“Đô
Mỹ”, “ký họa” và những sứ quân làng
Nguyễn Hoàng Văn
29/10/2025
https://baotiengdan.com/2025/10/29/do-my-ky-hoa-va-nhung-su-quan-lang/
“Đô
Mỹ” đang lang chạ với bản thế vì bất thành của “ký họa” và đây chỉ là một thí dụ
nhỏ nhoi cho tình trạng bát nháo của tiếng Việt mà một trong những nguyên nhân
là sự hống hách của những sứ quân rất… làng.
“Đô
Mỹ” hình thành sau khi ông Paul Doumer đến Việt Nam nhậm chức Toàn quyền Đông
Dương vào năm 1897. Không nói đến năng lực thực dân, chỉ riêng cái tên của ông
ta thôi đã khiến các bậc đại thần của triều Huế khốn khổ với cảm giác bẩn mồm
khi phải “Kính thưa quan lớn Đu Me”. Họ khổ tâm mãi như thế cho đến lúc ai đó nảy
ra sáng kiến Hán Việt hóa cái tên để, thay vì ngập ngừng “Đu Me”, có thể bình
thản cái sự thanh bạch miệng mồm bằng “Đô Mỹ” [1].
Còn
bản thế vì của “ký họa” lại là chuyện của 70 năm sau, năm 1967, khi Hồ Chí Minh
đến dự cuộc triển lãm những ký họa gởi ra từ chiến trường miền Nam. Cho rằng từ
“ký họa” này cao vời quá, khó hiểu với “đông đảo đồng bào” quá, Hồ Chí Minh yêu
cầu trưởng ban tổ chức Bảo Định Giang nên tìm chữ gì khác thay thế. Tuy nhiên lần
này thì lời bác cũng như cơn gió thoảng qua tai bởi, cả tác giả câu “Tháp Mười
đẹp nhất có sen/ Việt Nam đẹp nhất có tên Bác Hồ” cũng phải làm ngơ khi biết phải
“đại chúng hóa” thế nào đây, “vẽ ghi” hay “vẽ chép”?
Nếu
người Việt thông minh như sách vở vẫn đều đặn dạy dỗ con trẻ, sự thể đâu có khó
khăn gì? Chỉ cần nhìn vào một tác phẩm thôi là sẽ hiểu ngay thế nào là “ký họa”,
bất quá thì thêm một lời giải thích ngắn gọn là có thể nâng trình độ nhân dân
lên, sao phải kềm giữ mãi ở tầng bậc thấp? Mà, kể ra, Hồ Chí Minh cũng không tự
tin với đề nghị này lắm nên chẳng mấy quyết đoán, kiên trì. Ông ta mà mạnh mẽ
can thiệp hay bỏ thì giờ nhắc nhở thì đâu có chuyện, trong cuộc triển lãm thứ
hai vào năm 1968, ký họa vẫn là… ký họa, cho đến ngày nay [2].
Quyền
lực chính trị, như thế, đã không xoay chuyển được ngôn ngữ và, trên phương diện
này, ông Phạm Văn Đồng là người biết phận. Năm 1963, khi đến dự hội thảo về “Tiếng
Việt trên sách báo” tại trụ sở báo Nhân Dân trong vai trò đồng
chủ toạ cùng với nguyên Tổng biên tập Hoàng Tùng, ông ta đã vội vàng đứng dậy
chắp tay vái lạy nhà ngôn ngữ học Nguyễn Tài Cẩn, không cho nói hết lời. Ai đó
đề cập đến cái sai của từ “trụ sở” trên sách báo và, như đùa như thật, nhà ngôn
ngữ học nổi tiếng đề nghị thủ tướng hãy ban hành một chỉ thị để, vì sự trong
sáng của tiếng Việt, buộc tất cả phải dùng từ “trú sở”, tuy nhiên ông ta đã vái
lạy, bảo đừng có “xúi dại” bởi quyền lực không thể giải quyết được vấn đề ngôn
ngữ [3].
