Nhớ lại sau 40 năm ra
tù: Vụ án “Về Kinh Bắc” 30/10/1985 – 30/10/2025 (Kỳ 1)
Hoàng Hưng
29/10/2025
https://baotiengdan.com/2025/10/29/nho-lai-sau-40-nam-ra-tu-vu-an-ve-kinh-bac-30-10-1985-30-10-2025/
KỲ
1
HÌNH :
https://baotiengdan.com/wp-content/uploads/2025/10/H5-1920x1608.jpg
Tác
giả (trái) và nhà văn Nhật Tuấn. Nguồn: Hoàng Hưng
Ngày
30/10/1985
Trại
cải tạo Thanh Cẩm, Cẩm Thuỷ, Thanh Hoá
Trước
đó khoảng nửa tháng, một buổi sáng trại viên tập hợp trước khi đi lao động, tôi
chuẩn bị lên đọc báo Nhân Dân như nhiệm vụ thường ngày của người “phụ trách văn
hoá” trong “Ban đại diện tù cải tạo”, thì Giám thị trại xuất hiện, ra lệnh cho
tất cả trại viên là sĩ quan công chức Sài Gòn về lán thu xếp nội vụ để… được về
nhà!
Sau
khi về lại xã hội, tôi mới biết đó là đợt trả tự do cuối cùng cho sĩ quan công
chức cao cấp Sài Gòn gồm khoảng 60.000 người, cũng là lúc rục rịch cho đường lối
“Đổi mới” năm 1986 khi đất nước sắp lâm vào đường cùng về kinh tế!
Tiếng
xôn xao náo động trong ít giây, rồi ào ào những con người mừng rỡ chạy rất
nhanh về các lán.
Tôi
phải đi kiểm tra vệ sinh các lán tù hình sự, không được chứng kiến cảnh họ ra về
như thế nào. Nhưng tối hôm ấy, trong lán “chính trị Bắc”, một không khí u trầm
khác hẳn ngày thường. Mọi người, trong đó có tôi, đều thao thức: Không biết bao
giờ đến lượt mình?
Khoảng
nửa tháng sau, đúng ngày 30/10/1985, buổi sáng trại viên tập trung trước giờ
lao động, tôi chuẩn bị đọc báo Nhân Dân thì bỗng nghe tiếng loa: “Hoàng Thuỵ
Hưng về lán thu xếp nội vụ!”. Choáng! Vứt ngay tờ báo xuống đất và bỏ chạy một
hơi về lán!
Lên
phòng trực ban, nhận tờ “Giấy ra trại”, chắc là tay có run run!
Giấy
ghi:
“…
Thi hành án văn, quyết định tha số 185 ngày 7 tháng 10 năm 85… Nay cấp giấy tha
cho anh, chị có tên sau đây: Hoàng Thuỵ Hưng sinh năm 1942… Can tội: Tuyên truyền
văn hoá phẩm đồi truỵ [!!!] Bị bắt ngày 20/8/82 [ngày bị bắt chính xác là
17/8/1982] Án phạt: 3 năm TTCT Theo quyết định, án văn số 230 ngày 30 tháng 1
năm 84 của Bộ nội vụ…”
https://baotiengdan.com/wp-content/uploads/2025/10/H1-1.jpg
Giấy
ra trại của tác giả. Nguồn: Hoàng Hưng
Thắc
mắc đầu tiên của tôi khi đọc tờ giấy này: Tại sao họ chuyển tôi từ tội “lưu
truyền văn hoá phẩm phản động” trong lệnh bắt thành “tuyên truyền văn hoá phẩm
đồi truỵ” trong lệnh tha! Hay là họ không muốn lan truyền một bằng chứng là Việt
Nam có tù nhân chính trị (rõ ràng với hai chữ “phản động”)! Suy nghĩ này được củng
cố khi tôi trò chuyện với các anh bị bắt và tập trung cải tạo trong vụ án “xét
lại” những năm 1960: Khi ra trại, các anh thậm chí không được trao cho một giấy
tờ gì giắt lưng!
Bác
sĩ nha khoa Phan Thế Vấn, một nạn nhân trong vụ này, kể với tôi rằng: Sau 1975,
anh vào Sài Gòn; được người bạn lúc đó làm giám đốc Sở Y tế (BS Dương Quang
Trung) đưa vào làm việc trong ngành, nhưng đến lúc khai lý lịch thì không ai chứng
nhận cho thời gian 5 năm đi cải tạo và cũng không có giấy tờ gì để chứng minh,
như vậy bị coi là “lý lịch không rõ ràng”, nên không được “tổ chức” chấp nhận!!!
Điều
nữa đáng ghi nhận: Theo đúng “luật”, án phạt của tôi là “3 năm”, thì đúng ra
tôi phải được về vào 17 hoặc 20/8/1985, nhưng hệ thống hành chính quan liêu đã
khiến tôi phải chịu thêm hơn 3 tháng trong tù, tức hơn 39 tháng thay vì 36
tháng!
