Saturday 18 December 2021

VÌ SAO HÀ NỘI GIA TĂNG ĐÀN ÁP GIỚI TRANH ĐẤU? (Hiếu Chân / Người Việt)

 


Vì sao Hà Nội gia tăng đàn áp giới tranh đấu?

Hiếu Chân/Người Việt

December 17, 2021

https://www.nguoi-viet.com/binh-luan/vi-sao-ha-noi-gia-tang-dan-ap-gioi-tranh-dau/

 

Những ngày cuối năm 2021, nhà cầm quyền Cộng Sản Việt Nam (CSVN) gia tăng đàn áp với mức độ chưa từng thấy, hàng loạt bản án tù khắc nghiệt được trút lên những tiếng nói phản kháng.

 

https://www.nguoi-viet.com/wp-content/uploads/2021/12/A1-Ha-Noi-tang-dan-ap-1-1536x1133.jpg

Cô Phạm Đoan Trang, 43 tuổi, bị tuyên án chín năm tù vì tội “tuyên truyền chống nhà nước” theo Luật Hình Sự của đảng Cộng Sản. (Hình: Phạm Kiên/Thông Tấn Xã Việt Nam)

 

Dồn dập mở tòa, dồn dập trừng phạt

 

Hôm 14 Tháng Mười Hai, tòa án thành phố Hà Nội tuyên phạt cô Phạm Đoan Trang – “nhà hoạt động nổi tiếng nhất Việt Nam” như nhận định của báo The Washington Post – chín năm tù giam, tăng một năm so với đề nghị của Viện Kiểm Sát giữ vai trò công tố.

 

Ngày hôm sau, 15 Tháng Mười Hai, cũng tòa án này tuyên phạt ông Trịnh Bá Phương 10 năm tù và bà Nguyễn Thị Tâm sáu năm tù; mỗi người còn phải chịu năm năm quản chế.

Hôm sau nữa, ngày 16 Tháng Mười Hai, một tòa án ở Nam Định tuyên phạt nhà hoạt động Đỗ Nam Trung 10 năm tù; bản án tù thứ hai sau khi ông này đã bị một bản án 14 tháng tù hồi năm 2014 cũng với tội danh “tuyên truyền chống nhà nước.”

 

Ngày 17 Tháng Mười Hai, tòa án phúc thẩm tại Sài Gòn tuyên y án 10 năm tù và ba năm quản chế đối với ông Vũ Tiến Chi ở tỉnh Lâm Đồng.

 

Nếu không có thay đổi vào phút cuối, vào ngày cuối năm 31 Tháng Mười Hai, tòa án sẽ xử ông Lê Trọng Hùng, một giáo viên trở thành nhà báo tự do, bị bắt giam hồi cuối Tháng Ba vừa qua sau khi ông nộp đơn tự ứng cử vào Quốc Hội.

 

Tất cả những người này đều bị buộc tội theo tội danh “làm, tàng trữ, phát tán hoặc tuyên truyền thông tin, tài liệu, vật phẩm nhằm chống nhà nước cộng hòa xã hội chủ nghĩa Việt Nam” theo quy định tại Điều 117, Bộ Luật Hình Sự năm 2015, sửa đổi bổ sung năm 2017; trừ cô Trang bị buộc tội theo Khoản 1, Điều 88, Bộ Luật Hình Sự năm 1999, nhưng nội dung hai điều luật này gần như giống nhau và khung hình phạt cũng gần bằng nhau: tù giam từ ba năm đến 12 năm.

 

Công luận không thể không đặt câu hỏi, trong lúc đại dịch COVID-19 hoành hành dữ dội, bão lũ ở miền Trung, kinh tế suy kiệt, thất nghiệp tràn lan và đời sống các tầng lớp nhân dân hết sức khó khăn, tại sao nhà cầm quyền lại đẩy mạnh chiến dịch đàn áp những người có tiếng nói phản đối một cách ôn hòa? Hành động dồn dập như vậy có mục đích gì? Hậu quả đối nội đối ngoại sẽ ra sao?

