07/08/2019
Phần 1: Từ một thực tiễn có
chút đáng buồn
Đang có chuyện “lùm xùm” phân ly trong hội Văn Việt,
mà cả đôi bên với tôi đều là bầu bạn thân quen. Chuyện nhỏ, rồi cũng quên đi
nhưng cũng có đôi điều nên nhớ lại. Chuyện đem ra tranh cãi chỉ là quan niệm và
sở thích về thơ.
Một bên lấy cảm hứng thơ phú làm trọng, khuyến khích
sáng tạo, đi tìm cái mới lạ, tuyên bố thẳng cái mới lạ thường là thiểu số, vượt
khỏi tầm hiện tại nên khó hiểu với số đông, xa lạ với số đông. Một bên lấy “nhập
thế” làm trọng, văn thơ phải gần gũi với quần chúng, với lòng người, dễ hiểu và
dễ cảm, hồn thơ phải gắn với hiện tình đất nước, nhất là khi đất nước đang lâm
vào 2 cái họa Nội xâm và Ngoại xâm.
Hai trường phái ấy dẫn đến xung đột nội bộ về nhân sự,
thành 2 nhóm người. Tình hình có vẻ như hai khuynh hướng “Văn học vị Nghệ
thuật và Văn học vị Nhân sinh” ngày xưa vậy.
Cách đây mấy tháng tôi nhận được thư của một vài bạn
bè phê phán chất lượng văn thơ rất “kỳ quái” trên trang Văn Việt và giải Văn Việt.
Tôi cũng nói qua về nhận xét đồng tình, nhưng tôi không chủ trương nói rộng ra
làm gì, chờ khi nào gặp anh em chủ trì Văn Việt tôi sẽ nói trực tiếp. Thế rồi rất
may, có dịp anh chị em Văn Việt mời tôi về chơi. Trong không khí vui cười thân
mật, nói linh tinh đủ mọi chuyện, tôi cũng nhắc đến nhận xét riêng của mình,
xin tóm tắt cho rõ hơn như sau:
Văn Việt đã làm được nhiều việc tốt, nhưng vì yêu mến
và kỳ vọng nên tôi muốn góp ý để Văn Việt đáp ứng tốt hơn điều kỳ vọng ấy. Tôi
thấy cái “gu” Văn học thì hơi “Tây” quá, mà “gu” chính trị thì còn Cải
lương quá! Về “Gu” văn học thì khác nhau là chuyện bình thường,
nên không phải là điều gì quan trọng, nhưng “gu” chính trị thì phải tương đối
thống nhất mới có sức mạnh (Xin nói thêm: Mọi người đều hiểu Văn đoàn “vì một
nền văn học VN tự do và nhân bản” được thành lập là đối lập với cái kiểu Hội
nhà văn do ĐCS lãnh đạo chặt chẽ làm xã hội mất Tự do và phi Nhân bản, vì văn học
gắn bó với chính trị-xã hội như vậy, chứ không phải chỉ vì một gu, một sở thích
thuần túy văn chương, nên số người tham gia mới đông đảo thế, đa dạng văn
chương thế, và kỳ vọng như thế).
Một khi ta đã đề cao con đường “Khai dân trí” của
Phan Châu Trinh thì đừng quên trong lĩnh vực Khai Dân trí cần nhớ 2 điều: Về
hình thức thì phải đại chúng để dễ đi vào dân, về nội dung thì phải gắn với hiện
tình đất nước đang bị hai quốc nạn: nạn Nội xâm độc tài làm mất quyền dân và nạn
Ngoại xâm từ Trung quốc. Nói Khai dân trí mà nói những chuyện cao siêu xa vời,
không gắn với thực tiễn xã hội, với thực tiễn chính trị, với hiện tình đất nước
thì Khái dân trí cái nỗi gì? Tôi lấy ví dụ bài thơ “Cướp” của Nguyễn Duy và 2
câu thơ của nhà thơ Phan Đắc Lữ (Còn quê từ thuở lên mười, mất quê từ
thuở làm người giữ quê), đều là thơ lục bát chứ tân kỳ gì
đâu mà ý tứ hoàn toàn mới mẻ, thức tỉnh Dân trí. Nhân dân cần những bài thơ như
thế, còn loại thơ phú tân kỳ, trúc trắc không vần điệu, không ai nhớ được
thì tôi vẫn tôn trọng nhưng xin dành riêng cho một số nhà thơ có sở
thích và có tài đi tìm cái độc đáo mà thôi.