Viên
đại uý phụ trách giáo dục của trại Thanh Cẩm, nguyên là một giáo viên Văn (anh
đã rất tử tế với tôi trong thời gian tôi ở trại; đáng tiếc là tôi không nhớ được
tên anh). Anh trao cho tôi tờ “giấy ra trại” và mời tôi về nhà ăn bữa cơm trưa
trước khi về Hà Nội.
Chuyến
xe ca đưa tôi từ thị trấn Cẩm Thuỷ về đến nhà ga Thanh Hoá thì trời đã tối.
Không hiểu sao một bản năng xui tôi chen vào giữa đám trẻ bụi đời trong sân ga.
Hình như dáng vẻ nhếch nhác, khổ sở của một thằng tù thích hợp hơn với đám trẻ ấy
hơn là với những người đang đợi chuyến tàu sáng mai trong nhà ga! Và thật kỳ lạ!
Đêm hôm ấy tôi đã ngủ ngon hơn bất kỳ đêm nào trong suốt 39 tháng qua!
Chuyến
tàu sáng 31/10/1985 từ Thanh Hoá mãi tới tối mới đưa tôi về đến Hà Nội!
Xẩm
tối 31/10/1985, tôi lặng lẽ tự mở cửa căn phòng lớn của bố tôi trên gác 2 ngôi
nhà tổ phụ (14 Đường Thành Hà Nội). Thật bất ngờ: Cả nhà đang ngồi quanh chiếc
bàn ăn lớn gỗ lim gia truyền nạm đồng 100 chữ “Phúc”: Bố và tất cả các anh chị
em, các cháu trai cháu gái tụ họp ăn mừng sinh nhật lần thứ 83 của bố
(31/10/1902-1985)! Vợ tôi từ Sài Gòn ra cũng có mặt, chắc em ra để chuẩn bị lên
trại thăm tôi lần thứ hai!
(Thật
tình cờ, tôi viết bài này cũng đúng vào sinh nhật thứ 123 của bố và lúc mình sắp
tròn 83 tuổi Tây 24/11/1942-2025).
Ngày
hôm trước, 30/10/1985, là ngày kết thúc cuộc đời tù đày “lãng xẹt” của tôi sau
hơn 39 tháng, qua ba cơ sở giam giữ của Nhà nước Cộng hoà Xã hội chủ nghĩa Việt
Nam!
Sau
khi được trả tự do, tôi ở lại Hà Nội cùng vợ ít ngày trước khi trở về Sài Gòn.
Việc
đầu tiên là đi thăm và cảm ơn cơ quan cũ đã dành cho mình những tình cảm đặc biệt
khi trong thời gian mình gặp nạn: Báo Người Giáo viên Nhân dân và Bộ Giáo dục.
Chuyện
được coi là hy hữu trong thời “toàn trị”: Báo Người Giáo viên Nhân dân đã trả
lương đều đặn và gửi quà cho tôi trong suốt hai năm tôi ở tù (người đem quà cho
tôi là Thư ký công đoàn cơ quan, chị Trần Thị Nhâm), bất chấp lời phàn nàn của
Công an. Thậm chí công an gửi đến báo lệnh tập trung cải tạo đối với tôi
(23/1/1984), mà đến 20/10/1984 Bộ Giáo dục mới ra quyết định “cho ông Hoàng
Hưng thôi việc vì vi phạm pháp luật bị tập trung cải tạo” (chứ không “buộc thôi
việc” như thường thấy trong các vụ tương tự). Và còn cho tôi “được trợ cấp hai
tháng lương kể cả các khoản phụ cấp nếu có”.
Người
có vai trò lớn trong chuyện này là nhà báo Trường Giang (Nguyễn Trường Thuỵ),
Bí thư Chi bộ Đảng, Thư ký Toà soạn báo Người Giáo viên Nhân dân. Anh kể với
tôi: Công an trách là họ đang “đấu tranh” với tôi mà sao báo lại ưu ái, khiến
công việc của họ gặp khó khăn. Anh đã trả lời: “Chúng tôi không biết anh
Hưng bị bắt vì tội gì, nhưng ở cơ quan anh là một người gương mẫu, được anh chị
em trong cơ quan quý mến”.
Hai
vợ chồng nhà báo Trường Giang đến chơi vài năm sau khi tôi ra tù.
Đến
Bộ Giáo dục, tôi tìm gặp GS Nguyễn Văn Hạnh, Thứ trưởng, người thầy dạy tôi ở
Khoa Văn Đại học Sư phạm Hà Nội khi mới tốt nghiệp Phó Tiến sĩ ở Liên Xô về.
