Ấn Độ có thể tiếp tục
trỗi dậy mà không cần quan tâm đến biến động khu vực?
Chietigj Bajpaee | Foreign Policy
Viên Đăng Huy dịch thuật
Tình hình Nam Á gần đây đang cho thấy những
điểm tương đồng đến lạ lùng. Phong trào biểu tình do Thế hệ Z dẫn dắt đã lật đổ
Thủ tướng K.P. Sharma Oli ở Nepal vào tháng 9 phảng phất hình ảnh của cái gọi
là “cách mạng gió mùa” (monsoon revolution) ở Bangladesh vào tháng 8 năm ngoái,
khi Thủ tướng Sheikh Hasina bị phế truất, cũng như phong trào aragalaya (đấu
tranh) năm 2022 ở Sri Lanka đã lật đổ Tổng thống đương nhiệm Gotabaya
Rajapaksa. Sự xuất hiện thường xuyên của các phong trào “quyền lực nhân dân”
này phản ánh một số thách thức mang tính cấu trúc mà khu vực đang phải đối mặt,
bao gồm bất ổn chính trị, kiệt quệ kinh tế và áp lực dân số.
Ví dụ, Nepal đã thay đổi 14 chính phủ trong
17 năm kể từ khi chế độ quân chủ bị bãi bỏ vào năm 2008. Các cáo buộc tham
nhũng, gia đình trị và quản lý kinh tế yếu kém, cùng với lệnh cấm 26 nền tảng mạng
xã hội, đã thúc đẩy giới trẻ nước này xuống đường. Hơn một phần tư dân số Nepal
dưới 15 tuổi, nước này có độ tuổi trung vị là 25 và một phần năm thanh niên thất
nghiệp.
Những diễn biến này khiến người ta phải đặt
câu hỏi về mức độ các bất ổn khu vực có thể cản trở khát vọng trở thành cường
quốc toàn cầu của Ấn Độ. Ấn Độ bị bủa vây bởi một vòng cung bất ổn: bốn quốc
gia đang nhận các gói cứu trợ của Quỹ Tiền tệ Quốc tế (Bangladesh, Nepal,
Pakistan, Sri Lanka); hai quốc gia có thể được coi là các quốc gia thất bại hoặc
gần thất bại (Afghanistan, Myanmar); và hai quốc gia có tranh chấp lãnh thổ
đang diễn ra, có lịch sử quan hệ phức tạp với Ấn Độ, và cũng tình cờ là các quốc
gia sở hữu vũ khí hạt nhân (Trung Quốc, Pakistan).
Điều khiến vấn đề thêm phức tạp là việc Nam Á
nằm trong số các khu vực kém hội nhập nhất về kinh tế và thể chế trên thế giới:
Thương mại nội khối chỉ chiếm 5% tổng kim ngạch thương mại, và Hiệp hội Hợp tác
Khu vực Nam Á (SAARC) đã không tổ chức một cuộc họp thượng đỉnh nào kể từ năm
2014.
Phần lớn các cuộc thảo luận về Ấn Độ trong những
năm gần đây có xu hướng tập trung vào vai trò và khát vọng toàn cầu của nước
này: cương vị chủ tịch G20 năm 2023, chương trình không gian, sự vươn lên trở
thành nền kinh tế lớn tăng trưởng nhanh nhất thế giới, trên đà trở thành nền
kinh tế lớn thứ ba thế giới vào cuối thập kỷ này, và mối quan hệ của nước này với
các cường quốc lớn, bao gồm Mỹ, Trung Quốc, Nga và châu Âu. Khi chỉ tập trung
vào những điều ấy, khu vực láng giềng của Ấn Độ thường bị lãng quên.
Một phần điều này phản ánh mong muốn của
chính New Delhi là được nhìn nhận như một cường quốc toàn cầu mới nổi và mong
muốn tách biệt quan hệ với Pakistan. Mặc dù đã mời tất cả các nhà lãnh đạo Nam
Á đến dự lễ nhậm chức của mình vào năm 2014 và đưa ra chính sách “Láng giềng
trên hết” trong nhiệm kỳ đầu tiên, Thủ tướng Narendra Modi và chính phủ của ông
ngày càng tìm cách vươn ra ngoài khu vực.
