Eva Pejsova - Viện nghiên cứu Đông Nam Á (ISEAS)
Trần
Quang (gt)
Thứ Tư, 10 Tháng 7 2019 15:23
Yêu cầu của EU đòi phải được thừa nhận là một bên
tham gia về chính trị và an ninh ở châu Á không phải là mới. Tham vọng của họ
có một ghế tại EAS và gần đây hơn là địa vị quan sát viên tại Nhóm chuyên gia
ADMM+ là chủ đề của nhiều cuộc thảo luận, xoay quanh đòi hỏi chính là thừa nhận
giá trị thực tế của EU đối với an ninh khu vực. Bởi vậy, việc xem xét kỹ lưỡng
các chính sách và hành động của EU ở Biển Đông là điều hợp lôgích.
Tóm tắt
- Liên minh châu Âu (EU), khối thương mại lớn nhất
thế giới, có lợi ích sống còn trong việc duy trì một khu vực Biển Đông tự do,
an toàn và ổn định. Trong quá khứ, EU thường bị cáo buộc “ngồi không hưởng lợi”
trước các nỗ lực của Mỹ, gần đây họ đã trở nên chủ động hơn – kết quả của chính
sách đối ngoại thực dụng hơn của tổ chức này, sự cảnh báo lớn hơn đối với khả
năng gây gián đoạn của Trung Quốc và tham vọng gia tăng ảnh hưởng an ninh của
nước này ở châu Á.
- Trong khi lập trường của Brussel đối với vấn đề Biển
Đông bắt nguồn từ cam kết theo nguyên tắc đối với pháp quyền, những chia rẽ giữa
các nước thành viên đã ngăn cản EU đưa ra một chính sách thống nhất và gắn kết
đối với những điểm nóng an ninh đang bùng cháy của khu vực.
- Do nhiều hạn chế về cơ cấu và hoạt động của mình,
đóng góp của châu Âu trong việc giảm bớt căng thẳng khu vực diễn ra dưới hình
thức các biện pháp an ninh đa dạng hóa, có giới hạn ở cấp hai khu vực
(EU-ASEAN) và đa phương (trong nội bộ ARF).
- Sự hiện diện và các hoạt động quân sự của hải quân
Pháp và Anh trong các vùng biển khu vực phục vụ những lợi ích của EU và chứng
minh cho những lo ngại ngày càng tăng ở châu Âu đối với việc tôn trọng quyền tự
do hàng hải (FON) và việc áp dụng chung luật pháp quốc tế.
- Khi EU nỗ lực có được địa vị quan sát viên tại Hội
nghị Bộ trưởng quốc phòng ASEAN mở rộng (ADMM+), việc xây dựng khả năng, chia sẻ
kinh nghiệm và cách làm tốt nhất trong các lĩnh vực an ninh hàng hải phi truyền
thống thiết thực vẫn là những nền tảng cho việc tăng cường sự hợp tác an ninh
chính trị với Đông Nam Á.
Giới thiệu
EU luôn có lý do để quan tâm đến các diễn biến ở Biển
Đông. Khối thương mại lớn nhất thế giới này có lợi ích kinh tế sống còn trong
việc bảo vệ các hành lang vận chuyển bằng tàu tự do, an toàn và ổn định, đặc biệt
là các hành lang nối khu vực này với các “nhà máy điện” kinh tế ở Đông Á. Các
nước Đông Bắc Á tạo nên thị trường xuất khẩu và là nguồn FDI quan trọng nhất của
EU, với Trung Quốc là đối tác thương mại lớn thứ hai của khối, và chỉ riêng
thương mại với Nhật Bản chiếm 25% GDP toàn cầu. EU cũng là đối tác thương mại lớn
thứ hai của ASEAN, và ASEAN là đối tác thương mại lớn thứ ba của EU.