Xem
ra, trên khía cạnh này, hai nhà chính trị Việt đã thua xa Tần Thủy Hoàng. Phạm
Văn Đồng thì bỏ cuộc, từ đầu. Hồ Chí Minh lại can thiệp dè dặt, chẳng kết quả
gì. Còn Tần Thủy Hoàng thì mạnh bạo, quyết đoán, nhắm đến chữ nào là thay đổi số
mạng chữ đó, tới tận hôm nay. Bỏ qua danh hiệu “Thái Hoàng” do triều thần đề
nghị, Tần Thủy Hoàng kết hợp “Tam Hoàng” và “Ngũ Đế”, tự chọn lấy danh xưng
“Hoàng Đế” cho “xứng với cái công lao đã làm được và truyền cho đời sau”. Tần
Thủy Hoàng giành hẳn độc quyền khi cấm người dân xưng “trẫm”, buộc họ phải nói
về minh là “tôi” để thể hiện thân phận tôi tớ, tôi đòi và, do đó, đã thay đổi
cách xưng hô của cả dân tộc Trung Hoa [4]. Tần Thủy Hoàng lại thống nhất chữ viết,
ra lệnh Lý Tư biên soạn bộ văn tự tiêu chuẩn, xóa bỏ tình trạng bát nháo, ở đó
mỗi bang quốc mỗi kiểu văn tự khác nhau, chẳng ai đọc được ai.
Tiếng
Việt chúng ta thì, ngược lại, ngày càng bát nháo và hỗn loạn vì sự mạnh bạo của
quá nhiều… Tần Thủy Hoàng. Nhưng nếu “hoàng đế” chỉ có một thì những thủ phạm
gây ra tình trạng này chỉ là hạng cỏn con, cỡ sứ quân. Nghe thì thật là ghê
nhưng đó, bất quá, cũng chỉ là hiện tượng… làng, như một hiện tượng tiểu nông,
sứ quân làng hay sứ quân tiểu nông.
Thử
bắt đầu bằng những kinh nghiệm riêng, từ một người bạn của tôi, vào thập niên
1980. Dở dang việc học do lý lịch nên, có một thời gian ngắn, người bạn làm việc
văn phòng cho một hợp tác xã để rồi, cứ mỗi lần gặp nhau, là một lần chua chát
xả ra những ẩn ức khi phải làm việc với một “lũ ngu”. Và thường, đó là cái ngu
về chữ nghĩa, như “nguyên cứu” chẳng hạn. Ngày nọ, không rõ học từ đâu, viên chủ
nhiệm quả quyết rằng việc “nghiên cứu” nào cũng cốt để tìm ra “nguyên nhân” của
vấn đề nên, do đó, phải sử dụng từ này cho đúng với… gốc rễ của nó. “Nhất Chủ
nhiệm nhì Trời”, trong cái lãnh địa mà ông ta có thể thay Trời, thì phải là
“nguyên cứu”, muốn “nghiên cứu” thì xéo đi chỗ khác.
Song
song với “nguyên cứu”, thời ấy lớp tuổi chúng tôi trở lên, ở quê tôi, còn nặng
đầu với ám ảnh “thu dung”, nghĩa là phải làm việc như tù khổ sai dưới sự giám
sát của công an tại “trại thu dung” ở những công trình thủy lợi rất cần nhân lực.
“Đi thu dung”, có thể là những thành phần bất hảo, cờ bạc hay trộm cắp vặt
nhưng không nhất thiết phải đưa ra toà. Cũng có thể là những cái mồm hay “phát
biểu linh tinh”, nghĩa là báng bổ chính quyền nhưng chưa đến mức phải quy kết
“phản động”. Cũng có thể là những thành phần không tốt không xấu, chỉ là không
có chân trong biên chế nhà nước mà lại phè phởn ăn chơi khiến giới chức quyền địa
phương ngứa mắt hay ganh tỵ. Và cũng có thể đơn giản là những nạn nhân vô tội,
bị ảnh hưởng từ ân oán lưu truyền từ cha đời mẹ với những chức sắc địa phương
v.v.
“Thu
dung”, ở đây, gần như là “trừng giới” nhưng sao lại như thế thì tôi mù tịt. Và
tôi cũng mù tịt cái sự phổ biến của nó, được áp dụng trên toàn quốc hay chỉ là
một “đặc sản” địa phương?
“Thu
dung”, theo Từ điển Hán Việt của Đào Duy Anh là “thu nhận và
dung nạp” và “cảnh sắc mùa thu”; theo Từ điển tiếng Việt của
Viện Ngôn Ngữ Học (2004), là “thu nhận và cho ở”. Tra cứu rộng hơn từ những bộ
từ điển của Lê Văn Đức hay Thanh Nghị thì chỉ là “cảnh sắc mùa thu”.