Điều này trở nên rõ ràng tại Đối thoại
Raisina năm nay, hội nghị chính sách đối ngoại hàng đầu của Ấn Độ, do Bộ Ngoại
giao Ấn Độ đồng bảo trợ. Hội nghị bao gồm các vấn đề từ xung đột Ukraine và
Gaza đến vai trò của Ấn Độ đối với trí tuệ nhân tạo và quản trị không gian,
nhưng có rất ít hoặc không có cuộc thảo luận nào về các diễn biến ở khu vực
láng giềng của Ấn Độ—một lựa chọn đáng ngạc nhiên, nếu xét đến việc nó diễn ra
chỉ nửa năm sau cuộc “cách mạng gió mùa” ở Bangladesh, vốn đã lật đổ một trong
những chính phủ được cho là thân Ấn Độ nhất trong khu vực.
Sự kiện này cũng diễn ra một tháng trước vụ tấn
công chết người ở Kashmir vào tháng 4, vốn đã châm ngòi cho giai đoạn thù địch
tồi tệ nhất giữa Ấn Độ và Pakistan trong hơn hai thập kỷ. Việc các đại biểu
tham dự hội nghị tập trung thảo luận về khả năng Ấn Độ triển khai lực lượng gìn
giữ hòa bình để giám sát một lệnh ngừng bắn tiềm năng ở Ukraine, nhưng lại
không hề bàn bạc về vai trò của Ấn Độ trong việc ổn định tình hình tại
Afghanistan hay Myanmar, đã cho thấy mức độ lãng quên có chủ ý đang len lỏi vào
chính sách ngoại giao láng giềng của nước này.
Khi được hỏi trong một cuộc thảo luận kín về
tình trạng của chủ nghĩa khu vực ở Nam Á sau những bất đồng gần đây giữa Ấn Độ
và Pakistan, một nghị sĩ Ấn Độ cùng phái đoàn đa đảng đến thăm Anh đã lập luận
rằng Ấn Độ không xác định các nước láng giềng của mình bằng sự gần gũi về địa
lý, mà bằng các lợi ích chung. Dù đúng là những liên minh giữa các quốc gia có
cùng chí hướng—từ Bộ tứ Đối thoại An ninh cho đến khối BRICS—đã ngày càng phát
triển trong những năm gần đây, nhưng những sáng kiến này không thể thay thế việc
xây dựng mối quan hệ vững chắc với các nước láng giềng.
Nhiều người ở Ấn Độ sẽ cho rằng những thách
thức của chủ nghĩa khu vực ở Nam Á là do mối quan hệ bất hòa kinh niên giữa Ấn
Độ và Pakistan. Nhưng mặc dù điều này có thể giải thích cho tình trạng đáng buồn
của SAARC, mà Pakistan là một thành viên, nó không giải thích tại sao các diễn
đàn khu vực khác cũng gần như không hiệu quả. Một cơ quan khu vực khác, Sáng kiến
Vịnh Bengal về Hợp tác Kỹ thuật và Kinh tế Đa ngành (BIMSTEC), không có sự tham
gia của Pakistan, cũng chỉ tổ chức được sáu cuộc họp thượng đỉnh kể từ khi được
thành lập vào năm 1997.
Sự đối lập giữa tình trạng bất ổn ở Nam Á với
xu hướng xem nhẹ các diễn biến khu vực của New Delhi đòi hỏi một sự xem xét kỹ
lưỡng vốn thường thiếu trong các cuộc thảo luận về chính sách đối ngoại của Ấn
Độ.
Hầu hết các mối đe dọa an ninh bên ngoài của
các quốc gia đều xuất phát từ vùng ngoại vi của họ. Đây là lý do tại sao việc
Nga xâm lược Ukraine là một mối đe dọa hiện hữu đối với an ninh của châu Âu,
hay tại sao mối đe dọa lớn nhất đối với Mỹ trong Chiến tranh Lạnh lại đến từ
sân sau của họ trong cuộc khủng hoảng tên lửa Cuba. Hoặc tại sao nhập cư bất hợp
pháp lại là một vấn đề nhạy cảm đến vậy trong nền chính trị của nhiều quốc gia.