Tôi là cán sự bộ môn Lý luận văn học của thầy (và còn là cán sự bộ môn của vài
môn khác: Văn học nước ngoài, Ngôn ngữ học, Văn học Việt Nam hiện đại… Lý do
là: Trình độ của sinh viên Văn thời đó rất không đồng đều, gần nửa là cựu giáo
viên cấp 2 vùng nông thôn, miền núi, không có điều kiện đọc sách, mở mang kiến
thức. Tôi thường phải tập trung lớp vào buổi tối, “giảng” lại những bài giảng của
các thầy trên hội trường).
Thầy
Hạnh rất quý tôi, khi tôi tốt nghiệp thầy đã đề nghị giữ tôi lại làm giảng viên
của trường nhưng ông Bí thư Chi bộ dạy Văn học dân gian Đỗ Bình Trị phản đối vì
cho là tôi có “lý lịch xấu”! Thật ra tôi biết ông ngầm ghét tôi ngay từ năm thứ
nhất, khi tôi được ông chỉ định lên thực tập giảng văn bài ca dao “Trèo lên cây
bưởi hái hoa…” nhưng đã soạn một bài khác hẳn với những ý mà ông đã dạy trước
đó!
Thầy
Hạnh bất ngờ và vui mừng khi tôi đến chào. Sau một hồi trò chuyện, thầy bất ngờ
đưa ra một đề nghị: Tôi về Bộ làm chuyên viên theo dõi chuyên môn ở trường phổ
thông! Nhưng, với một “tiền sự” về văn chương, tôi không thể chuyên trách môn
Văn, mà sẽ theo dõi môn… Thể dục!
Tôi
cảm ơn thầy, nhưng tỏ ý muốn về sống trở lại ở Sài Gòn với vợ con (và chắc chắn
Sài Gòn là nơi dễ sống hơn Hà Nội, nhất là với một người có thân phận cựu tù
nhân như tôi – tất nhiên đó là điều tôi không nói ra).
Trong
những người bạn thân quý mà tôi gặp lại ngay sau khi ra tù là anh Nguyễn Kiến
Giang, cựu tù nhân vụ án “Xét lại”, vợ chồng nhạc sĩ Đỗ Cường Chi, người “môi
giới” cuộc gặp gỡ giữa tôi và người vợ tương lai.
Nếu
ở Hà Nội, có mấy người bạn văn chương thân thiết không giấu nổi vẻ mặt sửng sốt
và lúng túng, thậm chí hơi sợ hãi khi tôi bước vào cửa (một sự thật mà tôi đã
đưa vào bài thơ “Người về”: “Người về từ cõi ấy/ Bước vào cửa người quen tái mặt”)
thì ở Sài Gòn có khác.
Tôi
nhớ một hôm đang đạp xe trên phố thì gặp nhà văn Nguyễn Khải đạp ngược chiều.
Anh phanh ngay xe lại và giơ tay chào tôi. Rồi tiến đến vui vẻ chúc mừng tôi đã
trở về! Cũng có lần gặp thầy dạy cũ ở Đại học Sư phạm Hà Nội, thầy Trần Thanh Đạm,
lúc đó là Hiệu trưởng ĐHSP TPHCM. Thầy cũng dừng xe đạp thân ái hỏi thăm và
chân tình khuyên: “Cậu nên đi thanh niên xung phong một thời gian” (ý là để rèn
luyện tư tưởng thêm, hoặc là để có công việc sinh sống?)
Trong
các bạn văn nghệ, thì Trần Hoài Dương (NXB Trẻ) và hai vợ chồng Nhật Tuấn (NXB
Văn học) – Thu Hồng (báo Thể Thao Văn hóa) là những người đầu tiên đến thăm và
cho quà! Đó cũng là hai người bạn tận tình đi lại giúp đỡ vợ tôi trong thời
gian tôi đi tù.
Trần
Hoài Dương là nhà văn chuyên viết cho thiếu nhi, quen và thân thiết với tôi từ
những năm 1960 khi chúng tôi cùng là cộng tác viên của nhà thơ Phạm Hổ ở báo
Văn Nghệ (anh Phạm Hổ phụ trách trang Thơ của báo, đồng thời là nhà thơ nổi tiếng
về mảnh thơ thiếu nhi). Trần Hoài Dương là con người sống rất lý tưởng. Sau
này, Trần Hoài Dương làm biên tập viên của tạp chí Cộng Sản, là người dìu dắt
Nguyễn Phú Trọng trong thời gian người này tập sự. Cuối đời, anh chán ngán sự đời,
xa vợ con, sống cô độc và chết một mình không ai biết sau một cơn say rượu bia.
Tôi
được an ủi khi biết rằng trong thời gian tôi đi tù, gia đình tôi đã nhận được sự
thông cảm yêu thương của tất cả bà con khu phố, kể cả anh cảnh sát khu vực, của
ông tổ trưởng dân phố, của các thầy cô giáo dạy cháu Hoàng Ly. Anh cảnh sát khu
vực (đến tận hôm nay vợ tôi vẫn nhớ tên anh, anh Khen) hôm đưa nhóm công an Hà
Nội đến khám nhà tôi, đã nhắc khéo họ là “em trai anh Hưng là liệt sĩ chống Mỹ”.