(Xin kể thêm một chuyện: Có bạn thơ vừa gặp tôi,
than thở rằng các đại nạn xã hội hiện nay cũng là do trình độ dân Việt tồi tệ,
tổ tiên dân Việt tự rước vào, tổ tiên dân Việt đã gây bao điều ác, nên tuyệt vọng
thôi, đáng kiếp thôi. Tôi đồng ý với anh bạn nhiều điều, nhưng có điều tôi biết
ơn ông cha ta đã để lại cho chúng ta hai di sản quý báu là cái giang
sơn gấm vóc và cái ngôn ngữ tiếng Việt cũng rất gấm vóc. Nhưng hai di sản đó
đang bị tàn phá dữ dội, cả giang sơn lẫn ngôn ngữ. Tiếng Việt của
ta quá đẹp và trong sáng đang bị tàn phá kinh khủng, mà các nhà thơ cao siêu hiếu
kỳ cũng đang góp phần).
Có ý kiến “Văn Việt không làm Chính trị” nên tôi xin
nói rõ thêm về quan hệ giữa Văn học và Chính trị. Đúng, nhà văn không làm Chính
trị, nhưng nhà văn phải gắn bó máu thịt với cuộc sống, với xã hội, với con người.
Một khi cái Chính trị hiện hành của chế độ CS toàn trị đã bao phủ và chi phối
xã hội và con người đến tận hàng cùng ngõ hẻm, đến mọi sinh hoạt vật chất và
tinh thần, cả Văn hóa, Văn học, thì không ai thoát khỏi Chính trị đâu.
Một trí thức, một nhà văn mà tuyên bố xa lánh chính
trị thì chính là một sự lựa chọn chính trị, là hữu ý hoặc vô tình giúp cho cái
Chính trị hiện hành được tự do tiếp tục kiềm tỏa mọi mặt của xã hội. Trí thức
mà xa lánh Chính trị chính là đầu hàng Chính trị, ủng hộ cái Chính trị hiện
hành một cách giấu mặt mà thôi. Ngay nhu cầu của chúng ta ở đây phải hình thành
một Văn đoàn độc lập cũng không tách khỏi ý nghĩa chính tri và xã hội mà toàn
dân mong đợi (ĐCS nhạy cảm biết ngay ý nghĩa chính trị ấy nên ít nhiều đã gây
khó khăn và ngăn cản. Số đông anh em cảm thấy ý nghĩa chính trị ấy nên đã tấp nập
tham gia). Tôi nói Văn đoàn và các nhà văn không thể tách rời thực tiễn Chính
trị và ý thức Chính trị chứ không nói nhà văn phải là CÔNG
CỤ chính trị của ai cả, nhà văn chỉ thực hiện “mệnh lệnh” từ trái tim
và khối óc của chính mình mà thôi.
Chẳng những thế, nhà văn còn phải tỉnh táo để
không vô tình biến thành công cụ của một ý đồ chính trị đen tối nào đó,
đang muốn lợi dụng sự tranh luận và phân ly ý kiến của chúng ta hiện nay để triệt
phá xu hướng hình thành các tổ chức Xã hội dân sự mà nhà cầm quyền không muốn.
Mặt khác, bên ngoài công việc văn chương, mỗi nhà văn cũng như hội nhóm nhà văn
cũng là những công dân, phải thực hiện vai trò công dân của mình trong xã hội,
tham gia các hoạt động yêu nước và dân chủ tùy theo điều kiện của mình (việc
này Văn đoàn ta đã tham gia khá tốt). Tất cả các mặt ấy đều có liên hệ với
nhau, và ranh giới giữa chúng có thể chỉ như một sợi tóc, tất cả đều bắt
nguồn từ nhận thức, từ trái tim của mỗi người trí thức mà xã hội có thể dễ dàng
nhận ra và đánh giá được. Nếu giới trí thức tự coi mình là “thanh cao”,
không thèm quan tâm đến các chuyện “chính trị bẩn thỉu” thì đấy chính là
món quà tốt đẹp nhất mà các thế lực chính trị tồi tệ mong muốn, họ chỉ mong có
thế! Đã đành trong Chính trị có thể và phải dùng những thủ đoạn, nhưng về mục
đích thì có cái Chính trị nhơ bẩn và có Chính trị chân chính-ưu việt, không phải
mọi thứ Chính trị đều là bẩn thỉu.
Trong tinh thần cởi mở và xây dựng, tôi đã nói hết ý
mình, đã chứng minh cái thể trạng “Cải lương” của Văn Việt qua
hai chủ đề: Loạt bài về chủ đề “Thoát Trung là thoát bằng Văn hóa” và chủ đề về
Phan Châu Trinh.