 

Thực ra không phải đến bây giờ, guồng máy “công an trị” của đảng CSVN mới đàn áp khốc liệt những người bất đồng chính kiến bằng những điều luật mơ hồ, phi lý và những án tù giam dài tới mức không tưởng tượng nổi. Mục đích của việc đàn áp này không có gì mới: Về đối nội, dập tắt tiếng nói phản kháng của các nhà hoạt động và đe dọa, bóp chết từ trứng nước những mầm mống phản kháng có thể nảy sinh trong tương lai. Về đối ngoại, sự đàn áp này là một cú đánh vỗ mặt vào các định chế như Liên Hiệp Quốc, Liên Minh Châu Âu, vào các chính phủ luôn đề cao dân chủ và nhân quyền như Hoa Kỳ, Anh, Úc và Nhật, đồng thời thể hiện lòng trung thành với đảng và chế độ toàn trị Trung Quốc – tên láng giềng to xác và tham lam cùng cực ở phương Bắc, có cùng ý thức hệ và mô hình thể chế với Việt Nam.

 

Dập tắt sự phản kháng hay gây thêm bất mãn?

 

Nhưng liệu chiến dịch đàn áp tàn bạo đó có dập tắt được sự phản kháng của người dân Việt Nam hay không? Không thể không thừa nhận rằng sự đàn áp của đảng Cộng Sản đối với người dân trong nước là hết sức dã man và tinh vi, qua guồng máy tuyên truyền rộng khắp và lực lượng công an chìm nổi “đông như quân Nguyên.” Cho tới nay, đảng Cộng Sản đã thành công trong việc tiêu diệt mọi tổ chức, cá nhân có ý tưởng phản kháng, đòi hỏi dân chủ nhân quyền, đa nguyên đa đảng, tự do ngôn luận, tự do ứng cử và bầu cử v.v…

 

Sự đàn áp khốc liệt và kéo dài đã tạo ra một xã hội “câm nín,” trong đó đại bộ phận dân chúng chỉ lo đầu tắt mặt tối làm ăn kiếm sống mà không quan tâm tới chính trị; giới trẻ phần lớn đua đòi theo lối sống hưởng thụ, và giới trí thức thì thờ ơ với vận mệnh đất nước, “mũ ni che tai,” tự huyễn hoặc mình rằng làm tốt công việc chuyên môn đã là đóng góp lớn cho xã hội!

 

Thảng hoặc, bất bình với thời sự kinh tế-xã hội, với sự thối nát cùng cực của guồng máy cai trị thì người ta chỉ có thể thở dài, chỉ “lên tiếng” giữa các bạn nhậu hoặc viết đôi dòng tâm tình trên các mạng xã hội. Nhà bình luận David Brown – một cựu giới chức ngoại giao Hoa Kỳ tại Việt Nam – đã nhận xét có phần cay đắng nhưng chí lý về hiện tình phong trào phản kháng ở Việt Nam: “Các nhà lãnh đạo giỏi nhất của phong trào dân chủ Việt Nam đang ở trong tù hoặc lưu vong, trong khi nhiều người trong số còn lại đang lãng phí thời gian của họ để ngưỡng mộ Donald Trump!” Liệu có bao giờ xã hội câm nín đó sẽ thức tỉnh?

 

Nhưng bằng việc trấn áp khốc liệt, nhà cầm quyền CSVN rơi vào một mâu thuẫn lớn mà những lý luận gia của chủ nghĩa Cộng Sản đã chỉ ra: áp bức sinh ra đấu tranh, áp bức càng nặng nề thì đấu tranh càng mạnh mẽ.

 

Cách đây hơn 10 năm, khi kết án ông Trần Huỳnh Duy Thức – một doanh nhân tài năng, có tầm nhìn xa và mong muốn canh tân đất nước – 16 năm tù giam tại phiên tòa ngày 20 Tháng Giêng, 2010, Hà Nội hẳn nghĩ rằng, trừng phạt nặng như vậy sẽ có tác dụng “răn đe” người khác, sẽ khiến những người có ý tưởng dân chủ phải im tiếng phục tùng “đảng và nhà nước.”

 

Không phải như vậy. Ông Thức ngồi tù đã hơn chục năm nhưng trên con đường của ông đã có hàng trăm người khác tiếp bước, dù rất nhiều người, cũng như ông, đã phải đối mặt với những bản án khắc nghiệt. Theo tổ chức Ân Xá Quốc Tế (Amnesty International), hiện Việt Nam giam giữ khoảng 170 tù nhân lương tâm – một con số kỷ lục; dự án 88 (88 Project) đưa ra danh sách hiện có 217 nhà hoạt động bị giam trong tù và 306 người khác đang gặp nguy hiểm. Bản án tù 16 năm với ông Duy Thức hay 20 năm với ông Lê Đình Lượng sau đó đã không thể làm các nhà hoạt động ở Việt Nam khiếp sợ hay bỏ cuộc.