Ngoài lợi ích kinh tế, Brussels cũng có những cam kết
pháp lý và chính trị đối với sự ổn định khu vực, bắt nguồn từ việc EU tham gia
Hiệp ước thân thiện và hợp tác (TAC) năm 2012 và trở thành thành viên của Diễn
đàn khu vực ASEAN (ARF). Cuối cùng và quan trọng nhất là lý do căn bản đằng sau
các tranh chấp Biển Đông: Chủ nghĩa đơn phương của Trung Quốc và mối đe dọa mà
nước này gây ra cho trật tự toàn cầu dựa trên nguyên tắc đã khiến châu Âu, tự đặt
mình vào vị trí là một siêu cường quy chuẩn, phải cảnh giác.
Trong khi có rất nhiều lý do giải thích cho lợi ích
của EU ở Biển Đông, những hành động của họ lại ít rõ ràng hơn. Thiếu các nguồn
lực quân sự phù hợp, EU chủ yếu được coi là “một đối tác về giá trị”, chỉ có thể
có những đóng góp hạn chế cho “câu đố” an ninh khu vực. Hơn nữa, tiềm năng của
khối này lại bị xói mòn do khó khăn của các nước châu Âu trong việc duy trì một
lập trường thống nhất mạnh mẽ đối với Trung Quốc, như có thể được thấy trong phản
ứng yếu ớt của EU đối với phán quyết của Tòa Trọng tài (PCA) hồi tháng 7/2016.
Nhưng rất nhiều điều đã thay đổi kể từ năm 2016.
Brussels đã trở nên cảnh giác hơn trước tiềm năng gây gián đoạn của Trung Quốc
và thực hiện một chính sách đối ngoại thận trọng hơn. Một số diễn biến bên
trong cũng như bên ngoài đã thúc đẩy sự hợp nhất về an ninh và phòng thủ của
EU, tăng cường uy tín của tổ chức này với tư cách là bên tham gia an ninh toàn
cầu.
Khi EU mong muốn có được địa vị quan sát viên tại diễn
đàn ADMM+ và Hội nghị cấp cao Đông Á (EAS), điều quan trọng đối với họ là đánh
giá lại đóng góp của mình đối với an ninh khu vực – và trường hợp Biển Đông là
một nghiên cứu tình huống hữu ích. Lập trường của EU là rõ ràng ở ba cấp độ. Thứ
nhất là một số nước thành viên gia tăng hoạt động trên biển trong việc bảo vệ
quyền tự do hàng hải (FON). Thứ hai là tiến hành nhiều cuộc đối thoại và hoạt động
tăng cường năng lực với ASEAN và từng nước Đông Nam Á trong các vấn đề an ninh
hàng hải phi truyền thống mang chức năng khác nhau. Cuối cùng, châu Âu tiếp tục
là bên có sức nặng quy chuẩn toàn cầu, điều có thể là một trong những tài sản lớn
nhất của họ xét tới trật tự dựa trên nguyên tắc quốc tế mong manh hiện nay.
Giữa nguyên tắc và thực tiễn
Như với hầu hết các bên tham gia quốc tế không có
tuyên bố chủ quyền ở Biển Đông, EU không đứng về bên nào trong các tranh chấp
và duy trì lập trường “trung lập có nguyên tắc” đối với các vấn đề chủ quyền.
Là một bên tham gia có sức nặng quy chuẩn và là bên tham gia ký kết Công ước
Liên hợp quốc về Luật biển (UNCLOS), Brussels luôn khẳng định tầm quan trọng của
luật pháp quốc tế, thúc đẩy các sáng kiến hợp tác và hối thúc các bên tuân thủ
chuẩn mực và nguyên tắc quốc tế để giải quyết hòa bình các tranh chấp.
Lập trường này được phản ánh dưới các hình thức khác
nhau trong tất cả các tuyên bố và văn kiện chính thức của EU liên quan đến châu
Á hay an ninh hàng hải nói chung. Năm 2012, Đường lối chỉ đạo chính sách Đông Á
khuyến khích các giải pháp hòa bình cho các tranh chấp, hối thúc Trung Quốc và
ASEAN nhất trí về Bộ quy tắc ứng xử (COC) mang tính ràng buộc pháp lý. Chiến lược
an ninh hàng hải EU 2014 xây dựng dựa trên sự tôn trọng luật pháp quốc tế, tuân
thủ đầy đủ UNCLOS cũng như quyền tự do hàng hải, coi đó là cơ sở cho môi trường
toàn cầu ổn định.