– Về chuyện Thoát Trung bằng Văn hóa.
Thoát Trung là thoát một nạn Ngoại xâm, không có nền
Văn hóa nào lại chấp nhận Ngoại xâm cả, dù trong nước họ có cái bất bình đẳng
“Quân Sư Phụ”, họ thờ vua của họ, họ phục tùng giáo chủ hay lãnh chúa của họ
nhưng không phải vì thế mà họ cũng phục tùng và thờ ông vua của nước xâm lược!
Văn hóa tuy là yếu tố bao trùm, nhưng không phải
hành động nào của con người cũng phù hợp với cái nền văn hóa vốn có của họ, có
khi Văn hóa một đằng hành động một nẻo. Ví dụ ĐCSVN đã chống cái gọi là “văn
hóa phong kiến, tức Văn hóa cổ truyền” ngay từ khi Việt minh nổi dậy (đốt sách
vở chữ Nho, lấy Câu đối thờ ra làm cầu ao, chuồng lợn), nhưng rồi chính CSVN lại
chui vào tay bành trướng của Tàu, đó là sự lựa chọn chính trị, không phải do
Văn hóa cổ truyền của Việt Nam. Chính TBT ĐCSVN Nguyễn Văn Linh, vì nhu cầu
Chính trị của đảng đã đưa VN vào gọng kìm của Tàu (NVL nói đi với Tàu
có thể mất nước nhưng không mất Đảng), sự lựa chọn ấy không hề do nền Văn hóa
cổ truyền mà hoàn toàn ngược lại. Vậy muốn Thoát Trung là phải thoát cái mưu đồ
chính trị theo Tàu ấy chứ không phải thoát ly cái nền văn hóa !đồng văn đồng chủng”
với Tàu. Trong khi sứ thần Giang Văn Minh, anh hùng Trần Hưng Đạo rất trung
thành với văn hóa Nho giáo Quân-Sư-Phụ nhưng lại chống Tàu kịch liệt. CS miến Bắc
đốt hết sách Tứ thư ngũ kinh của Văn hóa cũ thì cuối cùng lại chui vào tay xâm
lược Tàu, trong khi chính quyền miền Nam vẫn tôn trọng văn hóa Quân-Sư-Phụ với
Tứ thư ngũ kinh lại quyết chống Tàu (cụ thể trận chiến Hoàng Sa 1974). Vậy nói
chống xâm lược Tàu mà chĩa mũi nhọn vào Văn hóa, vào cái 4000 năm là chệch.
Đáng lẽ sự chệch mũi dùi ấy phải do ĐCSVN khởi xướng mới đúng vì che lấp được sự
lựa chọn chính trị của ĐCSVN kết với ĐCS Tàu.
Lúc đầu khởi xướng chủ đề “Thoát Trung là thoát bằng
Văn hóa” rất chệch hướng như vậy cũng được (như một chiến thuật, chiến thuật
có khi giả vờ, đánh lừa), nhưng sau đó để anh em bổ sung, như ý tôi vừa phân
tích, để lái câu chuyện về trúng mục tiêu thì có phải tốt không, nhưng tôi gửi
một bài bổ sung như vậy thì trang Bauxite đăng ngay chứ Văn Việt không đăng,
Sai lầm hữu khuynh Cải lương chính ở chỗ ấy.
– Về Phan Châu Trinh:
Đề cao Phan Châu Trinh mà chỉ biết PCT như một nhà
văn hóa, nhà giáo dục với 3 khẩu hiệu Khai dân trí-chấn dân khí-hậu dân sinh
thì đấy chưa phải PCT! Phải biết tư tưởng PCT và con đường cứu nước PCT khác hẳn
tư tưởng và con đường cứu nước của Phan Bội Châu và Nguyễn Tất Thành.
Theo PCT, muốn chữa bệnh mà chỉ nhăm nhăm chữa ngay
triệu chứng chứ không tìm nguyên nhân thì là anh thợ vườn. Thấy bị nô lệ nên muốn
đánh ngay “thằng” Mẫu quốc để giành độc lập như PBC và Nguyễn Tất Thành thì chỉ
là chữa triệu chứng. PCT chỉ ra nguyên nhân là có sự chênh lệch lớn về tầm văn
minh nên VN mới là nước lạc hậu-nhược tiểu. Yếu ớt mà muốn thắng ngay kẻ mạnh
hơn mình gấp bội thì phải mượn sức của kẻ mạnh khác, xong việc thì kẻ mạnh ấy sẽ
lại ngồi lên đầu mình, “nhân dân vẫn chỉ là cái lưng con ngựa,
chỉ thay kẻ cưỡi mà thôi” (PCT). Con đường cứu nước PCT là hãy tạm gác
chuyện đòi độc lập, tạm thời dựa vào yếu tố văn minh của kẻ Mẫu quốc và của thế
giới văn minh để làm cho dân tộc mình mạnh lên, thay đổi được tầm văn minh để
có sức mạnh tự thân mà giành lấy độc lập thì sự độc lập ấy mới là trường cửu
(nhà thơ Thái Bá Tân đã có lần nhắc tới con đường cứu nước rất sáng suốt này của
Phan Châu Trinh).