Xoay
chuyển giữa “cảnh sắc mùa thu” và “thu nhận, dung nạp” thì, đùng một cái, “thu
dung” lại trở thành “trừng giới” hay “cải tạo tại chỗ”, cái gì đã khiến nó bị
trục hồn kinh khủng như thế? Tôi nghĩ đến vị “sứ quân” nào đó, trong ngành an
ninh – chính trị địa phương thời đó. “Thu dung” này có ra đời thì cũng giống
như “nguyên cứu” của viên chủ nhiệm hợp tác xã đã khiến bạn tôi bực dọc, chửi
thề. Rồi tôi nghĩ đến đội ngũ sứ quân trùng điệp trên đất nước chúng ta – những
nhà báo, những chuyên gia soạn thảo pháp lý, những trợ lý chuyên viết diễn văn
cho các quan chức trọng trách, những “Vua Tiếng Việt” đang hống hách theo kiểu
điếc không sợ súng trên đài truyền hình trung ương v.v. [5] Mỗi sứ quân mỗi cõi
và, tất cả, với sự tự tin hay hống hách nực cười của mình, đang băm vằm tiếng mẹ
của chúng ta ra, như cám.
Trong
vấn nạn… cám hóa tiếng Việt này có sự lang chạ dơi chuột giữa “Đô Mỹ” với bản
thế vì bất thành của “ký họa” mà chúng ta đã nhẵn tai từ bao nhiêu năm nay như
“thăm quan”, “lính thủy đánh bộ”, “cố nhà thơ”, “cố nhà văn” v.v… hay, mới nhất,
là “cỗ xe tam ngựa” của ông Nguyễn Trường Lưu, Chủ tịch Hội Kiến trúc sư TP HCM
[6]. Ông này làm cái nghề mà, ngoài kỹ năng … kiến trúc, đòi hỏi cả kỹ năng
thương lượng để dung hòa những ý tưởng thẩm mỹ của mình với những đòi hỏi thực
dụng của khách hàng. Để làm như thế thì phải nói cho hay, phải biết cách vận dụng
ngôn ngữ, huống hồ đây lại là một Kiến trúc sư – Chủ tịch, không những phải biện
luận với từng khách hàng mà với cả một thành phố, cả một bộ máy chính quyền, cả
một đội ngũ đồng nghiệp đông đảo, vậy mà…
Những
điều như thế đang khiến tiếng Việt của chúng ta ngày càng… giả đi, nói theo cố
Giáo sư Nguyễn Đình Hòa, nguyên là Trưởng ban Anh văn của Đại học Văn khoa Sài
Gòn vào thập niên 1960. Một người quen của tôi, từng là sinh viên tại đây cho
biết, buổi giảng nào người thầy này cũng mang theo một tờ báo Anh ngữ phát hành
tại Sài Gòn để phân tích rằng đó là tiếng Anh giả. Thì đó là tiếng Anh, nhưng của…
người Việt, chưa thực sự nghiệm sinh với ngôn ngữ mình đang sử dụng để kiếm cơm
và điều này hoàn toàn có thể hiểu được. Nhưng khi tiếng Việt của người Việt mà
vẫn… giả như thể là ngôn ngữ thứ hai thì, phải chăng, trong cách sống, chúng ta
không hề sống thật?
Câu
hỏi này làm tôi nhớ đến câu chuyện dở khóc dở cười khác, vào cuối thiên niên kỷ
qua, khi cùng vài bạn học đến thăm cô giáo Anh văn. Ba mẹ cô có một căn nhà cổ
nổi tiếng và cô than thở việc thấy cha mẹ cô mở quán cà phê thu hút được nhiều
du khách, những nhà khác cũng lăng xăng sơn phết, tôn tạo, giả làm nhà cổ để cạnh
tranh. Nghe vậy, một người bạn của tôi thẳng băng: “Em xin lỗi cô, thời này
mà có thứ gì không giả, gái trinh mà còn giả được, nhà cổ giả là chuyện thường”.
