Trong khi phần lớn thế giới đang bận rộn xem Nga
nuốt chửng Crimea thì một số khác đã kịp nhận ra các vụ tranh chấp lãnh thổ đầy
nguy hiểm cũng bắt đầu diễn ra hồi đầu tháng này ở khu vực Biển Đông.
Tại Bãi ngầm Thomas II, một lực lượng nhỏ thủy quân
lục chiến của Philippines từ lâu đã đóng căn cứ tại đây và được củng cố trên
boong tàu BRP Sierra Madre rỉ sét – một tàu hải quân nửa chìm trong rặng
san hô từ năm 1999. Kể từ đó, các tàu và thủy quân lục chiến làm nhiệm vụ thể
hiện chủ quyền của Manila đối với bãi ngầm tại khu vực này. Tuy nhiên, trong
thời gian gần đây, Trung Quốc đã cố gắng tuyên bố chủ quyền của mình bằng cách
tăng cường tuần tra đến khu vực gần Bãi ngầm Thomas II.
Vào ngày 9 tháng Ba năm 2014, Trung Quốc thực hiện
các động thái mạnh mẽ nhằm chấm dứt tình trạng giằng co tại bãi ngầm. Lần đầu
tiên trong 15 năm, Bắc Kinh đã ngăn chặn Manila trong việc cung cấp vật tư cho
tàu Sierra Madre. Cảnh sát biển Trung Quốc buộc hai tàu của Philippines
phải dời đi hướng khác. Manila đã trả đũa cuộc phong tỏa bằng cách thả thực
phẩm và nước cho nhóm thủy quân lục chiến bằng đường hàng không. Các diễn biến
tiếp theo sẽ phụ thuộc vào việc Manila có tiếp tục cung cấp thực phẩm bằng tàu
hay máy bay hay không. Mặt khác, việc này phụ thuộc vào Bắc Kinh có để các tàu
này tiếp cận, hay truy đuổi, đánh chìm hoặc bắn hạ tàu Philippines lại là
chuyện khác.
Trung Quốc cáo buộc rằng các tàu Philippines được
“chất đầy vật liệu xây dựng” nhằm xây dựng căn cứ của Manila tại khu vực này.
Tuy nhiên, Manila cho biết các tàu chỉ đơn thuần cố gắng tái cung cấp vật dụng
cho hải quân nhằm “cải thiện các điều kiện ở đó”, chứ không phải để “mở rộng
hoặc xây dựng cơ sở vĩnh viễn trên bãi cát ngầm”.
Hơn một chục năm trước đây, Trung Quốc và mười nước
ASEAN đã ký Tuyên bố năm 2002 về Quy tắc Ứng xử của các bên ở Biển Đông hay còn
gọi là DOC. Các bên ký kết sẽ thực thi cái gọi là “giải quyết tranh chấp lãnh
thổ và quyền tài phán bằng biện pháp ôn hòa mà không đe dọa hoặc sử dụng vũ
lực”. Rõ ràng, mối đe dọa của Trung Quốc đối với các tàu cung cấp vật dụng của
Philippines ở vùng nước nông Thomas II vào ngày 9 tháng Ba đã vi phạm DOC.
Hành động tranh chấp kéo dài tới mức kỉ lục đối với
những khẳng định đơn phương xuống tận phía Nam và phía Đông Biển Đông đã thể
hiện rõ âm mưu của Bắc Kinh. Trung Quốc muốn và đang cố gắng đóng vai trò thống
trị trên các vùng biển mà họ gọi là “chuỗi đảo đầu tiên” cũng như các phần liên
quan trên rìa đất hình bản đồ chữ U (tức đường lưỡi bò chín đoạn).
Câu hỏi đặt ra không phải về “ý đồ của Trung Quốc là
gì?”. Câu trả lời mà nhiều người đã biết là Trung Quốc muốn thống trị khu vực
Biển Đông. Có lẽ câu hỏi nên được đặt ra bây giờ là “những nước khác sẽ chuẩn
bị ứng phó như thế nào nếu có sự cố xảy ra?”.