Đây là lý do tại sao việc giới hoạch định chính sách đối ngoại Ấn Độ mải mê xây
dựng hình ảnh cường quốc toàn cầu mà lơ là nghĩa vụ của một cường quốc khu vực
là một chiến lược không bền vững.
Sự phớt lờ có chủ ý này đối với khu vực láng
giềng của Ấn Độ lan sang cả vùng ngoại vi của đất nước. Bất ổn gần đây ở
Ladakh—một lãnh thổ tranh chấp giáp với Trung Quốc và Pakistan—tương tự như sự
bất ổn ở Manipur—một bang của Ấn Độ giáp với Myanmar—vào năm 2023. Trong cả hai
trường hợp, chính phủ Ấn Độ đều bị coi là phản ứng chậm chạp. Ví dụ, ông Modi
chỉ đến thăm Manipur hơn hai năm sau khi bất ổn xảy ra ở đó.
Chính sách Nam Á của New Delhi cũng có ý
nghĩa rộng lớn hơn đối với chính sách đối ngoại chung của đất nước. Nỗ lực can
dự về phía đông của Ấn Độ theo khuôn khổ chính sách “Hướng Đông”—được chính phủ
Modi đổi tên thành chính sách “Hành động phía Đông” để cho thấy sự can dự chủ động
hơn—đã bị chậm lại do xung đột ở Myanmar và sự hiện diện của một chính phủ ít
thân thiện với Ấn Độ hơn ở Bangladesh. Điều này đã khiến các nỗ lực thiết lập
những tuyến kết nối đường bộ trực tiếp với Đông Nam Á bị đình trệ.
Nỗ lực can dự về phía Tây của Ấn Độ tại Trung
Đông (mà New Delhi gọi là ‘Tây Á’) thậm chí còn phức tạp hơn. Trở ngại đến từ mối
quan hệ vốn luôn trắc trở với Pakistan và tình hình bất ổn kéo dài ở
Afghanistan (dù vậy, việc New Delhi đang tăng cường tiếp cận chính quyền
Taliban ở Kabul cho thấy họ đang nỗ lực vượt qua rào cản này).
Ấn Độ đã xoay xở vượt qua những tắc nghẽn này
bằng cách tăng cường các mối liên hệ hàng không, hàng hải và giao lưu nhân dân
với khu vực thông qua các sáng kiến như cảng Chah Bahar do Ấn Độ điều hành ở
Iran và Hành lang Kinh tế Ấn Độ-Trung Đông-Châu Âu, được công bố bên lề nhiệm kỳ
chủ tịch G20 của Ấn Độ vào năm 2023. Và New Delhi đã nỗ lực tiếp cận gần đây với
chính quyền Taliban ở Kabul. Tuy nhiên, sự can dự của Ấn Độ vào Trung Đông vẫn
còn khá mong manh, và điều này tạo ra một sự tương phản rõ rệt khi so sánh với
việc Pakistan và Ả Rập Xê Út công bố hiệp ước quốc phòng vào tháng 9.
Chủ nghĩa khu vực cũng quan trọng từ quan điểm
kinh tế. Điều quan trọng là phải nhận ra rằng Trung Quốc đã chọn con đường khu
vực hóa trước khi toàn cầu hóa bằng cách hội nhập nền kinh tế và cơ sở hạ tầng
của mình với các nước láng giềng. Điều này đã giúp củng cố vai trò trung tâm của
nước này đối với các chuỗi cung ứng toàn cầu và mạng lưới sản xuất xuyên quốc
gia. Ấn Độ sẽ cần phải làm điều tương tự nếu muốn thực hiện tham vọng trở thành
một trung tâm sản xuất toàn cầu.