Các thầy cô giáo dạy cháu Ly ở trường cấp 1 Ngô Sĩ Liên, những chiều tan học mà
vợ tôi đi làm ăn chưa kịp tới đón, đã tự ý đèo cháu về nhà. Vợ tôi bơ vơ và
ngây thơ bước chân bươn chải vào chợ đời được nhiều người cảm thương và giúp đỡ
vô tư.
Và
lúc này mới được nghe vợ kể một ít về những gian lao vất vả mà em đã phải lặng
lẽ vượt qua trong vài ngàn ngày đêm một mình cáng đáng gánh nặng nuôi chồng tù,
con dại, và bà mẹ chồng già yếu; những thách thức trong công việc và quan hệ ở
nơi làm việc mới. Tính em kín đáo, có những chuyện buồn mà thậm chí mãi đến 40
năm sau, khi tôi viết những dòng này, em mới kể cho nghe.
Tâm
sự đôi lứa nhiều năm sau đã được ghi lại phần nào sau một đêm mưa lớn trong bài
thơ được nhiều người chia sẻ:
Mùi
mưa hay bài thơ của M.
Tất
cả nước mắt loài người bao vây nhà ta
Nằm
bên anh em kể câu chuyện buồn
Chôn
sâu trong lòng giờ mới nói ra
Gợi
ý của trận mưa chưa từng thấy
Đã
một nghìn đêm mưa trắng đêm
Điên
cuồng nhớ mùi anh như con bò cái nhớ mùi phân rác
Anh
đánh mất mùi anh trên những sàn đá lạ
Chỉ
còn mưa mùi nước mắt đêm
Em
còn yêu anh không yêu đến đâu giận ghét đến đâu
Mười
lăm năm lòng mình chưa hiểu hết
Mưa
mưa ngập tầng trệt
Đưa
nhau lên gác xép nằm nghe mưa sập mái tôn
Ước
nằm nghe mưa rồi chết
(Đêm
25/6/1992)
Sau
vài ngày nghỉ ngơi, bắt đầu lo tính chuyện sinh sống.
Khi
bàn bạc với vợ, tôi nêu ra ý tưởng bán phở gánh như lời khuyên của ông bạn
trong tù, nhưng vợ tôi kiên quyết gạt đi, nói không thể phí phạm vốn kiến thức
tôi đã tích luỹ được bao nhiêu năm trời!
Có
một chuyện vui đáng kể lại xung quanh chuyện sinh sống của tôi lúc ấy. Về nhà
chẳng bao lâu thì có cô công an tên Lạng đến chơi. Tôi đã gặp cô ở nhà anh cả
tôi ở Hà Nội sau khi ra tù, sau mới biết cô là sĩ quan an ninh theo dõi y tế!
Cô đề nghị tôi “hợp tác” với an ninh, đổi lại tôi sẽ được giao cho một kiosque ở
đường Nguyễn Huệ để buôn bán phim, giấy ảnh!
Tôi
hỏi: “Hợp tác” cụ thể là làm gì? Nếu là cho biết ý kiến của mình về những vấn đề
văn hoá, văn nghệ mà an ninh quan tâm thì tôi sẵn sàng! Nhưng cô nói: Cụ thể là
như thế này: Anh là người giao du thân mật với nhà thơ Nguyễn Duy (Đúng thế!
Hai chúng tôi đều từng được giải thưởng Thơ của báo Văn Nghệ, anh đã đến chơi với
tôi ở Hà Nội, và vào Sài Gòn thì tôi rất hay lui tới nhà anh ở nhà tập thể văn
nghệ sĩ đường Nam Kỳ Khởi Nghĩa; chúng tôi quý nhau, thậm chí tôi còn rủ anh…
buôn chung, có lần còn cùng mất tiền toi vì bị lừa mua “bạch kim” từ xác máy
bay!).
Cô
bảo: Gần đây Nguyễn Duy hay tiếp khách là Việt kiều ở trụ sở chi nhánh của báo
Văn Nghệ trên đường Đồng Khởi mà Duy là trưởng chi nhánh, chúng tôi biết chỉ có
anh có thể tham dự những buổi như thế… Tôi lập tức đáp thẳng cánh: “Xin lỗi!
Gia tộc tôi không có ai táng vào mả chó!” Từ đó không còn gặp lại cô, nhưng vài
năm sau thì đọc báo thấy tin cô cùng vài đồng sự bị bắt vì một vụ làm ăn phi
pháp gì đó!
