi nhục nhã cho hệ thống báo chí nhà nước cũng như hệ thống chính trị VN.
Nhiều người đấu tranh bị bọn ‘lạ mặt’ hành hung. Thậm chí
còn bị bọn thường phục không bảng tên hành hung tại trụ sở công an.
Trấn áp biểu tình chống TQ xâm lược, biểu tình của dân
oan và các thanh niên công giáo…
Nhiều trí thức đấu tranh đủ mọi trình độ lần lượt vào tù.
Trong khi đó, ở các trụ sở công an, nhan nhản các khẩu
hiệu “học tập tấm gương đạo đức HCM” và trong các phòng làm việc của họ treo
đầy các tấm bảng ghi 6 điều Bác Hồ dạy lực lượng CAND. Ấy thế mà, khi người đấu
tranh bị bắt vào đây, thậm chí bị bắt chỉ vì bị nghi ngờ chứ chưa có bằng cớ,
người bị bắt sẽ bị công an đối xử rất xấc xược, thiếu tôn trọng, bị làm khó,
thậm chí bị hành hung. Như vậy ‘tấm gương đạo đức HCM’ bị chúng biến thành thứ
trang sức che đậy thối quan liêu, hách dịch và hung ác mà thôi.
7) Ngụy biện để giữ chế độ độc đảng
Các bạn có thể tìm thấy những lời mị dân vô đạo đức này
tại các địa chỉ sau:
Với bài nịnh hót của kẻ nịnh bợ Hoàng Hữu Phước thì chẳng
có gì đáng bàn, hắn là Đại biểu quốc hội đấy, nhưng hắn len lỏi vào quốc hội để
kiếm chát danh lợi, hắn há mồm to tiếng để kiếm điểm mà thôi. Hắn là tên phản
bác việc soạn thảo luật biểu tình, cũng may có ĐBQH Dương Trung Quốc lập luận
vững vàng nên hắn đã thất bại.
Với bài đăng trên VOV- một công cụ tuyên truyền của Đảng
mang danh ‘Đài tiếng nói VN’, lợi dụng sự độc quyền truyền thông, bài này được
tung ra để ‘nhét’ chữ vào tai dân chúng theo lối áp đặt quan điểm, cho dân
chúng phải nghe phải hiểu theo họ mà không hề cho đăng những quan điểm ngược
lại, cũng không hề cho tranh luận gì hết. Họ tranh thủ ca ngợi và bảo vệ Đảng
mà thôi.
No comments:
Post a Comment