Hiệp
ước Versailles 1787 và Công hàm 1958 của Phạm Văn Đồng
Trương Nhân Tuấn
28/10/2025
https://baotiengdan.com/2025/10/28/hiep-uoc-versailles-1787-va-cong-ham-1958-cua-pham-van-dong/
Trước hết hãy nói về quan hệ “thiên tử – chư
hầu”. Quan hệ “thiên tử – chư hầu” – trong nền văn minh Trung Hoa với thuyết
“thiên mạng” làm nền tảng – có tương đồng với quan hệ “protectorat – bảo hộ”,
theo tiêu chuẩn của Tây phương hay không?
Câu trả lời sẽ làm sử gia Việt Nam chắc chắn
sẽ giựt mình!
Ta hãy lấy thí dụ Việt Nam trong thời kỳ Pháp
chiếm Bắc kỳ. Sau khi chiếm được thành Hà Nội (25-4-1882), Henry Rivière
buộc triều đình Huế phải chịu sự bảo hộ của Pháp, đồng thời phải cho Pháp đặt
các thương chánh ở các tỉnh cũng như phải nhượng đứt Hà Nội cho Pháp.
Người lên tiếng phản đối việc này là hầu tước
Tăng Kỷ Trạch, vốn là đặc sứ toàn quyền của Thanh quốc tại St Pétersbourg. Ông
này yêu cầu Pháp rút ra khỏi Bắc Kỳ, vì lý do An Nam vẫn còn là một chư hầu của
nước Thanh.
Ông này cho rằng, hình thức “thượng quốc –
chư hầu” giữa Trung Hoa và An Nam có hiệu lực tương tự như quan hệ “protectorat
– bảo hộ”.
Pháp vịn vào Hiệp ước 1874 để chứng minh rằng
An Nam đã là một nước độc lập, không còn quan hệ gì với nhà Thanh nữa, để bác bỏ
yêu sách của họ Tăng, đại diện Tổng lý nha môn (tương đương Bộ ngoại giao Trung
Quốc bây giờ).
Hiệp ước 15 tháng 3 năm 1874, còn gọi là hiệp
ước “Hòa Bình và Liên Minh” giữa quan chức Pháp và An Nam. Ðiều 2 của hiệp ước:
“Quan thống lĩnh nước Pháp công nhận quyền độc lập của vua nước Nam, nước
này không phải thần phục nước nào nữa và khi vua An Nam có cần đến nước Pháp
giúp đỡ để dẹp giặc thì nước này sẵn lòng giúp mà không yêu cầu điều gì“.
Vấn đề là Thanh triều chưa bao giờ nhìn nhận
“nền độc lập” của An Nam hết cả. Chưa có “phép” của thiên triều thì Việt Nam
không thể tự động tuyên bố “độc lập”.
Quan hệ “thiên tử – chư hầu” trong văn minh
Trung Hoa là “thiên tử” (Hoàng đế Trung Quốc) là trung tâm, và các nước chung
quanh là “chư hầu”. Các nước chư hầu có bổn phận hàng năm phải triều cống cho
thiên triều. Đổi lại, các nước chư hầu được sự bảo hộ và công nhận tính hợp
pháp của triều đại họ.
Đúng như vậy, quân Thanh rục rịch kéo qua Việt
Nam với danh nghĩa bảo hộ vua Tự Đức.
Thái độ của Pháp, thể hiện qua Đặc sứ toàn
quyền của Paris tại Bắc kinh là ông Bourée. Ông này đề nghị Tổng lý nha môn
Thanh triều rằng có thể giải quyết vấn đề Việt Nam bằng hai ủy ban, một Trung
Hoa, một Pháp Quốc.
Tức là Pháp đã nhìn nhận thẩm quyền của Thanh
triều về vấn đề Việt Nam. Bourée báo cho Paris biết là quân Thanh đang chuẩn bị
quân sự để đánh quân Pháp ở Việt Nam.
Chuyện đã xảy ra như vậy trên thực địa. Tức
là nhà Thanh chuẩn bị gởi quân sang Việt Nam đánh Pháp với danh nghĩa An Nam là
chư hầu của mình.
Tháng 8, vua Thanh sai Tổng Ðốc Quảng Ðông là
Du Khoan cùng Nghê Văn Uốt (Tuần Phủ Quảng Tây), Lưu Trường Hiệu (Tổng Ðốc
Vân-Quí) điều quân thủy, bộ chia đóng ở các nơi hiểm yếu để phòng bị và sẵn
sàng tham dự vào chiến trường Bắc Kỳ. Ngoài ra, sai tướng Tạ Kính Bửu ở Vân Nam
đưa ba doanh quân sang đóng ở Quán Ty (thuộc huyện Trấn Yên, tỉnh Hưng Hóa).
Tháng 10 năm 1882, tăng cường thêm 10 doanh
quân Tàu đóng ở các tỉnh phía Bắc. Từ Quảng tây, Hoàng Quế La dẫn 12 doanh quân
sang đóng ở Lạng Sơn, Bắc Ninh, Cao Bằng, Thái Nguyên và Triệu Ốc lãnh 5 doanh
quân đóng ở Tuyên Quang và Thái Nguyên.
Ngày 20 tháng 12 năm 1882, ông Bourée cho
Paris biết lập trường của Lý Hồng Chương, người đứng đầu Tổng lý nha môn. Giải
pháp là “chia đôi Bắc kỳ”. Các tỉnh trung du và thượng du Bắc kỳ sẽ dành cho
Trung Hoa, bởi vì các tỉnh này trên thực tế do quân Trung Hoa, hoặc do quân cướp
người Hoa, chiếm đóng.