 

Ngược lại, áp bức đã sinh ra đấu tranh. Trường hợp bà Nguyễn Thị Tâm nói ở trên và gia đình họ Trịnh ở Dương Nội, Hà Đông, Hà Nội (gồm ông cha là Trịnh Bá Khiêm, mẹ là bà Cấn Thị Thêu và các con Trịnh Bá Tư, Trịnh Bá Phương; ông Khiêm đã ra tù còn vợ con ông đang bị giam cầm với mức án rất nặng) là rất đáng chú ý.

 

Khởi đầu họ không phải là những người đấu tranh đòi dân chủ, nhân quyền mà chỉ là những nông dân hiền hậu. Khi nhà cầm quyền tước đoạt một cách phi lý đất đai mà họ đang canh tác để giao cho các “cá mập đất” chia lô để bán thì họ phản kháng. Mất đất, họ trở thành “dân oan,” và là dân oan, họ cảm thông sâu sắc với nỗi đau của người nông dân thôn Hoành, xã Đồng Tâm bị nhà cầm quyền cưỡng đoạt khu đất ruộng đồng Sênh.

 

Khi công an nửa đêm tập kích vào thôn Hoành, giết thảm cụ ông Lê Đình Kình, bắt hàng chục người khác và bưng bít hết mọi ngóc ngách thì mẹ con bà Thêu thu thập thông tin và phổ biến trên mạng xã hội cho mọi người biết tới thảm nạn Đồng Tâm. Từ nông dân, họ đã trở thành “nhà đấu tranh dân chủ” một cách bất đắc dĩ. Trong lời nói sau cùng trước tòa, anh Trịnh Bá Phương vẫn đau đáu với nỗi niềm của người dân oan mất đất: “Tôi đấu tranh với mong muốn không còn tình trạng ruộng đất với bờ xôi ruộng mật là sinh kế của người nông dân bị đảng Cộng Sản cướp đoạt.”

 

Nhiều nhà đấu tranh đang bị cầm tù, cách đây chưa lâu, còn là những viên chức, cán bộ trong guồng máy nhà nước Cộng Sản; có điều họ không cam phận trước những nỗi thống khổ của người dân nên đã lên tiếng và chấp nhận bị đàn áp. Trường hợp cô Phạm Đoan Trang, một nhà báo làm việc cho báo VNExpress, VietNamNet trước khi trở thành người bất đồng chính kiến là một ví dụ.

 

Đảng CSVN thường vu cho một “thế lực thù địch” kích động sự phản kháng, gây bất ổn xã hội để phá hoại chế độ của họ, nhưng xét cho cùng, nếu có một kẻ thù như vậy thì đó chính là đảng Cộng Sản và guồng máy đàn áp của họ.

 

https://www.nguoi-viet.com/wp-content/uploads/2021/12/A1-Ha-Noi-tang-dan-ap-2-1536x1106.jpg

Cô Phạm Đoan Trang về trại giam sau khi kết thúc phiên tòa. (Hình: Phạm Kiên/Thông Tấn Xã Việt Nam)

 

Ảo tưởng “thay đổi qua thương mại”

 

Trên bình diện quốc tế, thế giới không xa lạ gì với “thành tích bất hảo” về đàn áp người dân của chính thể Hà Nội. Trong các bảng xếp hạng về tự do, dân chủ, nhân quyền, Việt Nam đều nằm gần chót, cùng nhóm với Trung Quốc, Cambodia, Iran, Bắc Hàn.

 

Nhưng cho đến nay, cách đối xử của Hoa Kỳ và các nước dân chủ phương Tây trong vấn đề dân chủ, nhân quyền của Việt Nam vẫn mang nặng ảo tưởng: Họ hy vọng sự hợp tác ngày càng sâu rộng với Hà Nội về kinh tế, thương mại, an ninh, văn hóa giáo dục… sẽ có tác dụng làm thay đổi bản chất của chế độ Cộng Sản, giúp Việt Nam trở nên tự do hơn, nhân bản hơn và hội nhập tốt hơn vào hệ thống giá trị của thế giới tự do.