PBC về sau đã
thấy chân lý ấy của PCT nhưng Nguyễn Tất Thành thì không thấy, cứ dựa vào sức mạnh
của cường quốc Cộng sản là Nga và Tàu để giành độc lập (mà giành từ tay người
VN chứ có giành từ tay Pháp hay Nhật đâu!) thì cái giá Bắc thuộc hiện nay là
câu trả lời đau đớn. Nếu theo đường PCT thì HCM không còn chỗ đứng!
Trong không khí cởi mở chân thành tôi say sưa nói hết
tâm sự ấy, vừa ăn liên hoan vừa nói chuyện, quên cả phép lịch sự xã giao và
không biết mình đang bị quay phim và ghi âm (do các bạn Sương Quỳnh, Ngô Thị
Kim Cúc và Nguyễn Hữu Tuyến).
Sau những phát biểu thẳng thắn như vậy, tôi cũng lo
không không biết có làm BBT Văn Việt mếch lòng hay không, nhưng rất mừng, thật
rất mừng khi đọc thấy trên FB nhà văn Ngô Thị Kim Cúc viết “Đúng tác phong một
nhà luận thuyết, anh Hà Sĩ Phu có cách giao tiếp đầy nồng nhiệt, tràn
ngập năng lượng kết nối, hệt như khi anh sử dụng ngôn từ”. Rồi sau đó
TS Hoàng Dũng cũng nói “Ý kiến khác nhau là chuyện bình thường, nhưng cần có
thái độ tôn trọng nhau thôi, không thể miệt thị nhau một cách thiếu văn
hóa”. Anh chị em trong BBT Văn Việt thật ân cần và gần gũi, tôi tán
thành và cảm ơn thái độ ứng xử rất đúng mực đó. Sau đó tôi cũng gặp lại nhà
báo Lê Phú Khải, góp ý với nhau rằng dù có ý kiến đúng cũng nên bình tĩnh, tôn
trọng lẫn nhau mới có thể tranh luận được hiệu quả.
Xem như vậy thì mâu thuẫn có thể coi như “không đáng
gì”, tại sao lại dẫn đến sự tức giận nhau đến mức phải phân ly? Và nếu chỉ do sự
khác nhau đơn thuần về cảm hứng thơ phú thì cứ tự tách ra thành những nhóm nhỏ
năm-bảy người thôi (như Tự-lực-văn-đoàn ngày trước), chẳng cần phải nặng lời.
Và nếu chỉ do nhu cầu cảm thụ văn chương thì nhà nước này cũng chẳng ngăn cản
làm gì đến mức phải lập hội riêng, dù văn chương kỳ quái gì cũng được, miễn là
không uy hiếp vào quyền toàn trị độc tôn của đảng. Đó là những dấu hỏi khiến ta
còn phải băn khoăn.
Xin xem mấy hình ảnh tranh luận rất vui vẻ trong buổi
gặp mặt. Ảnh trong FB Ngô Thị Kim Cúc:
*
Phần II: Mấy suy nghĩ vụn
1/ Có
đáng phải phân ly, hay hãy học Thiên nhiên mà dung hợp?
Thực tiễn đáng tiếc là đã bất hòa và đã phân ly, và
trường phái nào cũng cảm thấy sự tách rời nhau ra là cần thiết, là trước sau
cũng phải xảy ra, đã không giống nhau thì tách nhau ra là thượng sách!? Tôi
không nói tư duy ấy là sai, nhưng ý nghĩ ấy có thể là đúng chăng nữa thì cũng
là đúng theo kiểu cổ, chỉ tìm thấy sức mạnh ở sự thuần nhất. Từ yêu cầu thuần
nhất sẽ sinh độc tài, phủ nhật kẻ khác với mình, phủ nhận đối lập, và đó chính
là nguồn gốc dẫn đến chủ thuyết Cộng sản. Trong trường hợp của chúng ta ở đây,
tôi thấy bên nào cũng lên án bên kia là độc đoán kiểu CS đó thôi?