Cuối cùng, Chiến lược toàn cầu EU (EUGS) hiện nay,
được công bố hồi tháng 6/2016, cam kết một cách cụ thể “ủng hộ tự do hàng hải,
kiên trì tôn trọng luật pháp quốc tế, trong đó có Luật biển và các thủ tục tố tụng
của nó, khuyến khích giải quyết hòa bình các tranh chấp biển”. Chiến lược này
cũng nhấn mạnh sự cần thiết phải “xây dựng năng lực biển và hỗ trợ một cơ cấu
an ninh khu vực do ASEAN dẫn đầu”.
Những nguyên tắc này được phản ánh bao nhiêu trong
chính sách đối ngoại của EU? Việc EU không ủng hộ mạnh mẽ phán quyết của PCA đối
với vụ Philippines kiện Trung Quốc hồi tháng 7/2016 – chỉ vài tuần sau khi EUGS
được công bố - là điều gây thất vọng. Sau một loạt tuyên bố ủng hộ luật pháp quốc
tế của Cao ủy phụ trách chính sách đối ngoại Liên minh châu Âu Federica
Mogherini trước khi phán quyết được đưa ra (cả mang tính cá nhân lẫn trong nội
bộ G7), tuyên bố chính thức cuối cùng của Brussels đã bị suy yếu bởi những khác
biệt giữa các nước thành viên vốn lo ngại về việc gây phương hại cho mối quan hệ
của họ với Bắc Kinh.
Phải chăng Brussels đã thất bại trong bài kiểm tra về
khả năng của họ trong việc đóng vai trò lớn hơn về an ninh ở châu Á? Mặc dù quả
thật nó phần nào đã làm xói mòn uy tín của EU là một bên tham gia có sức nặng
quy chuẩn, nhưng nó cũng là một hồi chuông cảnh tỉnh hữu ích, đưa đến một cuộc
tranh cãi công khai hết sức cần thiết trên toàn khu vực. Chính sách đối ngoại
và các hoạt động theo chủ nghĩa trọng thương của Trung Quốc đã phá hoại sự thống
nhất và cố kết chính trị của châu Âu. Nhưng dù sao, nó cũng góp phần mở đường
cho một chính sách đối ngoại thận trọng và chủ động hơn.
Các mối quan hệ song phương với Bắc Kinh và những lợi
ích của cá nhân các nước thành viên tiếp tục chi phối mạnh mẽ việc ra quyết định
của EU. Vấn đề châu Âu bán vũ khí cho các nước có tuyên bố chủ quyền của Đông
Nam Á và chuyển giao công nghệ lưỡng dụng cho Trung Quốc – có thể được cho là
góp phần tăng cường sức mạnh quân sự ở Biển Đông, làm rõ hơn nữa sự mơ hồ trong
chính sách của Brussels đối với các điểm nóng khu vực.
Tuy nhiên, một sự thay đổi đang diễn ra tiến tới
cách tiếp cận có cơ sở, thực tế hơn đối với các vấn đề toàn cầu, như được thể
hiện trong EUGS và các nguyên tắc chỉ đạo của nó. Chẳng hạn như, cái mà một số
người gọi là “chính sách chính trị thực dụng mang đặc điểm châu Âu”, khái niệm
“chủ nghĩa thực dụng theo nguyên tắc” đã hạ thấp mức độ tham vọng liên quan đến
việc thúc đẩy dân chủ hóa, và thừa nhận tầm quan trọng của sức mạnh cứng, hối
thúc cần có quyền tự trị chiến lược lớn hơn đối với EU. Trong bối cảnh Biển
Đông, điều này về cơ bản có nghĩa là để EU tiếp tục can dự với Trung Quốc đồng
thời duy trì sự đàm luận theo quy chuẩn và ngầm ủng hộ các hành động quân sự của
các nước thành viên Liên minh.