 

Ảo vọng “thay đổi thông qua thương mại” thực ra không mới; nó đã được Mỹ và phương Tây áp dụng với Trung Quốc khi mở cửa cho Bắc Kinh gia nhập tổ chức Thương Mại Thế Giới (WTO) năm 2000 và đổ vốn liếng, công nghệ, bí quyết kinh doanh vào công cuộc phát triển kinh tế Trung Quốc. Ảo vọng này cũng áp dụng ở Việt Nam từ sau khi Tổng Thống Bill Clinton bãi bỏ cấm vận và bình thường hóa quan hệ ngoại giao với Việt Nam năm 1995.

 

Hoa Kỳ thậm chí còn làm những việc chưa có tiền lệ khi Tổng Thống Barack Obama cam kết không làm thay đổi thể chế đảng trị của Việt Nam, còn tiếp đón ông đảng trưởng Nguyễn Phú Trọng ở Phòng Bầu Dục của Tòa Bạch Ốc – nơi tổng thống Mỹ đón tiếp các nguyên thủ quốc gia trong khi ông Trọng chỉ là người đứng đầu một đảng chính trị. Trong thực tế, cách tiếp cận “thay đổi qua thương mại” đó đã thất bại thảm hại, ở Trung Quốc cũng như ở Việt Nam.

 

Những người Cộng Sản cầm quyền ở Bắc Kinh và Hà Nội rất khéo léo tận dụng những ưu đãi của phương Tây để phát triển kinh tế, nhưng càng giàu lên, họ càng siết chặt sự kiểm soát chính trị và tước đoạt các quyền tự do dân sự của người dân. Gần đây phương Tây đã bắt đầu “vỡ mộng” với Trung Quốc; trước khi rời ghế thủ tướng Đức tuần trước, bà Angela Merkel đã phải thú nhận bà “đã ngây thơ” với Trung Quốc. Nhưng với Việt Nam, cách đối xử của Hoa Kỳ và phương Tây gần như chưa có thay đổi gì, thậm chí còn “thân thiết” hơn do ngộ nhận rằng họ có thể lôi kéo Hà Nội vào một “mặt trận dân chủ” chống lại sự bành trướng của Bắc Kinh. “Các chính sách cứng rắn của ông Trọng đã tồn tại trong đảng rồi. Thương mại tăng với Hoa Kỳ và Châu Âu rõ ràng không ngăn cản họ thực hiện chính sách này. Và các chính phủ phương Tây cũng chỉ dựa vào những lời hứa cải cách của Hà Nội, mà không cần đợi xem điều đó có thực sự xảy ra hay không,” nhà bình luận David Hutt của báo The Diplomat phân tích.

 

Ảo tưởng địa chính trị

 

Các chính quyền Hoa Kỳ sau ông Clinton càng ngày càng thân thiết với Việt Nam. Tổng Thống Donald Trump chưa bao giờ lên tiếng về nhân quyền ở Việt Nam trong khi mạnh tay trừng phạt các quan chức Trung Quốc liên quan tới đàn áp ở Hồng Kông và Tân Cương. Chỉ trong vài tháng cầm quyền, Tổng Thống Joe Biden đã cử tới Việt Nam những giới chức cao cấp nhất, từ Phó Tổng Thống Kamala Harris cho tới Bộ Trưởng Quốc Phòng Lloyd Austin và viện trợ rất hào phóng vaccine ngừa COVID-19 cho Hà Nội. Hướng dẫn tạm thời về an ninh quốc gia của Hoa Kỳ thậm chí còn nêu tên Việt Nam – cùng với Singapore – như là đối tác an ninh quan trọng nhất trong khu vực Ấn Độ-Thái Bình Dương, mà theo giới phân tích quân sự, tư cách đó lẽ ra phải dành cho Indonesia, quốc gia đông dân nhất, có ảnh hưởng lớn nhất trong khu vực Đông Nam Á.

 

Nhờ vị trí độc đáo trong cuộc cạnh tranh địa chính trị đang diễn ra giữa Mỹ và Trung Quốc, nhờ sự “o bế” của chính quyền Biden, Hà Nội càng ngày càng “lên mặt” với các đối tác phương Tây. Họ gia tăng áp bức và biết Mỹ, Nhật, EU sẽ không làm gì vì phương Tây cần có Việt Nam trong cuộc đối đầu với Trung Quốc, cũng như trong chuỗi cung ứng hàng hóa thiết yếu toàn cầu.