Ngược lại với tư duy ấy là tư duy mới, tư duy hiện đại,
tìm thấy sức mạnh ở sự không thuần nhất, ở sự phức tạp, thậm chí cả khi đối lập
nhau. Tư duy mới tiến triển theo 3 thời kỳ: từ thuần nhất tiến tới buộc phải chấp
nhận đối lập, rồi từ chỗ phải chấp nhận đối lập tiến tới tư duy tự thân cần có
đối lập cạnh tranh để làm sức mạnh cho mình tồn tại.
Tự mình cần kẻ đối lập với mình chính là tư duy vượt
thế kỷ mà Phan Châu Trinh đã “ngộ” ra cách đây một thế kỷ. Nếu theo đường Phan
Châu Trinh ấy thì không thể theo con đường của Nguyễn Ái Quốc là con đường Cộng
sản, là con đường cực đoan cổ lỗ, chỉ tìm sức mạnh ở sự thuần nhất và không chấp
nhận đối lập, lại mượn sức mạnh từ ngoại bang. Trong khi chủ nghĩa CS đối lập
nhà Tư sản với giới thợ thuyền, coi Tư sản như kẻ thù nên phải dùng đấu tranh
giai cấp “một mất một còn” để đánh đổ, thì Phan Châu Trinh tìm con đường “Lao-Tư
lưỡng lợi”, cả hai bên đối lập đều cùng nhau tồn tại để xã hội tiến lên, đó
cũng chính là nền pháp trị theo “Quốc tế 2” của các nước Bắc Âu dẫn đầu văn
minh thế giới hiện nay.
Xem như vậy, cả hai trường phái đối lập nhau trong
Văn đoàn Văn Việt hiện nay không nhất thiết phải phân ly nhau mới tồn tại, mà
có thể dung hòa nếu có một nhãn quan hiện đại rộng mở. Xã hội con người phải mất
nhiều nghìn năm mới tìm ra nguyên tắc “Dân chủ và Pháp trị” để dung hòa được
các mặt đối lập, chứ cấu tạo của thế giới tự nhiên đã phú cho sự đa nguyên hợp
tác ấy hình thành từ thượng cổ rồi: Cơ thể con người là sự chung sống
tuyệt vời giữa các yếu tố “bẩn thỉu” nhất, đầy cặn bã phải đào thải với cái cao
quý nhất, thiêng liêng nhất là trí tuệ cao siêu và tâm hồn thanh sạch nhất.
Thiên nhiên đã phú cho cơ thể con người một cơ chế hài hòa ăn khớp nhau tuyệt vời
giữa cái tưởng như bẩn thỉu nhất với cái thanh sạch nhất, dưới sự điều khiển thống
nhất của hệ thần kinh.
Trong thế giới tinh thần của mỗi con người cũng vậy,
cũng có những góc đối lập nhau, ví như những căn phòng chức năng rất khác nhau
của một ngôi nhà: có chỗ dành để nấu ăn, có chỗ dành cho toilette, có chỗ dành
để tiếp tân, có nơi thanh tịnh để ta thờ cúng hoặc nơi để nhà thơ thả hồn như
trong một tháp ngà. Vậy thì trong một hội Văn nghệ sao lại không có những
góc cho những tư duy thơ xuất thế và nhập
thế, tưởng như đối lập nhau nhưng thực ra đều là những phần
không thể thiếu của một xã hội đương đại? Có chỗ cho Hoàng Hưng thì
củng có chỗ cho Phạm Đình Trọng, Lê Phú Khải. Hội Văn hiện đại phải thừa
sức dung nạp như thế. Nhưng đã ngồi chung một nhà thì phải nói với nhau thế nào
có thể nghe được? Còn bó hẹp trong một sở thích văn chương thơ phú thì chỉ cẩn
nhóm dăm ba người tương hợp là đủ.
2/ Nội
dung thơ và hình thái ngôn ngữ
Chúng ta đều dùng tiếng Việt, nhưng mỗi loại văn, thậm
chí mỗi nhà văn có thể có ngôn ngữ riêng. Mỗi nội dung đòi hỏi một ngôn ngữ
thích hợp nhất để tải nó, một cách tự nhiên.
+
Nhà văn có khả năng mở rộng trường thể hiện của ngôn ngữ.