Những nguyên tắc khác của Chiến lược toàn cầu cũng
được phản ánh trong cách tiếp cận đa dạng hóa của EU đối với vấn đề Biển Đông,
chẳng hạn như cần xây dựng “tính kiên cường” ở các đối tác nước ngoài (việc xây
dựng năng lực của các nước Đông Nam Á), ủng hộ “trật tự khu vực mang tính hợp
tác” (sự hội nhập chính trị và an ninh của ASEAN) và “có đóng góp thực tế lớn
hơn” cho an ninh hàng hải khu vực.
Mọi người vì một người, một người vì mọi người
Bất chấp sự hội nhập gia tăng về an ninh và phòng thủ
kể từ năm 2016, EU vẫn còn lâu mới đạt được ước mơ lịch sử của mình là có một
“quân đội châu Âu”. Với trường hợp ngoại lệ là các phái đoàn quân sự ngẫu hứng
(hiện là EUNAVFOR SOPHIA ở Địa Trung Hải và EUNAVFOR ATALANTA ngoài khơi bờ biển
Somali), EU không phải là một nhà nước độc lập và không có bất kỳ lực lượng hải
quân thường trực nào.
Nhận thức được những hạn chế trong hoạt động, Chiến
lược an ninh hàng hải EU công khai khuyến khích các nước thành viên “đóng vai
trò chiến lược trong việc đem lại tầm với toàn cầu, tính linh hoạt và khả năng
tiếp cận”cho Liên minh, và sử dụng các lực lượng vũ trang của mình để “hỗ trợ
quyền tự do hàng hải và đóng góp cho sự quản trị toàn cầu bằng cách răn đe,
ngăn chặn và chống lại các hoạt động bất hợp pháp”. Hai trong ba nước thành
viên có năng lực hải quân viễn dương hiện can dự tích cực vào việc bảo vệ FON ở
Biển Đông.
Pháp, với các vùng lãnh thổ trải khắp Ấn Độ
Dương-Thái Bình Dương, vùng đặc quyền kinh tế (EEZ) 9 triệu km2, sự hiện diện
quân sự thường trực ở New Caledonia và Polynesia thuộc Pháp, tự coi mình là một
bên tham gia an ninh hàng hải khu vực hợp pháp, “đủ lông đủ cánh”. Thường xuyên
quá cảnh tại các vùng biển khu vực, kể từ năm 2016 Paris đã và đang lớn tiếng ủng
hộ việc bảo vệ FON, sau khi Bộ trưởng Quốc phòng khi đó là Jean-Yves Le Drian
chỉ rõ tác động nguy hiểm của hành vi của Trung Quốc ở Biển Đông và xa hơn nữa,
trong đó có Bắc cực và Địa Trung Hải.
Ngoài việc bảo vệ các lợi ích chiến lược của riêng
nước Pháp, Le Drian hối thúc châu Âu đóng vai trò chủ động hơn nữa trong khu vực,
khuyến khích các lực lượng hải quân “phối hợp nỗ lực nhằm đảm bảo sự hiện diện
thường xuyên và rõ ràng trong lĩnh vực hàng hải của châu Á”. Trong một động
thái mang tính tượng trưng, sứ mệnh Jeanne d’Arc, được thực hiện hồi tháng
4/2017, bao gồm 52 nhân viên Hải quân Hoàng gia, 12 sĩ quan của các nước châu
Âu khác nhau và một quan chức EU (Chủ tịch Ủy ban châu Âu phụ trách khu vực
châu Á-Thái Bình Dương), tiến hành hoạt động đi qua Biển Đông.
Năm 2018, Bộ trưởng Quốc phòng Pháp Florence Parly
cam kết tiếp tục các cuộc diễn tập, gia nhập lực lượng với Anh, chia sẻ “tầm
nhìn, giá trị và sự sẵn sàng đạt được các mục tiêu đó”. Cả hai nước cũng chia sẻ
các mối quan hệ đối tác phòng thủ chặt chẽ với Ấn Độ, Nhật Bản, Úc và Mỹ. Bất
chấp khả năng Anh rời khỏi EU, những lợi ích an ninh của nước này vẫn gắn chặt
với các lợi ích của châu Âu. Anh cũng ràng buộc về hợp tác phòng thủ với Pháp bởi
các hiệp định Lancaster House 2010.