Quả
thật đất nước đang trải qua thời kỳ giả, bằng cấp giả, học vấn giả, lịch sử giả,
khoa học giả, tu hành giả, đồ cổ giả, trinh tiết giả, phẩm chất cách mạng giả,
giai cấp vô sản giả v.v… Đã có ai phân tích rạch ròi bao nhiêu cái giả trong lịch
sử, như Lê Văn Tám, như Võ Thị Sáu? Đã có ai thống kê đã có bao nhiêu nhà đạo đức
từng lên lớp cho cả nước những bài học về phẩm chất cách mạng liên tiếp bị lộ,
bị hạ bệ và bị bỏ tù? Và đã có ai thống kê đầy đủ số lượng tài phiệt giàu sụ
nhưng lại mang danh là “đại biểu ưu tú của giai cấp vô sản”?
Cái
giả còn dẫn đến cái thừa và tiếng Việt hiện tại đang nhếch nhác, đang nhão nhoẹt
ra với những cách diễn đạt dư thừa. Bắt một nghi can “để điều tra” thì thừa
thãi là “để phục vụ cho công tác điều tra”. Diễn tả ai đó đang “lái xe” trên đường
thì luộm thuộm là “tham gia giao thông” hay, như mới đây, khi cô nàng nào đó của
giới trình diễn bị bắt vì cáo buộc “kinh doanh thực phẩm chức năng giả”, báo
chí của chúng ta lại ề à trong hàng tít lẽ ra phải ngắn gọn là “kinh doanh thực
phẩm chức năng là hàng giả”.
Sự
thừa thãi nào trông cũng vô duyên và, kệch cỡm nhất, là nạn hàn lâm giả, qua
cách tu từ ngô nghê hay cách lạm dụng tiếng Hán Việt một cách sai lạc, từ “hỗ
trợ” đến “công cụ hỗ trợ”, “bão kinh điển”, “tác động vật lý”, “thực hiện hóa”
v.v… Đây, có lẽ, là hiện tượng mà, trong một bài tạp văn, nhà phê bình Vương
Trí Nhàn” diễn tả là “lại gạo”?
Những
cái bánh chưng hay bánh tét, đã nấu chín rồi nhưng để lâu ngày sẽ “sống” lại, hạt
nếp chín trở lại nguyên hình là gạo nếp như khi chưa nấu. Còn ở đây là sự “sống
lại” trong niềm tin, trong nhân sinh quan, qua câu chuyện mà nhà văn Nguyễn Khải
diễn tả trong bài tạp văn “Chiến binh khi đã về già”. Thời trẻ từng oai phong đứng
trước đám đông hùng hồn về tương lai cách mạng, về nhu cầu đập phá những cái xấu
xa hũ lậu của chế độ đương thời nhưng, đến lúc về già, họ “quay trở lại với những
gì từng lên án và xem là cổ hủ, lạc hậu” một cách “thành tâm, tự nguyện” và, thậm
chí, còn “sung sướng đến nở lòng nở ruột” [7].
Đâu
đó Tô Hoài, tôi nhớ, từng viết về hiện tượng tương tự với xuất thân, gia thế.
Thập niên 1950-60, người Hà Nội hãnh diện khoe tổ tiên ba đời ở đợ thì, đến thập
niên 1990, lại xoay ngược, khoe khoang gia tộc mấy đời đỗ đạt, làm quan. Trong
cái thời “dĩ vô sản vi trung” ấy, cũng theo Tô Hoài, giới học thức như nhà văn
Nguyễn Huy Tưởng phải giả giọng, cố tình “bần nông hóa” cách phát âm các danh từ
ngoại quốc thì, khi thời thế thay đổi, tiếng Việt cũng bị rối tung với xu hướng
quay ngược này.
Trong
cái không khí Maoist hay Stalinist ngột ngạt kia thì, để được yên thân, phải
tránh việc làm nổi, phải hòa tan mình vào khối đông đại chúng. Học thức hay địa
vị cao càng cao, càng phải nhún mình và những thành phần tinh hoa thời ấy có rụt
rè, không dám nhận lãnh vai trò dẫn dắt công chúng cũng là điều dễ hiểu. Nhưng
thời thế thay đổi thì, trong cách nói và cách viết, dẫu chưa có đủ tố chất tinh
hoa, người ta cũng cố ngoi lên làm nổi với phong cách “tinh hoa”. Sử dụng tiếng
Hán Việt cho sang nhưng sử dụng bừa bãi, dẫu không hiểu rõ thực nghĩa. Và họ
vung bút với điệu bộ “hàn lâm” nhưng, vì thiếu thực chất, lại đâm ra sáo rỗng,
thừa thãi, và vô duyên [8].