(Không
“dụ” được tôi, sau đó an ninh đã có được “cộng tác viên” là một nhà nghiên cứu
văn học làm hợp đồng ở chi nhánh báo Văn Nghệ. Nhưng bị phát hiện, anh này được
nghỉ việc. Khi biết chuyện tôi đã từng từ chối “lời đề nghị khiếm nhã” của an
ninh, Nguyễn Duy càng quý mến tôi).
***
Nhớ lại
sau 40 năm ra tù (Kỳ 2)
Hoàng Hưng
30/10/2025
https://baotiengdan.com/2025/10/30/nho-lai-sau-40-nam-ra-tu-ky-2/
HÌNH
:
https://baotiengdan.com/wp-content/uploads/2025/10/1-126.jpg
Tác
giả và nhà báo Hữu Tính đón nhạc sĩ Văn Cao (giữa). Nguồn: Hoàng Hưng
May
mắn là lúc ấy, báo chí Việt Nam bắt đầu “mở ra” khi rục rịch công cuộc Đổi mới!
Một số báo, tạp chí tiếng Pháp, tiếng Anh được bán trên lề đường Đồng Khởi (chắc
là hàng “xách tay” của du khách nước ngoài). Tôi mua và tìm những bài thích hợp
để dịch và gửi cho mấy tờ báo ở Sài Gòn. Sau này, khi có internet, công việc dịch
thuật các bài vở mới trên các báo mạng để bán cho các báo đã là phần quan trọng
trong thu nhập thường xuyên của tôi.
Cuốn
sách dịch đầu tiên được xuất bản của tôi là cuốn “Mowgli người sói” dịch từ hai
tập Jungle Book của Rudyard Kipling, do bạn tôi là Trần Hoài Dương của NXB Trẻ
đặt hàng năm 1987. Đó là kết quả không thể tốt đẹp hơn của thời gian tự học tiếng
Anh trong tù (học bằng một cuốn sách ngữ pháp tiếng Anh, một cuốn từ điển
Anh-Pháp-Pháp-Anh, những tờ báo Moscow News của Liên Xô; tôi lần mò đọc và dịch
không sót một chữ, say mê quên hết thân phận “tù”). Sách đã được tái bản liên tục
đến lần thứ 3. Nó cũng mở đầu cho nghề dịch và xuất bản sách (tự mua giấy phép,
tự in, tự phát hành) kéo dài nhiều năm sau, cũng cho tôi một khoản thu nhập thường
xuyên quan trọng.
Khoảng
đầu năm 1986, tôi được bạn học cũ là Đặng Ngọc Long, một dịch giả tiếng Nga, giới
thiệu với anh Nguyễn Minh Đức, trưởng phòng Phát minh Sáng chế của Uỷ ban Khoa
học Kỹ thuật TP.HCM. Anh là con người rất năng động và cởi mở, đã cho xuất bản
một tập san mang tên “Sáng tạo” để công bố các phát minh sáng chế nhưng cũng mở
rộng ra chân trời kiến thức khoa học kỹ thuật.
Anh
nhận ngay tôi vào làm biên tập viên, và chẳng bao lâu thì phụ trách công việc
thư ký toà soạn. Công việc này khiến tôi gắn bó với hoạ sĩ Hoàng Ngọc Biên, người
mà tôi mời trình bày tập san, và từ đó học được rất nhiều kỹ năng của nghề báo
từ biên tập đến sửa morasse, theo dõi in ấn! Tờ tập san này có lẽ là sản phẩm
báo chí duy nhất không được bao cấp mà tự phát hành được ra thị trường.
Anh
Biên nguyên là Giám đốc Trung tâm Học liệu của Bộ Giáo dục VNCH, đã được đào tạo
nghề mỹ thuật ấn loát ở Nhật Bản. Anh chính là người đã cùng người em trai là
TS kinh tế Hoàng Ngọc Nguyên thiết kế ra tờ báo Thanh Niên của Huỳnh Tấn Mẫm
năm 1986.
Hai
năm làm tập san “Sáng tạo” sau khi ra tù rất có ý nghĩa với tôi. Nó là bước đầu
tiên tích luỹ kinh nghiệm cho “nghiệp” làm báo thực sự của tôi từ lúc ấy đến cuối
đời, từ tập san Seaprodex rồi báo Lao Động thời Đổi mới đến các báo mạng “lề
trái” Talawas, Bauxite Vietnam, Vanviet…
Điều
khá thú vị là hai tờ Seaprodex của Tổng công ty Xuất nhập khâu Thuỷ sản và Lao
Động Chủ Nhật của Tổng Liên đoàn Lao Động đã mời tôi về làm việc vì các vị lãnh
đạo (Phó Tổng giám đốc Seaprodex là Trương Thanh Hà nguyên trong Ban Tuyên huấn
Khu V thời chống Mỹ; Tống Văn Công TBT báo Lao Động, Hữu Tính phụ trách cơ quan
thường trú báo Lao Động tại TP.HCM) ngấm ngầm “khoái” cái tiền sử tù oan của
tôi! Họ nhanh chóng trao cho tôi trọng trách: Thư ký toà soạn rồi Phó TBT thường
trực có toàn quyền của tạp chí Seaprodex, rồi sau đó về làm Trưởng ban Văn hoá
của báo Lao Động!