Anh, cũng là “ngôi nhà” của các vùng biển khu vực và
là thành viên tích cực trong FPDA (Hiệp định phòng thủ 5 nước gồm Anh, úc, New
Zealand, Malaysia và Singapore), gần đây hơn đã có sự hiện diện nước ngoài ở Biển
Đông, với việc hồi tháng 8/2018 triển khai 3 tàu nhằm phát đi “những tín hiệu mạnh
mẽ nhất” về tầm quan trọng của tự do hàng hải. Việc duy trì một trật tự quốc tế
dựa trên nguyên tắc có ý nghĩa sống còn đối với sự tồn tại của nước Anh trong
thế giới hậu Brexit. Chiến lược “nước Anh toàn cầu” cần tăng cường hợp tác quốc
phòng thủ với các đối tác châu Á-Thái Bình Dương nếu Anh muốn làm yên lòng họ về
cam kết lâu dài của mình đối với an ninh khu vực và các giá trị chung.
Trong khi động lực thúc đẩy và hình thức các hoạt động
FON của Pháp và Anh khác nhau, họ gửi đi cùng một thông điệp, đáp ứng những lợi
ích của tất cả các nước thành viên EU. Do những căng thẳng gia tăng ở Biển Đông
kể từ đầu năm 2019, việc các nước có cùng tư tưởng hình thành một mặt trận thống
nhất bảo vệ FON và tuân thủ luật pháp quốc tế chung được coi là điều quan trọng.
Mặc dù Brussels và Washington có thể khác nhau về lập trường và cách đối xử hiện
nay của họ với Trung Quốc, nhưng họ đều có chung lợi ích trong việc duy trì một
môi trường hàng hải toàn cầu tự do, dựa trên nguyên tắc.
Hơn bao giờ hết, quyết tâm này có thể được cảm nhận ở
Đối thoại Shangri-La mới đây. Trong bối cảnh đối địch công khai giữa Mỹ và
Trung Quốc, các đại diện từ Paris, London và Brussels đều phát tín hiệu thể hiện
sự quan tâm mạnh mẽ và vai trò của châu Âu trong sự ổn định khu vực. Trong một
bài phát biểu hùng hồn, Bộ trưởng Quốc phòng Pháp Parly đã tái đảm bảo sự kiên
trì của Pháp trong việc bảo vệ quyền tự do của các vùng biển khu vực và cam kết
sẽ gia tăng nhiều lần các hành động của Pháp tại Biển Đông. Bằng việc đến
Singapore với tàu sân bay Charles de Gaulle và một đội tàu tấn công đầy đủ,
Pháp đang tìm cách nhấn mạnh uy tín và ý định của mình là “nói đi đôi với làm”.
Không chỉ là vẻ bề ngoài
Mặc dù tàu chiến trở thành tin tức hàng đầu và các
cuộc tập trận hải quân có tầm quan trọng then chốt mang tính biểu tượng, nhưng
FON không phải là vấn đề duy nhất ở Biển Đông. Tình trạng bế tắc về ngoại giao
do những tranh chấp chủ quyền chưa được giải quyết, việc khai thác cá quá mức,
đánh bắt cá bất hợp pháp, không thông báo và vô nguyên tắc (IUU), tận diệt môi
trường tự nhiên biển và nhìn chung thiếu sự quản lý chỉ là một vài ví dụ về những
thách thức không thể giải quyết được thông qua biện pháp quân sự.
Nếu châu Âu trên thực tế đóng góp vào sự ổn định khu
vực, thì họ sẽ phải tận dụng tốt nhất kinh nghiệm mở rộng của mình trong việc
ngăn chặn khủng hoảng, giải quyết hòa bình các tranh chấp, cùng tham gia phát
triển các nguồn lực, đưa ra ý kiến chuyên môn về luật pháp quốc tế và quản trị
tốt trên biển. Tăng cường năng lực và chia sẻ cách làm tốt nhất trong tất cả
các lĩnh vực trên chính là thứ mà châu Âu phải làm và cố gắng làm: cả ở cấp độ
đa phương, với ASEAN và trong nội bộ ARF, cũng như với mỗi nước Đông Nam Á.