Các chính phủ phương Tây cũng có lỗi khi nhìn
nhận Ấn Độ một cách đơn lẻ mà không tính đến bối cảnh khu vực rộng lớn hơn. Một
phần điều này phản ánh những vướng mắc quan liêu, khi Ấn Độ thường do một bộ phận
khác xử lý so với phần còn lại của Nam Á: Lấy ví dụ, ngay tại Bộ Ngoại giao
Anh, họ có một tổng cục riêng cho Ấn Độ và Ấn Độ Dương và một Tổng cục khác cho
Afghanistan và Pakistan.
Trong Bộ Quốc phòng Mỹ (nay là Bộ Chiến
tranh), Ấn Độ thuộc Bộ Tư lệnh Ấn Độ Dương-Thái Bình Dương, trong khi
Afghanistan và Pakistan thuộc Bộ Tư lệnh Trung tâm Mỹ. Việc bổ nhiệm Sergio
Gor, người từng giữ chức đặc phái viên về Nam và Trung Á, làm đại sứ mới của Mỹ
tại Ấn Độ là một diễn biến tích cực trong bối cảnh này—bất chấp những lo ngại của
New Delhi rằng động thái này sẽ khiến Mỹ quay lại chính sách “gộp chung” Ấn Độ-Pakistan,
đồng thời coi Ấn Độ đơn thuần là một cường quốc Nam Á.
Cuối cùng, cần phải có một sự thay đổi trong
tư duy, liên kết chính sách Ấn Độ chặt chẽ hơn với chính sách Nam Á rộng lớn
hơn. Khi đặt Ấn Độ vào bối cảnh chung của toàn Nam Á, các chính phủ phương Tây
cũng sẽ có điều kiện thuận lợi hơn để giải quyết những thách thức chung mà cả
khu vực này đang phải đối mặt.
Những thách thức này bao gồm gánh nặng dân số,
với gần 40% dân số khu vực dưới 18 tuổi; rủi ro khí hậu, vì Nam Á là một trong
những khu vực dễ bị tổn thương nhất trước các cú sốc khí hậu; và di cư, vì người
Nam Á là một trong những nguồn nhập cư không có giấy tờ hàng đầu ở nhiều nước
phương Tây.
Các chính phủ (bên ngoài) cũng cần phải tư
duy lại cách thức tương tác với các quốc gia trong khu vực, bởi các phong trào
quần chúng đang dần quét sạch nền chính trị gia đình trị đã bám rễ sâu, nhường
chỗ cho một thế hệ lãnh đạo mới trỗi dậy.
Điều này thể hiện rõ nhất ở Sri Lanka, nơi
các cuộc bầu cử tổng thống và quốc hội vào năm 2024 đã thách thức mọi dự đoán với
sự thất bại của các ứng cử viên từ các triều đại chính trị lâu đời. Người chiến
thắng (Anura Kumara Dissanayake) lãnh đạo một liên minh các đảng cánh tả, một
trong số đó (Janatha Vimukthi Peramuna) đã từng lãnh đạo một cuộc nổi dậy vũ
trang trên cả nước. Kết quả bầu cử bất ngờ này vừa cho thấy một nền chính trị đầy
biến động của Sri Lanka, đồng thời cũng phản ánh mức độ thất vọng của người dân
đối với giới chính trị chính thống của đất nước.
Các xu hướng tương tự đang xuất hiện ở
Bangladesh và Nepal. Cả hai quốc gia đang được điều hành bởi các chính phủ lâm
thời do các nhân vật uy tín đứng đầu: Người đoạt giải Nobel Muhammad Yunus ở
Bangladesh và cựu Chánh án Sushila Karki ở Nepal. Các nhóm do sinh viên và
thanh niên lãnh đạo, bao gồm Đảng Công dân Quốc gia ở Bangladesh và Hami Nepal,
cũng đang nổi lên như những tiếng nói nổi bật ở cả hai quốc gia.