Nếu sự việc dừng ở đây, miền Bắc chỉ còn lại
đồng bằng sông Hồng. Phần còn lại thuộc về nhà Thanh. Điều may cho Việt Nam là
phe quân sự không tin vào Bourée, không tin quân Thanh có thể thắng được quân
Pháp.
Chiến tranh Pháp-Trung nổ ra, trên hai mặt trận:
Trên bộ và trên biển. Rốt cục hai bên ký Hiệp ước Thiên Tân 1885. Nội dung nhà
Thanh phải nhượng Việt Nam cho Pháp. Tức là Pháp đã đổ máu để bảo vệ sự “toàn vẹn
lãnh thổ” của Việt Nam.
Tức là gì?
Là quan hệ “thiên tử – chư hầu” trong không
gian “thiên mệnh” của văn minh Trung Hoa tương đồng với quan hệ “protectorat –
bảo hộ” của văn minh Tây phương.
Trở lại chuyện phê phán Gia long “bán nước”
qua hiệp ước Versailles 1787. Nếu ta so sánh hai phạm trù “lịch sử” và luật
pháp, ta thấy rằng tính “khoa học” của lịch sử lại trùng hợp với hai nguyên tắc
nền tảng của luật học ở hai phạm trù “không gian” và “thời gian”.
Nguyên tắc về lãnh thổ (không gian), một người
phạm tội ở đâu thì sẽ bị xử theo luật ở nơi đó. Về thời gian, một người phạm tội
ở thời kỳ nào thì xẽ bị xét xử theo luật ở thời kỳ đó. Đây cũng là nguyên tắc
“bất hồi tố’ trong luật.
Tương tự trong lịch sử, người ta chỉ có thể
phê phán hành vi của một nhân vật lịch sử bằng thước đo đạo đức chính trị của nền
văn minh đó, vào thời kỳ đó mà thôi.
Văn hóa chính trị và quan niệm địa lý chính
trị mỗi nền văn minh mỗi khác, mỗi thời kỳ mỗi khác. Không ai lấy tiêu chuẩn hiện
đại thời nay để phê phán các hành vi của các nhân vật lịch sử hết cả. Cũng
không ai lấy tiêu chuẩn ở nền văn minh này để phê phán hành vi ở một nền văn
minh khác hết cả.
Tức là không ai lấy tiêu chuẩn của một nền cộng
hòa, tức lãnh thổ thuộc chủ quyền toàn dân, phê phán hành vi của một ông vua ở
thời kỳ quân chủ, thời kỹ mà lãnh thổ thuộc sở hữu của ông vua.
Hậu thế đã phê phán ra sao, chuyện xảy ra thời
Tam quốc, khi Tôn Quyền cho Lưu Bị mượn đất Kinh Châu và binh mã?
Sau trận Xích bích phe Lưu Bị (và Khổng minh)
có tiếng mà không có miếng, nếu không nhờ Tôn Quyền cho mượn đất và binh mã thì
làm cách nào họ Lưu dựng nên nhà Tây Thục?
Vấn đề là sau đó Lưu Bị không trả Kinh
Châu. Người đời sau phê phán Lưu Bị là “lưu manh” hay là “mưu lược”? Người
đời có phê phán Tôn Quyền “bán đất” cho ngoại bang hay không?
Thời Xuân thu, ta thấy chuyện nước Tấn buộc
các nước chư hầu phải cho mượn binh mã, hay buộc các chư hầu phải tham gia các
cuộc chinh chiến của nước mình.
Ta cũng thấy chuyện các liên minh “hợp tung”
chống Tần và “liên hoành” theo phe Tần. Nước này mượn binh của nước kia để đánh
một nước khác. Hay là quân nước này hơp với quân nước kia để chống lại nước
khác.
Tất cả đều là chuyện “thường tình”.
Nhưng xét cho cùng thì các chuyện cho mượn
binh mã, hay cắt đất tặng, thường là hành động của bên yếu thuận theo yêu sách
của bên mạnh, để tránh những hiểm nguy đe dọa đến sự hiện hữu của đất nước. Hoặc
của bên mạnh hơn, dùng binh của chư hầu để tránh hao tổn binh lực. Việc mượn
binh mã hiếm khi được thực hiện trên cơ sở tin tưởng, mà luôn là phương tiện
chiến lược để thay đổi cán cân quyền lực. Vì vậy kết quả thường dẫn đến sự rạn
nứt hoặc phản bội ngay sau khi mục tiêu chung được hoàn thành.
Tức là gì? Người ta không thể phê phán Hiệp ước
Versailles 1787 giữa Nguyễn Ánh và vua Louis XVI của nước Pháp bằng những tiêu
chuẩn của thời nay, đặc biệt dưới cái “sử quan” thời duy vật. Lịch sử không có
vụ nhứt nguyên kiểu “ta thắng địch thua, ta đúng địch sai, ta là chính địch là
ngụy…”
Thời đại Nguyễn Ánh là thời đại mà “thiên triều”
tương tự như mặt trời mà các chư hầu như Việt Nam là các vệ tinh quay chung
quanh. Ta không thể lấy tiêu chuẩn Mác – Lênin méo mó thời nay để phê phán hành
vi của Nguyễn Ánh qua Hiệp ước Versailles 1787.
Ta cũng không thể so sánh Hiệp ước Versailles
1787 với Công hàm 1958 của Phạm Văn Đồng.
Nguyễn Ánh không “bán nước”, vì tập tục thời
đó không phê phán hành vi cắt đất hay tặng đất nước mình cho nước khác.
Nhưng Công hàm 1958 phải được xét dưới ánh
sáng của luật pháp quốc tế ngày hôm nay. Theo đó thì ông Hồ và nội các chính phủ
của VNDCCH đều có thể bị kết án là “bán nước”.
No comments:
Post a Comment