Thơ Đường luật của Tàu thì quá gò bó, nhưng ca dao-tục
ngữ của ta thì uyển chuyển, nói cho có vần và phối âm bằng trắc có thể diễn tả
từ sự êm ái mượt mà đến sự vạch trần khốc liệt mà vẫn dễ nghe, dễ thuộc. Ngôn
ngữ của tục ngữ-ca dao có thể mở rộng để bao phủ hết mọi cuộc thăng trầm của
dân tộc này.
Vạch trần khốc liệt nào bằng bài “Cướp” của Nguyễn
Duy mà chỉ dùng kiểu Lục bát ca dao thôi, nên tôi gọi Nguyễn Duy là ông “vua Lục
bát”:
Cướp xưa băng nhóm làng nhàng
cướp nay có đảng có đoàn hẳn hoi
có con dấu đóng đỏ tươi
có còng có súng dùi cui nhà tù
cướp xưa lén lút tù mù
cướp nay gióng trống phất cờ phóng loa
con trời bay lả bay la
cướp trên bàn giấy cướp ra cánh đồng
dân oan tuôn lệ ròng ròng
mất nhà mất đất nát lòng miền quê
tiếng than vang động bốn bề
cướp từ thôn xóm tiến về thành đô
ai qua thành phố Bác Hồ
mà coi cướp đất bên bờ Thủ Thiêm
bây giờ mẹ phải dặn thêm
quan tham là cướp cả đêm lẫn ngày. (Nguyễn Duy)
cướp nay có đảng có đoàn hẳn hoi
có con dấu đóng đỏ tươi
có còng có súng dùi cui nhà tù
cướp xưa lén lút tù mù
cướp nay gióng trống phất cờ phóng loa
con trời bay lả bay la
cướp trên bàn giấy cướp ra cánh đồng
dân oan tuôn lệ ròng ròng
mất nhà mất đất nát lòng miền quê
tiếng than vang động bốn bề
cướp từ thôn xóm tiến về thành đô
ai qua thành phố Bác Hồ
mà coi cướp đất bên bờ Thủ Thiêm
bây giờ mẹ phải dặn thêm
quan tham là cướp cả đêm lẫn ngày. (Nguyễn Duy)
Con
trời (!) bay lả bay la
cướp trên bàn giấy cướp ra cánh đồng
cướp trên bàn giấy cướp ra cánh đồng
Con
trời? Tài quá, thay chỗ Con cò để
cũng bay lả bay la, để ru con ngủ như không có gì xảy ra, nhưng Con trời nghĩa
là Thiên tử, là Vua đấy, Vua tập thể như một đàn cò, cò mồi ấy mà,
cứ dập dìu bay lả bay la mà cướp hết ruộng hết vườn để làm cò mồi, chiếm đất của
dân rồi trao hết cho các đại gia làm dự án kinh doanh và chia lãi! Vẫn mượt mà
ca dao quá, mà tố cáo được cái “tổ chức cướp cả đêm lẫn ngày” (từ sự cướp
chính quyền năm Ất Dậu), như vậy thì “Chính trị” quá rồi còn gì? Đây là ví dụ
điển hình trả lời câu hỏi Văn thơ có dính líu đến Chính trị hay không? Hình thức
cũ có diễn được tư duy mới hay không?
Giá trị thơ phú vẫn cốt ở nội dung, nội dung tầm thường
thì cái vỏ ngôn ngữ dù có trau chuốt cầu kỳ cũng là vô nghĩa. Tất nhiên việc
tìm tòi một ngôn ngữ mới, một màu sắc mới cũng là chức năng sáng tạo của Văn học,
nhưng trong thí nghiệm để khám phá, để thử sức thì những lời bình phẩm đa chiều
chính là thước đo khách quan.
+
Phan Đắc Lữ vốn thân quý nhà thơ Kinh Bắc Hoàng Cầm nên cũng lả lướt cánh cò ca
dao thôi:
Còn quê từ thuở lên mười
Mất
quê từ thuở làm người giữ quê!
Nhưng sao ngược đời thế nhỉ? Theo Đảng giữ quê nên mới
mất quê, sao lạ kỳ vậy? QUÊ ở đây không chỉ là đồng ruộng của dân oan bị cướp
mà chính là non sông nước Việt. Không có Cộng Sản thì nước Việt đã ở trong tay
người Việt rồi, làm sao phải cướp lấy để giữ (bảo Trần Trọng Kim thân Nhật!) mà
giang sơn bị CS giữ sổ đỏ nên sau chiến tranh CS Tàu mới xiết
nợ, cái món nợ mà CS Việt Nam phải vay để có sức đánh Tây, Tây trở lại được vì
VN đã thành CS! Giữ nước bằng cách nhờ vả cái “đại gia đình lừa đảo XHCN”
thì sẽ mất nước, đang mất nước. Dại dột tin vào tình nghĩa “anh cả Liên xô, chị
hiền Trung quốc” để giữ nước thí mất nước là “đáng kiếp”, không oan. Cái
lô-gich chính trị oái oăm gần một thế kỷ ấy được nhà thơ diễn đạt bằng giọng ca
dao rất hiền lành, bình cũ mà rượu mạnh thật mới. Hỏi Văn học có liên quan đến
Chính trị không?