Có
chuyện thú vị khi tôi tới gặp anh Hà Seaprodex để anh “phỏng vấn” theo lời giới
thiệu của anh Thanh, người phụ trách tạp chí Seaprodex. Anh đề nghị tôi đọc một
số báo và góp ý. Đọc nhanh, tôi nói thẳng: “Đây là kiểu báo bao cấp, lưu
hành nội bộ, rất yếu về nghiệp vụ”. Anh ngạc nhiên: “Tôi chưa thấy ai đi
xin việc mà nói thẳng như anh!” Anh tỏ ra khoái chí và tuyên bố nhận ngay
tôi về báo. “Nhưng có cái hơi khó nghĩ: Dù sao anh cũng bị coi như bắt đầu
vào biên chế, vậy không biết nên trả lương anh sao cho phù hợp”. Tôi đáp: “Các
anh muốn sử dụng năng lực của tôi đến mức nào thì trả lương mức ấy!”
Anh
Hà lại một lần nữa ngạc nhiên (chắc anh chưa từng thấy ai dám ăn nói như thế với
lãnh đạo một công ty giàu có, quyền lực lớn hàng nhất nước! Seaprodex lúc đó là
tổng công ty độc quyền xuất nhập khẩu mọi mặt hàng, không riêng thuỷ sản). Anh
bỏ sang phòng kế toán hội ý, ít phút sau quay lại nói: “Thôi trước mắt anh
vui lòng nhận mức lương chuyên viên 1 vậy nhé!” (Cấp chuyên viên là trên 6
cấp cán sự, người tốt nghiệp đại học được hưởng 85% mức lương cán sự 3).
Tôi
đã không phụ lòng anh! Nhờ sự cộng tác hiệu quả của anh em Hoàng Ngọc Biên
(trình bày), Hoàng Ngọc Nguyên (chủ bút), tôi đã biến tờ tạp chí ngành lưu hành
nội bộ thành tờ tạp chí bán chạy trên thị trường!
Ngựa
Biển là tập thơ đầu tiên của tôi sau khi ra tù, được xuất bản vào năm 1988, bao
gồm hầu hết những bài thơ trong tập bản thảo của tôi bị công an tịch thu năm
1982. Hoạ sĩ Hoàng Ngọc Biên đã thiết kế tập thơ rất công phu. Anh cho biết, đã
phác thảo 40 lần hình con ngựa chồm lên trên sóng mới có được tấm hình ưng ý để
làm bìa sách. Năm 2017, khi tôi sang Mỹ, đến thăm anh ở San Jose, anh khoe bức
vẽ được anh mang sang bày trang trọng trên bàn làm việc.
Đó
là tập thơ “ngoài luồng” đầu tiên tự xuất bản ở nước ta sau “Đổi mới”, nhờ được
anh Trương Văn Khuê, Giám đốc NXB Trẻ cương quyết bảo vệ. Khi an ninh biết tin
về việc tôi đăng ký xuất bản, đòi anh cho xem bản thảo, anh đã từ chối và nói:
“Là giám đốc NXB, tôi có quyền quyết định. Sau khi sách in ra, các anh tha hồ
có ý kiến”. Ngựa Biển đã trở thành một hiện tượng xuất bản hồi ấy, nó được
“đánh hội đồng” trên hầu hết các tờ báo, kể cả tạp chí Cộng Sản! Nhưng nhờ thế
mà bán hết veo 2.000 bản.
Từ
đó tôi in thơ bình thường. Riêng tập thơ Ác Mộng, viết về những trải nghiệm tù
đầy thì đến nay vẫn bị các nhà xuất bản từ chối. Tuy nhiên một số bài trong đó
đã được công bố nhờ sự “chịu chơi” của nhà thơ Quang Huy, Giám đốc NXB Văn hoá
– Thông tin. Khi gửi cho anh bản thảo tập “Người đi tìm mặt” (1994), tôi có viết
thư nhắc anh: “Nếu thấy bài nào khó anh cứ bỏ đi”. Anh trả lời ngay: “Không
việc gì phải bỏ!” và anh cho in hết!
Anh
đã bị an ninh làm khó, may mà thân thiết với bộ trưởng Nguyễn Khoa Điềm và cũng
phải… “chạy” thật lực mới thoát nạn. An ninh cũng đến làm việc với ông Nguyễn
Văn Tư, Chủ tịch Tổng liên đoàn Lao Động (cơ quan chủ quản báo Lao Động); ông
Tư gọi anh Tống Văn Công TBT báo, hạch: “Tay này mà anh để làm Trưởng ban
Văn hoá của báo?”.