 

Nhà bình luận Bill Hayton ở Anh nhận xét sau bản án cô Phạm Đoan Trang: “Ban lãnh đạo Việt Nam biết rằng họ có thể bỏ tù những nhà hoạt động như Trang vì Việt Nam đã trở thành một thành phần quan trọng trong chiến lược của các cường quốc bên ngoài ở Đông và Đông Nam Á.”

 

Nhưng nếu Mỹ thờ ơ với hành động đàn áp chỉ để lôi kéo Hà Nội vào mặt trận dân chủ chống độc tài, hay ra khỏi quỹ đạo ảnh hưởng của Trung Quốc thì đó cũng là một ảo tưởng. Quan hệ lâu đời và mật thiết Trung Quốc và Việt Nam cho thấy rằng, chừng nào hai nước còn nằm dưới sự cai trị của các đảng Cộng Sản thì chừng đó Hà Nội và Bắc Kinh còn “chung vận mệnh,” và sẽ không có chuyện Việt Nam tách ra khỏi đàn anh Trung Quốc để đi với phương Tây, nói chi tới chuyện đứng cùng với Hoa Kỳ để chống lại Trung Quốc.

 

Những lời lẽ “phản đối” Trung Quốc trong vấn đề Biển Đông mà Hà Nội phát ra đều đặn như một chiếc dĩa hát cũ chỉ nhằm xoa dịu dư luận của dân chúng trong nước hơn là thể hiện quyết tâm bảo vệ lãnh thổ chống lại sự xâm lấn của nước láng giềng “núi liền núi, sông liền sông.” Hoa Kỳ không muốn làm căng với Hà Nội vì e ngại Việt Nam sẽ lún sâu vào ảnh hưởng của Trung Quốc, nhưng cần thừa nhận thực tế là nhà cầm quyền CSVN đã nằm trong túi của Bắc Kinh.

 

Trừng phạt thay lời phản đối

 

Chiến lược tốt nhất để lôi kéo Việt Nam khỏi quỹ đạo Trung Quốc là Hoa Kỳ hỗ trợ, thúc đẩy dân chủ, nhân quyền ở Việt Nam – những giá trị mà Trung Quốc không có. Một nước Việt Nam dân chủ, tôn trọng nhân quyền mới có thể là đối tác tin cậy của thế giới tự do chống độc tài chứ không phải là nước Việt Nam giàu có nhưng của cải và quyền lực tập trung vào một thiểu số đảng viên cao cấp, phản dân chủ, phản tiến hóa. Lợi thế của Hoa Kỳ trong chiến lược này là đa số người dân Việt Nam thuộc mọi thành phần xã hội đều khao khát tự do, dân chủ, đều chống độc tài toàn trị Trung Quốc và có thiện cảm với Hoa Kỳ, với phương Tây như các cuộc điều tra dư luận gần đây cho thấy.

 

Ông Biden và đảng Dân Chủ quan tâm đến nhân quyền và dân chủ. Đã đến lúc Washington phải tiêu chuẩn dân chủ, nhân quyền thành nền tảng cho quan hệ giữa hai nước; nếu Việt Nam tiếp tục chà đạp lên quyền tự do của người dân, làm trái những cam kết của họ trong các công ước quốc tế thì phải bị Hoa Kỳ trừng phạt về kinh tế thương mại; các quan chức chóp bu của guồng máy đàn áp phải bị cấm vận theo Luật Magnitsky Toàn Cầu như Hoa Kỳ đang trừng phạt các quan chức Trung Quốc, Miến Điện và Cambodia. Nếu Hoa Kỳ và phương Tây tiếp tục “mềm mỏng” với Hà Nội thì không chỉ người dân Việt Nam tiếp tục đau khổ mà chiến lược kiềm chế Trung Quốc về địa chính trị cũng sẽ chẳng đi đến đâu.

 

Chỉ những lời phản đối ngoại giao và “kêu gọi trả tự do” thì chẳng thể ngăn cản bàn tay sắt của Hà Nội. [qd]




No comments:

Post a Comment

View My Stats