Nói
theo Ferdinand de Saussure, nhà ngôn ngữ học cấu trúc tiên phong, chúng ta phải
“đóng băng” tiếng Việt đang được sử dụng thì mới nhận ra sự thay đổi rõ rệt
trong cấu trúc ngôn từ. Nhưng nếu làm theo Claude Lévi-Strauss – nhà nhân chủng
học cấu trúc – hãy bắt chộp một vài sáo ngữ đã thành mốt, chúng ta sẽ thấy rằng
cấu trúc của cộng đồng chúng ta cũng chẳng thay đổi gì.
Cấu
trúc là trật tự, là quan hệ giữa các yếu tố cấu thành một thực thể nào đó, một
ngôn ngữ, một cộng đồng, một tổ chức chính trị, một xã hội hay một quốc gia. Đó
là quan hệ giữa những yếu tố riêng lẻ với nhau, giữa từng yếu tố riêng lẻ với hệ
thống, hệ thống con hay hệ thống mẹ, và giữa các hệ thống con với nhau v.v. Một
hệ thống với những thành tố rời rạc là một hệ thống vô hồn và chính cấu trúc,
hay quan hệ giữa những yếu tố mới làm nên sức sống của nó, mới khiến cho cái
toàn thể lớn hơn tổng số.
Bắt
chộp tiếng Việt hiện tại, trên báo chí và trong giao tiếp hành chánh, chúng ta
sẽ thấy sự thay đổi rõ rệt trong trật tự, trong mối quan hệ chính phụ giữa những
đơn vị ngôn từ như “nhà văn nữ” và “nữ nhà văn” v.v. Nếu những nhà cấu trúc luận
cho rằng cấu trúc ngôn ngữ là một cấu trúc thống trị, ràng buộc chúng ta như những
tù nhân, không cho chúng ta suy nghĩ đến bất cứ điều gì nằm bên ngoài những quy
tắc của nó thì, nhìn từ bề ngoài, khi đã phá tung những trói buộc ấy, chúng ta
có thể thoát khỏi thân phận tù đày?
Câu
trả lời là không và, cũng qua những bằng chứng ngôn ngữ học, chúng ta vẫn là tù
nhân trong một cái làng hay một “tập hợp làng” với những sinh hoạt tiểu nông rất
vặt.
Như
những biến tấu mới nhất của sáo ngữ “vừa thiết kế vừa thi công” nhàm tai một thời.
Đó là dấu ấn của văn hóa tiểu nông mà, trong quy hoạch đô thị, hiện vẫn đều đều
bộc lộ khi.. mưa đến. Do cách quy hoạch tùy tiện, bừa bãi, rất… làng nên, chỉ một
trận mưa rào thôi, Hà Nội hay Sài Gòn, Cần Thơ, Đà Nẵng và thậm chí cả Đà Lạt lại
lâm cảnh phố hóa thành sông. Phong cách làng này, cho đến hiện tại, cũng thống
trị cả lĩnh vực pháp lý với sáo ngữ: “Quan điểm của tôi là xử đúng người đúng tội,
sai đến đâu xử đến đó!”
“Sai
đến đâu xử đến đó”, đây có khác nào một biến tấu của “vừa thiết kế vừa thi
công”? Còn “xử đúng người đúng tội” thì lại là một chân lý hiển nhiên nên thành
ra vô duyên, thừa thãi: Có thứ pháp luật nào mà chủ trương xét xử “sai người,
sai tội”? Vô duyên, dư thừa nó trở nên trịch thượng với cung cách lão làng:
“Quan điểm của tôi”. Tội vạ thế nào thì có luật pháp quốc gia, có tòa án, nhưng
nếu quan chức kia có một “quan điểm” khác thì pháp luật và tòa án sẽ bị gác qua
một bên hay chăng? Đây chính là dấu vết của não trạng tiểu nông bởi lão làng
nào, đầu tiên, cũng tin rằng mình là hiện thân của lệ làng, có trước và đặt
trên phép vua, phép nước.