Cả Hoa Kỳ lẫn Nhật Bản đều không muốn chiến tranh
diễn ra ở Biển Đông. Washington hiện đang bận rộn với cuộc xâm lược và thôn
tính Crimea của Nga – chưa kể đến ngoại giao không có kết quả của Hoa Kỳ về các
vấn đề Iran, Isarel–Palestine và Syria. Ngoài ra, số phận bí ẩn của chuyến bay
MH370 thuộc hãng hàng không Malaysia Airlines đã thu hút hết sự chú ý còn sót
lại. Đối với những sự kiện này, có lẽ Trung Quốc khó có thể tìm được thời điểm
nào tốt hơn để phong tỏa các tàu của Philippines như hiện nay.
Biển Đông là đường hàng hải chính của Đông Nam Á.
Những hành động trong khu vực này của Trung Quốc đều trực tiếp tác động đến các
nước khác. Câu hỏi được nêu ra là khi Trung Quốc phong tỏa hoặc ngăn chặn các
tàu nước khác thì ASEAN sẽ làm gì? Họ sẽ tiếp tục bỏ qua các động thái của
Trung Quốc, hay theo phép lịch sự, sẽ chống lại Trung Quốc?
Ngày 18 tháng Ba vừa qua, các quan chức ASEAN và đối
tác Trung Quốc đã gặp nhau tại Singapore tại kì họp thứ 10 của Nhóm Công tác
chung về việc thực hiện DOC. Nhóm họp đã được triệu tập định kì từ năm 2005
nhưng hành động này thực sự vô nghĩa. Trung Quốc lâu nay đã quen với việc hành
động theo kiểu “lá mặt lá trái”, vừa tham gia các cuộc thảo luận với ASEAN và
cùng lúc vừa thay đổi những quy tắc trên khu vực Biển Đông.
Các nước ASEAN và Trung Quốc có vẻ như đang tiếp tục
bàn về việc chuyển từ DOC sang COC – một bộ quy tắc ứng xử ở Biển Đông kèm theo
các điều khoản ràng buộc. Nhưng bản thân việc thực thi DOC tiếp tục chứng minh
sự vô nghĩa. Trung Quốc không phải là nguyên nhân duy nhất của sự chậm trễ này
nhưng chiến lược của Trung Quốc là quá rõ ràng: sử dụng công cụ ngoại giao
không hiệu quả để “câu thời gian” cho tình hình thực tế, qua đó đảm bảo rằng
các cuộc đàm phán trong tương lai sẽ phục vụ cho mục đích của Trung Quốc.
Có khả năng kết quả của hầu hết các cuộc đàm phán
tại Singapore là sự trình diễn niềm tin vào một khung thời gian ngày càng lùi
lại: sự tuân thủ cuối cùng đối với DOC và sự tồn tại cuối cùng của COC.
Trong tháng Mười một năm 2013, Trung Quốc tuyên bố
hành động đơn phương bằng việc xác lập Vùng Nhận diện Phòng không tại Biển Hoa
Đông. Phạm vi của vùng nhận diện này, cả về mặt hàng hải và hàng không, đều gây
nguy hiểm cho Quyền tự do hàng hải cũng như Quyền tự do hàng không trên vùng
biển Đông Bắc Á.
Ai cũng có thể đoán được ASEAN sẽ không bình luận gì
về tuyên bố đó của Trung Quốc. Các nước trong khu vực đưa ra các lời bình luận
rất khiêm tốn để không làm phật ý Bắc Kinh và có vẻ không thiên về lợi ích của
Tokyo và Washington. Tuy nhiên, cả Hoa Kỳ lẫn Nhật Bản đều phủ nhận sự tồn tại
của vùng nhận diện này. Một hội nghị thượng đỉnh giữa ASEAN – Nhật Bản tại
Tokyo vào ngày 14 tháng Mười hai đã đưa ra tuyên bố chung bao gồm một chương về
“tự do và an toàn hàng hải và hàng không”.