+
Không thể không nhắc đến Thái Bá Tân, nhà thơ 5 chữ cổ điển (ngày còn bé tôi có học “Ấu học ngũ ngôn thi” chữ Nho, loại thơ 5
chữ cho trẻ con). Bình quá cũ mà rượu quá mới, đến mức dạy người ta phải biết “Địt
mẹ Tòa” (!), bởi cái Tòa ấy ngồi xổm lên pháp luật chân chính, chỉ phục vụ
và bợ đít kẻ cầm quyền. Âm rất tục mà Tâm rất thanh (Bộ máy tư pháp ấy, Đáng
chửi gấp nghìn lần, Chỉ giỏi nâng bi đảng, Gây oan ức cho dân, Đừng nhắc đến
công lý, Với tòa án nước ta, Tôi, bị đem ra xử, Cũng nói:”Địt mẹ tòa!”). Lời
văng tục, rất tục giữa chốn công đường có cả Quốc huy như thế mà được coi là “bản
Tuyên ngôn vĩ đại”, là “lời thơ đẹp nhất” của nhân dân! Mượn ngôn ngữ
thơ rất cũ mà chuyển tải cái tư duy Dân quyền hiện đại nhất thời nay. Trong khi
có những bài thơ mượn hình thức ngôn ngữ tân kỳ nhất lại không dám làm, và
không làm được những điều lớn lao ấy.
+
Tôi cũng lại mạn phép được thú nhận cái tội rất chính trị của mình (HSP) qua
cái thói hay làm Câu đối Tết, một hình thức Văn
học quá “cổ lỗ” đến mức hiện nay chẳng mấy nhà thơ còn dùng.
Năm ấy vừa xảy ra vụ án Đoàn Văn Vươn Hải phòng, đại
tá công an Đỗ Hữu Ca đã ca ngợi trận đánh dân oan của liên quân Công an-Quân đội
và chó Berger rằng đó là “trận đánh đẹp đáng ghi vào sử sách”. Tôi nhại lời Hữu
Ca để ra một vế thách đối:
* Đánh cho Dân tộc tan hoang, trận đánh đẹp
phải ghi vào Lịch sử! (ĐCSVN chỉ có một chiến công lớn nhất là
đánh cho tan hoang Dân tộc VN, cái điều mà 1000 năm Bắc thuộc và 80 năm Pháp
thuộc không làm được).
Mấy hôm sau trên Dân làm báo có vế đối lại:
* Tiêu (chết) vì
chiêu bài giải phóng, lính đánh thuê sao gọi đấy Anh hùng? (chết
vì coi sự thắng lợi của CS, một kẻ lạc hậu hơn, dã man hơn, là cuộc Giải phóng miền
Nam! Chủ nghĩa CS đã là sai lầm, là tai họa cho đất nước thì những người bị lừa,
tin vào con đường ảo tưởng mà hy sinh thân mình để giúp cho ĐCS được lên ngôi
báu trị dân, thì đó là những cái chết oan uổng, khác gì cái chết của những lính
đánh thuê, sao gọi là những Anh hùng được?). Cả cuộc chiến 20 năm, và lịch sử
ngót một thế kỷ được tóm lại như thế.
Lại đến cái Tết Con Chó (Mậu Tuất 2018), nhân đi dạo
công viên hoa Đà Lạt, thấy có nhiều hoa màu sắc sang trọng, nhiều hoa do lai tạo
mà có, Đà Lạt thật xứng danh là xứ sở của hoa, tôi bèn ra vế đối:
*
Xứ này thành xứ của Hoa, Hoa cho sắc đã sang, Hoa được Trọng, Hoa
càng cho sắc nữa! (Đúng như vậy
chứ, xứ Đà Lạt này thành xứ sở của hoa, hoa đã cho những màu sắc sang trọng, nếu
biết tôn trọng vẻ đẹp của hoa mà vun trồng, lai ghép thì hoa còn cho đời nhiều
hương sắc hơn nữa!).