Cấu
trúc, theo những nhà cấu trúc luận, là cốt tủy đặc trưng, là thứ khó thay đổi
nhất của một xã hội, cộng đồng. Và cái không thể thay đổi ở đây cấu trúc, là lệ
làng để phép vua cũng phải bó tay. Cấp trung ương thua làng từ khi vua Lê Thánh
Tông gia tăng mức độ tập quyền, đưa các xã quan về tận làng để thay mặt triều
đình mà không phá vỡ được cấu trúc quyền lực làng. Thực dân Pháp cũng đã chào
thua với quyền lực làng qua những cuộc “cải lương hương chính” để rồi, khi
Doumer đến, nhà thực dân tinh ranh này phát hiện ra rằng cách hay nhất là duy
trì quyền lực làng, lợi dụng quyền lực và cấu trúc làng để gia tăng công cuộc
thực dân hóa mà không phải trực tiếp đối đầu với người dân [9].
Bây
giờ làng, nhìn ở bề ngoài, đã thay đổi rất nhiều. Làng đã bê tông hóa, cả “cháo
lòng tiết canh” mà còn được điện toán hóa như là chalotica.com thế
nhưng cấu trúc quyền lực vẫn y như cũ. Chỉ là thay ông chánh tổng bằng ông bí
thư. Là thay ông lý bằng ông trưởng thôn, là thay tên trương tuần bằng viên
công an xã và, luôn luôn, phép vua vẫn thua lệ làng.
Và
trong sự thay đổi đến chóng mặt đó chúng ta vẫn chứng kiến sự tồn tại của “cấu
trúc làng” trên phương diện ngôn ngữ. Mỗi tờ báo là một làng. Mỗi ông phát ngôn
viên của một bộ, một ủy ban nhân dân nào đó cũng là một làng. Cả một thiết chế
trung ương, với danh vị trung ương là “vua tiếng Việt”, cũng chỉ là một cái
làng, làng VTV3. Bất kể quy chuẩn của ngôn ngữ quốc gia, bất kể giới ngôn ngữ học
lên tiếng thế nào, mỗi làng một kiểu, họ thản nhiên bát nháo hóa tiếng Việt
theo “lệ” của mình.
Tiếng
Việt đang rối tung lên vì những sứ quân cấp làng như thế. Trật tự và cấu trúc
ngôn ngữ có thể bị đảo tung đây đó nhưng, thực chất, đây cũng là hệ lụy từ việc
chúng ta vẫn tiếp tục là tù nhân của văn hóa làng, văn hóa tiểu nông.
__________
Tham
khảo:
1.
Vương Hồng Sển 2014) Dỡ Mắm – di cảo. NXB Trẻ, trang 55-56
2.
Bảo Định Giang (2001) Bác Hồ, Bác Tôn và Các Anh, NXB Chính trị quốc gia. trang
15.
3.
“Anh Tô – Hồi ký về cố Thủ tướng Phạm Văn Đồng” của Hoàng Phê trong: http://vanhoagiaitri.vnn.vn/sacmauvanhoa/VanXuoi-C.asp?PostID=1554
Nguyên
thuỷ, đây là bài báo đăng trên Văn Nghệ (tháng 3/2000) và sau được bổ sung
thành bài “Anh Tô, Những Kỷ Niệm Khó Quên” đăng trong “Phạm Văn Đồng Trong
Lòng Nhân Dân Việt Nam Và Bạn Bè Quốc Tế”, Nhà Xuất Bản Chính Trị Quốc
Gia, Hà Nội, 2002, tr. 881-887.
“Tại
hội nghị, có người thắc mắc nên nói trụ sở (cơ quan) hay trú sở đúng hơn, bởi
vì đây là một từ Hán-Việt, đúng âm phải nói trú như trong trú ngụ, trú quán, cư
trú, nội trú, tạm trú, thường trú, v.v. Anh Nguyễn Tài Cẩn có ý kiến nói nửa
đùa nửa thật rằng ‘nếu như thủ tướng ra một chỉ thị từ nay phải dùng trú sở
thay cho trụ sở, thì có thể chỉ sau một thời gian sách báo đều viết trú sở hết
thôi…’’ Anh Nguyễn Tài Cẩn chưa kịp nói hết ý kiến, Anh Tô đã đứng phắt dậy, chắp
tay vái và nói: ‘Tôi lạy anh, anh đừng xúi dại tôi.’ Và anh cười to một cách
thoải mái, làm cả hội nghị đều cười”.