Anh
Công ngại không cho tôi biết, mà “tâm sự” với Trần Trung Chính, con rể anh Nguyễn
Kiến Giang, người mà tôi giới thiệu về báo. Nghe Chính nói lại, ngay lập tức
tôi viết đơn xin từ nhiệm để tránh rắc rối cho báo! Lá đơn đột ngột khiến Ban
Biên tập lúng túng, mãi đến 6 tháng sau mới tìm được người thay tôi!
Trong
những bài thơ tù, đặc biệt là bài “Người về” đã có tác động mạnh mẽ đến giới
làm thơ và công chúng thơ.
Còn
nhớ, nhạc sĩ Trần Tiến đọc bài thơ này giữa sân báo Lao Động đã bật ngửa sững sờ!
Nhà thơ Thanh Tùng nói với các bạn thơ Hải Phòng: “Đây là bài thơ có tầm quốc tế!”.
Năm 2000, đến chơi hoạ sĩ Lê Bá Đảng ở Paris, tôi đọc cho ông nghe. Ông kêu
lên: “Tôi sẽ vẽ một tấm carte in bài thơ này!”
Người
về
Người
về từ cõi ấy
Vợ
khóc một đêm con lạ một ngày
Người
về từ cõi ấy
Bước
vào cửa người quen tái mặt
Người
về từ cõi ấy
Giữa
phố đông nhồn nhột sau gáy
Một
năm sau còn nghẹn giữa cuộc vui
Hai
năm còn mộng toát mồ hôi
Ba
năm còn nhớ một con thạch thùng
Mười
năm còn quen ngồi một mình trong tối
Một
hôm có kẻ nhìn trân trối
Một
đêm có tiếng bâng quơ hỏi
Giật
mình một cái vỗ vai
Tôi
viết bài này năm 1992, tức là 7 năm sau khi ra tù. Lúc đó tôi cũng đã quen với
vị thế nhà báo của mình đã được phục hồi. Nhưng trong một buổi tiệc ở Hội Mỹ
thuật TP.HCM, có một người lạ mặt đến gần tôi, nhìn tôi trừng trừng và hỏi:
“Anh từ nơi ấy trở về chứ gì?” Rồi bỏ đi. Tôi đứng sững như trời trồng, và lặng
lẽ ra về. Sự việc ám ảnh tôi suốt đêm hôm ấy. Nó làm tôi nhận thức được một
thân phận khác của mình trong xã hội. Vài ngày sau thì bài thơ ra đời.
Bài
thơ này được đưa vào những tuyển thơ quan trọng như, “100 bài thơ hay nhất thế
kỷ XX” của NXB Giáo Dục, các tuyển thơ của NXB Hội Nhà Văn; được dịch và đăng
trên nhiều tạp chí tiếng Pháp, tiếng Anh; bản tiếng Anh của nó (Nguyễn Đỗ và
Paul Hoover dịch) được đưa vào dự án Tổng tập văn học thế giới của một tập đoàn
xuất bản quốc tế danh tiếng; có không ít nhà thơ, nhà nghiên cứu Việt Nam và Mỹ
đã viết bài bình luận về nó.
Một
số bài khác trong Ác mộng được dịch và in ở nhiều tạp chí văn chương Pháp, Mỹ.
Đến năm 2006, lần đầu tiên cả 30 bài Ác mộng được công bố trên báo mạng talawas
của nhà văn Phạm Thị Hoài ở Đức, rồi năm 2018 được in song ngữ ở NXB Văn học ở
Hoa Kỳ với lời bình thay lời tựa của nhà thơ Ellen Bass, thành viên Ban Tư vấn
Hội Các Nhà Thơ Hoa Kỳ (Chancellor of the Academy of American Poets) và những
nhận định của các nhà thơ Việt Nam và Mỹ, Pháp như Nguyễn Hữu Đang, Hoàng Cầm,
Allen Ginsberg, Robert Creeley, Marie Étienne… (bản tiếng Anh của Trịnh Y Thư ở
Mỹ và Nguyễn Đức Tùng ở Canada).
Bìa
tập thơ rất ấn tượng: theo gợi ý của tôi, nhà thiết kế bìa Bùi Nam lấy tấm ảnh
mà hoạ sĩ Hà Thế Hiển bạn học Mỹ thuật của con gái tôi Hoàng Ly chụp cảnh tôi
ngồi đọc thơ trong bóng đêm. Đó là cảnh trong đêm thơ “Cha và con và thơ” của
hai bố con tôi ở Viện Pháp Hà Nội năm 2008, tiết mục trình diễn bài “Một ngày”
đã gây ấn tượng rất mạnh mẽ cho khán giả: con gái tôi đã đạo diễn tắt hết đèn,
âm thanh, tôi ngồi giữa sân khấu, trên một chiếc ghế, tay cầm tờ giấy in bài
thơ; con gái tôi đứng bên ngoài rèm, chiếu đèn pin vào tờ giấy. Cả khán phòng gần
200 người im phăng phắc nghe bài thơ! Nhiều tờ báo chính thống đã tường thuật
đêm thơ ấy một cách thật ưu ái!