Nhưng ít lâu sau, có kẻ thóc mách bảo HSP định nói
thế này: Xứ VN này thành xứ của Tàu (Hoa) rồi, tên Chó (cho sắc) người Hoa đã
sang VN (tức Tập Cận Bình), tên chó Hoa đó mà vớ được anh Trọng thì nó còn Chó
hơn nữa đấy! Lời suy diễn dù rất “phản động” ấy, tôi cũng đành chịu, không cãi
được, vì cái ngôn ngữ tiếng Việt rất đa nghĩa, ngôn ngữ câu đối xưa nay vốn ít
chữ mà nhiều nghĩa, hiểu sao chẳng được? Tôi bị quy chính trị oan thế mà phải
chịu.
3/ Chân
lý là cụ thể
Khi học triết học, tôi chú ý nhất đến lời dạy: Chân
lý là cụ thể! Đáng chú ý bởi đó là lời nói ngược: Chân lý thực ra
không phải là cái Cụ thể! Chân lý là các quy luật chung, là cái Trừu tượng,
do óc tổng hợp của con người khái quát ra, đúc kết ra từ muôn vàn hiện tượng cụ
thể. Nhưng muốn hiểu và vận dụng quy luật chung trừu tượng ấy một cách đúng đắn
lại phải đặt nó trở lại thực tế, vào những điều kiện cụ thể, hoàn cảnh cụ thể,
đó là mối quan hệ thuận nghịch giữa Chân lý và Thực tiễn. Tất cả những giá trị
cao quý của Văn học mà nhà văn ôm ấp sẽ là vô nghĩa nếu không sống trực tiếp với
thời đại cụ thể của mình, hoàn cảnh cụ thể của dân tộc mình, giải quyết những vấn
đề cụ thể của mình và của đất nước mình!
Hoàn cảnh cụ thể của đất nước ta đang như thế nào,
có phải đang thời kỳ thái bình thịnh trị như tuyên truyền không, các thi sĩ VN
đã có thể sống ung dung an lạc trong tháp ngà cá nhân như ở các nước Âu Mỹ đã
văn minh không, hay tất cả đang sống trong một thời kỳ biến động, loạn ly, tiềm
ẩn những tai họa có tính diệt vong?
Văn học và Nhà văn không thể có giá trị vĩnh cửu nào
hết nếu không đằm mình trong hoàn cảnh lịch sử cụ thể ấy. Tôi tin Văn đoàn Văn
Việt khi thành lập đã mang được trong mình ý thức ấy, trách nhiệm ấy. Đó là cơ
sở để tôi tin vào khả năng hóa giải mọi điều còn khuyết, còn nhược, còn phân
ly. Bởi trước một vận mệnh đất nước đang chênh vênh như thế thì mọi việc khác đều
là chuyện nhỏ. Trí thức, văn nghệ sĩ phải đoàn kết lại, thành sức mạnh góp phần
làm chuyển hóa tỉnh hình. Trong lời bàn chung tôi và GS Nguyễn Huệ Chi cứ ước
mong các trí thức hãy tìm những điểm tương đồng để làm những phép CỘNG, cộng
ngày càng nhiều, chớ khai thác những dị biệt để làm những phép TRỪ, cũng là bởi
một tâm tư như thế.
Khi học chương trình “Giải phẫu nhân thể”
trong trường Đại học, tôi càng nghiệm ra rằng: Trong cơ thể con người, trái tim
thánh thiện và khúc ruột già chứa cặn bã thối tha cũng chỉ cách nhau chưa đầy nửa
mét, mà đoạn nối hai thái cực này cũng toàn là xương cốt và máu thịt cả thôi. Sự
sống thực hiện sự liên kết- phối hợp đa nguyên một cách thần kỳ.
Lại nữa, ở con người, nơi để nói và nơi để nghe, tai
và miệng chỉ cách nhau gang tấc, mà sự phối hợp cho thật đúng con người cũng rất
gian nan. Làm sao để nói thì nói đúng tiếng lòng của mình, nhưng nghe thì sao
được thật tinh, nghe thấu lời người khác, nhất là những lời khác mình, không mấy
thuận tai. Có thế nhân quần mới thành sức mạnh.
Trót học ngành Sinh học nên như bệnh nghề nghiệp,
tôi cứ suy nghĩ lan man, quanh cái cơ thể vô duyên của mình, toàn chuyện nực cười
như vậy.
H. S. P. (6/8/2019)
--------------------------------
CÙNG CHỦ ĐỀ
Nguyên
Ngọc - 31/07/2019
Inrasara
-
01/08/2019
Đặng
Văn Sinh - 03/08/2019
Hà
Sĩ Phu - 07/08/2019
No comments:
Post a Comment