Điều này đe dọa làm suy yếu sự kìm kẹp lâu đời
của giới tinh hoa ở cả hai quốc gia—thời đại của “cuộc chiến của các bà hoàng”
(battling begums) ở Bangladesh, khi quyền lực xoay chuyển giữa Liên đoàn Awami
và Đảng Dân tộc Bangladesh, và những người đàn ông lớn tuổi của ba đảng chính
trị chính của Nepal (Quốc đại Nepal và hai Đảng Cộng sản Nepal).
Xen lẫn những thay đổi chính trị này là các
diễn biến địa chính trị rộng lớn hơn. Các quốc gia trong khu vực thường tìm
cách tận dụng sự cạnh tranh giữa Trung Quốc và Ấn Độ để đạt được những nhượng bộ
từ cả hai quốc gia nhằm đáp ứng nhu cầu phát triển của họ trong khi vẫn giữ được
quyền tự chủ. Ảnh hưởng của Trung Quốc ở Nam Á đã tăng lên khi nước này nổi lên
như một đối tác thương mại hàng đầu, nguồn đầu tư nước ngoài và là đối tác quốc
phòng ngày càng quan trọng đối với các quốc gia ở Nam Á.
Trong khi đó, các quốc gia trong khu vực duy
trì mối quan hệ phức tạp với Ấn Độ, vì các đảng phái và ứng cử viên chính trị
thường tranh cử trên nền tảng chống Ấn Độ. Điều này đã được thể hiện rõ ở
Maldives và Bangladesh, nơi luận điệu “Ấn Độ cút đi” là một phần nổi bật trong
các chiến dịch tranh cử gần đây của cả hai quốc gia.
Trên thực tế, với tư cách là bá quyền khu vực,
Ấn Độ vẫn là đối tác quan trọng của các quốc gia trong khu vực. Hãy nhìn vào
cách New Delhi tiếp tục đóng vai trò là người cho vay cứu cánh cuối cùng, như với
sự hỗ trợ kinh tế mà nước này cung cấp cho Sri Lanka và Maldives trong các cuộc
khủng hoảng tài chính gần đây của họ.
Trong một thế giới nơi các chuẩn mực và thể
chế toàn cầu đang chịu áp lực, các nhóm khu vực đang tìm thấy những giá trị mới.
Điều này càng làm tăng thêm tính cấp bách của nhiệm vụ tăng cường hội nhập và hợp
tác khu vực ở Nam Á.
Khi tôi đưa ra đề xuất này với Bộ trưởng Ngoại
giao Ấn Độ S. Jaishankar vào đầu năm nay, câu trả lời của ông là chỉ ra các ví
dụ về các sáng kiến mà qua đó Ấn Độ đã tìm cách tăng cường kết nối khu vực, từ
các dự án cơ sở hạ tầng đến hỗ trợ tài chính và phân phối vắc-xin cho đến cung
cấp ngũ cốc. Nhưng điều này không giải thích tại sao hội nhập khu vực và lòng
tin trong khu vực vẫn còn yếu kém. Rõ ràng, vẫn còn nhiều điều cần phải cải thiện.
Điều này cũng quan trọng đối với phương Tây,
nơi các cuộc tranh luận về nhập cư, khí hậu và vai trò toàn cầu của Trung Quốc
đều đan xen với các diễn biến ở Nam Á ở các mức độ khác nhau. Mặc dù họ không
thể ép buộc hội nhập khu vực, các quốc gia cùng chí hướng có thể tận dụng thế mạnh
và khả năng tập hợp của mình để tạo điều kiện hợp tác trong các lĩnh vực cụ thể,
chẳng hạn như khả năng chống chịu khí hậu, di cư và tăng cường kết nối vật lý
và kỹ thuật số.
Nói thì dễ làm thì khó, trong bối cảnh viện
trợ phát triển toàn cầu bị cắt giảm, các ưu tiên đối ngoại cạnh tranh và áp lực
tài chính. Nhưng với việc Nam Á chiếm một phần tư dân số thế giới, những gì xảy
ra ở khu vực này đều có ý nghĩa quan trọng đối với phần còn lại của thế giới.
-----------------------------
Chietigj Bajpaen là nghiên cứu viên cao cấp về Nam Á tại Chatham House.
No comments:
Post a Comment