Anh
đã rất thông minh thể hiện tên tập thơ song ngữ “Ác mộng-Nightmares” như một
cây thập giá!
Riêng
có chuyện xuất cảnh thì tối kỵ. Chắc người ta ngại tôi ra ngoài sẽ trở thành
nhân chứng sống cho “thành tích nhân quyền” của chế độ.
Năm
1992 (1993?), một cựu học sinh người Tàu của bạn tôi, nhà thơ-nhà giáo Trịnh
Hoài Giang ở trường Trung học Trung Hoa Hải Phòng, nay là chủ một công ty Du lịch
ở Quảng Đông mời tôi đi một chuyến. Mặc dù đã được Tổng liên đoàn Lao động Việt
Nam ký công văn cho đi, nhưng Cục An ninh Tư tưởng-văn hoá đã bác bỏ.
Đến
năm 1999 tôi đã có cơ hội ra nước ngoài đọc thơ, nhưng đó là một “quả pháo xịt”:
Chương trình giới thiệu văn học đương đại việt nam do “Nhà Văn hoá Thế giới”
Berlin tổ chức khá công phu trong khuôn khổ “Năm Văn hoá Việt Nam”, đã trân trọng
giới thiệu một chùm thơ tôi trong brochure, nhưng các nhà văn trong nước được mời
không ai được phép xuất cảnh.
Tôi
là người đầu tiên trong số các nhà văn được mời dịp ấy bị từ chối xuất ngoại.
Theo lời thuật của TBT báo Lao Động Phạm Huy Hoàn, thì Trưởng ban Tuyên huấn Hữu
Thọ đã khiển trách anh vì tội ký tên đồng ý cho tôi đi, với lý do: từ sứ quán
Việt Nam tại Đức báo về: “Tụi nhà văn phản động trong nước và hải ngoại gặp
nhau ở đây sẽ nhân cơ hội ra một tuyên bố về nhân quyền”.
Sau
này được biết buổi giới thiệu thơ tôi tại Berlin vẫn được tiến hành, bản tiếng
Việt do anh Trương Hồng Quang, Tiến sĩ văn học, đọc… giùm tác giả, một bạn người
Đức đọc bản dịch tiếng Đức của chị Thái Kim Lan.
Mãi
đến năm 2000, tôi được Bộ Văn hoá Truyền thông Pháp mời sang giao lưu (dịch tác
phẩm văn học). Nhờ nhà báo Thu Hồng (báo Thể Thao-Văn hoá, vợ cũ của nhà văn Nhật
Tuấn) bảo lãnh trực tiếp với ông Thiếu tướng Nguyễn Văn Hưởng Tổng cục trưởng
An ninh (sau là Thượng tướng Thứ trưởng đầy quyền lực), tôi mới được ông đích
thân cho phép ra khỏi nước mà không kèm “điều kiện” nào. Trong buổi tiếp tôi
khá lịch sự tại Văn phòng Bộ Công an, ông nói: “Tôi đã nhiều lần nói với A25 là
các anh không biết làm việc với trí thức!” Khi tôi khẳng định “tôi là trí thức
độc lập, không theo cũng không chống lại Đảng Cộng sản” thì ông nói: “Trí thức
thì phải độc lập mới là trí thức chứ! Đi giao lưu văn hoá thì anh đi là đúng rồi,
chả lẽ cử nông dân đi?” Ông nói thêm: “Tôi biết anh sẽ thăm các bạn mình ở bên
đó (ý nói các anh chị nhà văn Vũ Thư Hiên, Dương Thu Hương, các nhà báo Thuỵ
Khuê, Bạch Thái Quốc…), tôi không dám dặn dò gì, chỉ nhắc anh đừng để bọn xấu lợi
dụng bôi nhọ tên tuổi anh và đừng làm gì ảnh hưởng đến tôi là người bảo lãnh
cho anh đi”.
Kể
từ đó, tôi liên tục có những chuyến đi giao lưu văn học ở Pháp, Đức, Mỹ. Điều
đáng nói là: Ở nước ngoài, tôi quan hệ thoải mái với các trí thức, văn nghệ sĩ,
nhà báo; thoải mái phát biểu suy nghĩ của mình về các vấn đề của đất nước; trả
lời phỏng vấn các đài phát thanh… nhưng chưa gặp rắc rối gì với an ninh Việt
Nam khi trở về nước. Có lẽ vì tôi luôn nói thật lòng, và giữ góc nhìn khách
quan, tỉnh táo trước những cái “oái oăm” của lịch sử hiện đại nước mình, tuy
không né tránh việc phản biện những cái sai, bất cập của nhà nước!
No comments:
Post a Comment