4.
Sử Ký của Tư Mã Thiên, chương “Tần Thủy Hoàng bản kỷ”, bản dịch của Nhữ Thành:
“Quả
nhân, một người nhỏ bé hưng bính trừ khử bọn bạo nghịch làm loạn. Nhờ uy linh của
tôn miếu,sáu nước đều chịu tội thiên hạ bình định. Nay nếu không thay đổi danh
hiệu thì không sao xứng với cái công lao đã làm được và truyền cho đời sau. Các
ngươi hãy bàn nên đặt hiệu đế như thế nào.
Thừa
tướng là Vương Quán, ngự sử đại phu Phùng Kiếp, đình úy Lý Tư đều tâu: “Ngũ Đế
ngày xưa đất chỉ vuông ngàn dặm,ngoài ra là đất đai của chư hầu và của man di,
họ vào chầu hay không thiên tử cũng không cai quản được. Nay bệ hạ giấy nghĩa
binh, giết bọn tàn ác và nghịch tặc, bình định được thiên hạ, bốn biển thành quận
và huyện, pháp luật và mệnh lệnh đều thống nhất ở một nơi, từ thượng cổ đến nay
chưa hề có, Ngũ đế đều không bằng. Bọn thần sau khi bàn bạc kỹ lưỡng với các bậc
sĩ thấy rằng: Ngày xưa có Thiên Hoàng, Địa Hoàng, Thái Hoàng, nhưng Thái Hoàng
là cao quý nhất. Bọn thần liều chết xin dâng tôn hiệu của nhà vua là Thái
Hoàng, mệnh ban ra gọi là “chế”, lệnh ban ra gọi là “chiếu”, thiên tử tự xưng gọi
là “trẫm” (1).
Nhà
vua nói: “Ta bỏ chữ “thái”, lấy chữ “ hoàng”, thêm chữ “đế”, của những vị
đế thời thượng cổ hiệu gọi là Hoàng Đế còn những điều khác thì như lời các
khanh tâu”.
………………..
(1)
Các đời trước không dùng danh từ “chế” và “chiếu”. “chế” quan trọng hơn “chiếu”,
chỉ nhà vua mới được dùng chữ ấy, còn Thái Hậu thì có khi dùng chữ “chiếu” khi
thay thế nhà vua trị dân, nếu gọi là “chế” tức là có ý muốn làm vua. “Trẫm” trước
là một đại từ chỉ ngôi thứ nhất dành cho mọi người.Sách đạo giáo dùng chữ trẫm
để chỉ một lực lượng siêu tự nhiên,một đấng không ai trông thấy. Bọn Lý Tư đề
nghị dùng chữ này là vì thế”.
…”
5.
Những sai sót của “Vua Tiếng Việt” đã được nhà nghiên cứu Hoàng Tuấn Công kiên
trì phân tích trên blog của mình. https://tuancongthuphong.blogspot.com/search/label/Hoàng Tuấn
Công
6.
Phát biểu ngô nghê này được báo Tuổi Trẻ đăng lại nguyên xi, trong bài báo
“’TP.HCM mới như cỗ xe tam ngựa, ngựa nào cũng khỏe nhưng chạy ra 3 hướng thì rất
nghiêm trọng’”, Có lẽ bị chế nhạo, báo Tuổi Trẻ đã sữa chữa sai sót này, nhưng
nguyên bản vẫn còn tại địa chỉ này: https://tinyurl.com/4dndz6ny
7.
Vương Trí Nhàn (2005) Nhân nào quả ấy, NXB Phụ Nữ, Hà Nội, trang
140 – 145.
8. https://vanviet.info/trao-doi/ti-khai-sng-tieng-viet/
9.
Paul Doumer (2016) Xứ Đông Dương, NXB Thế Giới, trang 267-271.
Nguyên
tác L’Indo-Chine Française xuất bản lần đầu năm 1904, bản Việt ngữ của Lưu Đình
Tuấn, Hiệu Constant, Lê Đình Chi, Hoàng Long, Vũ Thủy. Nguyễn Thừa Hỷ hiệu
đính.
No comments:
Post a Comment