Mười một nhà lãnh đạo đã cùng “nhất trí tăng cường
hợp tác trong việc đảm bảo tự do hàng không, an toàn hàng không dân dụng phù
hợp với các nguyên tắc công nhận của luật pháp quốc tế…”. Đây là những chế tài
lộ liễu nhất để thể hiện thái độ đối với những nỗ lực chiếm đóng của Trung Quốc
tại quần đảo Sensaku/Điếu Ngư và việc cố gắng kiểm soát giao thông hàng không
trong khu vực Biển Hoa Đông.
Ngoài ra, tại một cuộc họp ngoại trưởng được tổ chức
tại Bagan vào ngày 17 tháng Một năm 2014, mặc dù không có một tuyên bố chung
được công bố nhưng theo bản tóm tắt chính thức trên website của Ban thư ký
ASEAN và Bộ Ngoại giao Miến Điện, thì các bộ trưởng đã “bày tỏ quan ngại về
diễn biến gần đây tại khu vực Biển Đông. Họ đã tái khẳng định tầm quan trọng
của việc duy trì hòa bình và ổn định an ninh hàng hải, (và) tự do hàng hải,
hàng không trên Biển Đông”. Họ cũng nói rằng cần phải “kêu gọi các bên tiếp tục
tự kiềm chế đối với các hành động khiêu khích” ở khu vực này.
Philippines đã tuyên bố nước này sẽ tiếp tục gửi
thêm tàu để tiếp tế cho Sierra Madre. Có lẽ lập trường ngoan cố đó
sẽ khiến Nhóm Hoạt động chung công khai thúc đẩy sự “tự kiềm chế” sau khi bảo
đảm riêng với Bắc Kinh rằng những lời chỉ trích chỉ dành riêng cho Manila và có
thể một cuộc thảo luận sôi nổi về Biển Đông đã diễn ra tại Singapore.
Các nước ASEAN thậm chí có thể bất chấp cái bóng lớn
Trung Quốc và đưa ra một bản tóm tắt các sự kiện lên trang web của Ban Thư ký
ASEAN, biểu hiện sự không tán thành đối với những rủi ro liên quan đến Quyền tự
do hàng hải cũng như Quyền tự do hàng không.
Phải chăng Bắc Kinh đã tự “đóng hộp” chính mình?
Liệu các lãnh đạo Trung Quốc có thấy chính mình bị bó buộc trong tình trạng khó
xử hay không – tức không thể ngăn chặn tàu Philippines và máy bay vì sợ dự luận
chủ nghĩa dân tộc cực đoan trong nước cho là Trung Quốc yếu đuối, nhưng cùng
lúc cũng không thể cô lập thủy quân lục chiến của Manila mà không làm các nước
láng giềng Đông Nam Á xa lánh Bắc Kinh.
Hoặc có lẽ ASEAN sẽ nhắm mắt làm ngơ, để cho người
Philippines tự bảo vệ mình, và do đó, sự đồng thuận theo “Phương cách ASEAN” sẽ
tạo điều kiện để Trung Quốc thống trị Biển Đông. Chắc chắn một số người ở Đông
Nam Á cho rằng kết quả cuối cùng đã là một kết luận có thể biết trước.
Donald K. Emmerson là người đứng đầu Diễn đàn Đông
Nam Á tại Trung tâm Nghiên cứu Châu Á–Thái Bình Dương Shorenstein thuộc Đại học
Stanford.
©
2014 Bản tiếng Việt TẠP CHÍ PHÍA TRƯỚC – www.phiatruoc.info
------------------------------
Posted on Apr 10, 2014
Posted on Apr 1, 2014
Posted on Apr 3, 2014
No comments:
Post a Comment