Tuy nhiên, ASEAN vẫn là bên đối thoại chính. An ninh
hàng hải là ưu tiên then chốt trong việc tăng cường hợp tác chính trị và an
ninh trong Kế hoạch hành động ASEAN-EU 2018-2022, nhấn mạnh tầm quan trọng của
pháp quyền, FON và việc giải quyết hòa bình các tranh chấp cùng với những vấn đề
khác. Kể từ năm 2013, EU đã tổ chức 5 vòng Đối thoại cấp cao EU-ASEAN về hợp
tác an ninh hàng hải, giải quyết vấn đề an ninh cảng biển, thực thi pháp luật
trên biển, quản lý tài nguyên biển và ngăn chặn xung đột. An ninh hàng hải, ngoại
giao phòng ngừa và trung gian hòa giải là tâm điểm của các cuộc hội thảo
EU-ASEAN về vấn đề an ninh và phòng thủ được trường Đại học An ninh và Phòng thủ
châu Âu (ESDC) tổ chức hàng năm kể từ năm 2014. Cuối cùng, Công cụ đối thoại
EU-ASEAN khu vực tăng cường (E-READI) là một nền tảng khác nhằm thúc đẩy sự hội
nhập chính trị-an ninh của ASEAN, tập trung cụ thể hơn vào chính sách ngư nghiệp,
đánh bắt cá IUU và môi trường tự nhiên biển.
Trong năng lực hiện nay với tư cách là đồng chủ tịch
Nhóm giữa kỳ ARF về an ninh hàng hải (cùng với Việt Nam và Úc), EU đã và đang tổ
chức một loạt hội thảo về thực thi pháp luật trên biển, thúc đẩy chia sẻ cách
thức hành động tốt nhất và các biện pháp cụ thể để giảm bớt căng thẳng khu vực,
tăng cường nhận thức về biển (MDA), mối liên hệ giữa đất liền và biển, dân sự
và quân sự (cách tiếp cận toàn diện của EU đối với việc giải quyết khủng hoảng
trên biển) và đánh bắt cá IUU.
An ninh hàng hải và ngăn chặn xung đột nằm trong số
những ưu tiên hàng đầu của EU khi làm việc với từng nước đối tác Đông Nam Á. Hợp
tác với Việt Nam đặc biệt “cất cánh” kể từ năm 2012. Là một phần của việc làm
sâu sắc các mối quan hệ song phương, “Bộ phận đối thoại chiến lược EU-Việt Nam”
đã tổ chức các cuộc hội thảo cấp cao quốc tế hàng năm về vấn đề an ninh hàng hải,
giải quyết các tranh chấp lãnh thổ cụ thể và chia sẻ kỹ năng và cách làm tốt nhất.
Cuối cùng, giá trị quy chuẩn của châu Âu không nên bị
đánh giá thấp. Nếu việc bảo vệ một trật tự dựa trên nguyên tắc toàn cầu là lợi
ích chiến lược rõ ràng, thì sự can dự của nó vào việc thúc đẩy quản trị đại
dương quốc tế lại ít được biết đến. Năm 2016, EU đã đi đầu trong việc thực hiện
Chương trình nghị sự phát triển bền vững 2030 của Liên hợp quốc và Mục tiêu
phát triển bền vững (SDG) 14 (“chương đại dương”) trên toàn cầu. Mặc dù các vấn
đề như chính trị yếu kém, quản lý mang tính cộng tác, dựa trên hệ sinh thái đối
với các nguồn tài nguyên biển sống, cùng nghiên cứu và thu thập dữ liệu, cũng
như hợp tác để bảo vệ môi trường biển giàu có của Biển Đông, không chỉ có ý
nghĩa sống còn đối với việc duy trì Biển Đông, chúng còn ngày càng được thừa nhận
về khả năng làm giảm bớt căng thẳng khu vực.
Kết luận
Yêu cầu của EU đòi phải được thừa nhận là một bên
tham gia về chính trị và an ninh ở châu Á không phải là mới. Tham vọng của họ
có một ghế tại EAS và gần đây hơn là địa vị quan sát viên tại Nhóm chuyên gia
ADMM+ là chủ đề của nhiều cuộc thảo luận, xoay quanh đòi hỏi chính là thừa nhận
giá trị thực tế của EU đối với an ninh khu vực. Bởi vậy, việc xem xét kỹ lưỡng
các chính sách và hành động của EU ở Biển Đông – điểm nóng an ninh nghiêm trọng
nhất của khu vực – là điều hợp lôgích.
Trong thời gian dài, lập trường của ASEAN đối với tư
cách thành viên của EU tại các diễn đàn này là nghi ngờ về sự gắn kết của Liên
minh, do thành tích không may mắn của nó là hứa quá nhiều mà không làm được bao
nhiêu. Hơn nữa, bị lôi kéo bởi các bên tham gia bên ngoài quan trọng khác (Mỹ,
Nhật Bản, Ấn Độ và Úc), ASEAN không coi châu Âu, vốn vẫn là một bên tham gia
không đáng kể đối với an ninh toàn cầu, là bên tham gia chủ chốt để can dự.
Nhưng thời gian đã thay đổi và môi trường an ninh
khu vực đã trở nên đa dạng và phức tạp hơn. Trong khi những căng thẳng địa
chính trị vẫn là đặc điểm dễ nhận thấy nhất của bức tranh chiến lược Đông Nam
Á, các vấn đề an ninh hàng hải phi truyền thống đang nổi lên ngày càng ám ảnh
ban lãnh đạo ASEAN, và những nỗ lực nhằm gạt vấn đề chủ quyền sang một bên và tập
trung vào ngăn chặn xung đột, hợp tác và đối thoại chức năng ở Biển Đông đã và
đang giành được chỗ đứng.
Quan trọng hơn, thái độ của châu Âu đối với ASEAN và
các nước thành viên của tổ chức này đã có tiến triển. Một khi tự đặt mình vào vị
trí là một “đối tác tự nhiên” tự phong, Brussels đã nhận thấy rằng nếu họ muốn
được nhìn nhận một cách nghiêm túc, họ phải vượt ra khỏi những cử chỉ chính trị
sáo rỗng, và thay vào đó có những hành động cụ thể, thực tế để chứng minh khả
năng của mình đem đến sự thay đổi tích cực.
Bất chấp sự bàn luận về vấn đề an ninh được khôi phục
ở Brussels, EU vẫn không phải là một bên tham gia truyền thống về an ninh và chắc
chắn không phải là người làm thay đổi cuộc chơi chiến lược ở Ấn Độ Dương-Thái
Bình Dương. Tuy nhiên, tư duy sáng tạo của nó về các vấn đề phi truyền thống,
chẳng hạn như đường hướng toàn diện đối với việc xử lý khủng hoảng (rõ nhất là
trong sứ mệnh chống cướp biển ATALANTA), sự tinh thông về một trật tự tốt đẹp
ngoài biển, giúp đỡ nhân đạo và cứu trợ thảm họa, cùng phát triển các nguồn tài
nguyên và quản lý ngư nghiệp có thể là một sự đóng góp có giá trị và lâu dài
cho an ninh biển khu vực - ở Biển Đông và xa hơn nữa.
ADMM + là một nền tảng lý tưởng để các bên tham gia
bên ngoài can dự với ASEAN trong các vấn đề an ninh phi truyền thống, và chắc
chắn là EU có những kỹ năng tác chiến đầy đủ, sự tinh thông và nguồn lực để
cung cấp đầu vào có giá trị. Giờ đây khi ASEAN nhận ra những lợi ích tiềm tàng
của các nước không thuộc ADMM+ đang quan sát các hành động của Nhóm chuyên gia,
sự can dự của Brussels đáng được cân nhắc trong bối cảnh an ninh mới và với một
tư duy cởi mở.
Eva Pejsova, Viện Nghiên cứu An ninh, Liên minh châu Âu. Bài viết đăng
trên Viện nghiên cứu Đông Nam Á (ISEAS), Singapore.
No comments:
Post a Comment