Justin
Vogt và Anders Fogh Rasmussen
Foreign
Affairs
Phạm Vũ Lửa Hạ dịch
11/04/2014
Sau 8 năm làm thủ tướng Đan Mạch, Anders Fogh
Rasmussen được bổ nhiệm làm tổng thư ký NATO (North Atlantic Treaty
Organization – Tổ chức Hiệp ước Bắc Đại Tây Dương) vào năm 2009. Trong nhiệm kỳ
của mình, ông đã phải xử lý ba vấn đề chính: giảm dần cuộc chiến do Mỹ đứng đầu
và NATO thực hiện ở Afghanistan; đợt can thiệp quân sự của NATO năm 2011 để bảo
vệ thường dân ở Libya, góp phần làm sụp đổ chế độ Qaddafi; và gần đây nhất là
cuộc khủng hoảng đang tiếp diễn ở Ukraine.
Sau
đây là cuộc trao đổi giữa Justin Vogt, phó tổng thư ký tòa soạn tạp chí Foreign
Affairs, với ông tại Washington, D.C. hôm 19/3/2014.
-----------------
NATO
trở lại
Rasmussen tại trụ sở Liên Hiệp Quốc năm 2011. (Eric Thayer / Reuters)
Ông
nghĩ tại sao Tổng thống Nga Vladimir Putin quyết định chiếm đóng và sáp nhập
Crimea?
- Khó mà đoán được các động cơ, nhưng để tôi thử.
Putin đã nói rằng sự sụp đổ của Liên Xô là thảm họa lớn nhất của thế kỷ. Điều
đó phản ánh suy nghĩ căn bản của ông ta. Theo tôi, ông ta mong muốn khôi phục
sự vĩ đại của nước Nga và thiết lập, hay tái thiết lập, tầm ảnh hưởng ở khu vực
lân cận Nga. Nói cụ thể hơn, tôi nghĩ có thể có những động cơ phụ. Thông qua
một số “cuộc xung đột bị đóng băng” (frozen conflicts, tức xung đột đã chấm dứt
nhưng chưa có hiệp ước hòa bình hay giải pháp chính trị được các bên chấp nhận,
N.D.) trong khu vực này – ở Transnistria, ở Abkhazia, ở South Ossetia, và nhìn
từ một góc độ nào đó cũng ở Nagorno-Karabakh – Nga cố gắng ngăn chặn các quốc
gia hội nhập Châu Âu-Đại Tây Dương.
Ông
có ấn tượng gì về Putin và khả năng lãnh đạo của ông ta?
- Tôi đã đương đầu với Putin trước đây khi tôi làm
thủ tướng Đan Mạch, và trong thời gian Đan Mạch nắm chức chủ tịch Liên hiệp
Châu Âu vào sáu tháng cuối năm 2002. Ngoài nhiều chuyện khác, thay mặt cho Liên
hiệp Châu Âu, chúng tôi phải đàm phán tuyến vận tải qua Lithuania đến
Kaliningrad. Đó là một cuộc đàm phán rất gay go giữa Liên hiệp Châu Âu và Nga.
Và tôi cũng tham gia các vấn đề khác. Ý tôi là ta không nên đánh giá thấp sự
quyết đoán của Putin. Ông ta có mục tiêu rõ ràng, chiến lược rõ ràng, và chiến
thuật rõ ràng. Muốn sánh được, ta cần có thái độ vững vàng và ý chí quyết đoán mạnh
mẽ.
Mỗi
bên can dự vào cuộc xung đột này có luận điệu riêng của mình về nguyên cớ làm
sao ra đến nông nỗi này. Ông nhận định thế nào về những sự kiện ở Ukraine đã
đẩy nhanh diễn biến tình hình đến nước này?
- Tôi cho rằng đó là một cuộc nổi dậy quần chúng
rộng khắp dựa trên hai điều. Bước cụ thể đã gây nên cuộc nổi dậy này là việc
[Tổng thống Ukraine Victor] Yanukovych quyết định cắt đứt quan hệ, hay ít nhất
là không ký hiệp định liên kết với Liên hiệp Châu Âu, mà lại mưu cầu sự hỗ trợ
kinh tế của Nga. Dân chúng Ukraine rõ ràng nhận ra rằng điều đó sẽ khiến
Ukraine chịu ảnh hưởng của Nga. Và tôi nghĩ đại đa số người dân Ukraine muốn
hội nhập Châu Âu-Đại Tây Dương và hợp tác nhiều hơn với Liên hiệp Châu Âu.
Nhưng ngoài chuyện đó ra, tôi cũng nghĩ rằng cảm nhận chung về nạn tham nhũng
và sự kém hiệu quả trong chính quyền đã góp phần dẫn đến cuộc nổi dậy.
Người
Nga, và một số ở Ukraine, xem chuyện đã xảy ra là một cuộc đảo chính, và cho
rằng chính quyền hiện tại ở Kiev là giới lãnh đạo không được dân cử. Ông trả
lời ra sao về nhận định đó?
- Trước tiên, tôi xin nhắc lại là Tổng thống
Yanukovych bỏ trốn khỏi đất nước. Sau đó quốc hội tiếp quản (chính
quyền). Và cũng có thực tế là nhiều hay phần lớn đảng viên thuộc đảng của Tổng
thống Yanukovych bỏ đảng và gia nhập phe đối lập trong quốc hội. Và một giới
lãnh đạo mới được bầu lên với tỉ lệ đại đa số trong quốc hội. Các nghị sĩ quốc
hội đã được bầu trong các cuộc bầu cử quốc hội được xem là tự do, công bằng, và
minh bạch. Nên tôi nghĩ quốc hội Ukraine có tính chính danh. Tất cả các quyết
định liên quan đến chính quyền mới được đưa ra với tỉ lệ đa số rất, rất lớn. Và
đây là chính quyền tạm thời, sẽ chuẩn bị cuộc bầu cử vào tháng 5. Nên theo tôi,
xét về tất cả các mặt, các thể chế dân chủ Ukraine đảm nhận trách nhiệm theo
một cách có tính chính danh.
Trong
20 năm qua, khi ngày càng có nhiều nước ở Đông Âu gia nhập NATO, giới phê bình
sự mở rộng này đã lo ngại rằng điều này sẽ khiêu khích Nga tiến hành các hành
động xâm lấn để phòng vệ. Liệu sự mở rộng của NATO có góp phần dẫn đến cuộc
khủng hoảng này?
- Không. Tôi xin nhấn mạnh rằng chưa khi nào NATO là
mối đe dọa đối với Nga. Chúng tôi xưa nay rất minh bạch. Chúng tôi thậm chí còn
đưa Nga vào các mối quan hệ hợp tác của chúng tôi. Năm 1997 chúng tôi đã tuyên bố
rằng chúng tôi không xem nhau là thù địch. Chúng tôi đã tuyên bố rằng chúng tôi
sẽ không sử dụng vũ lực đối với nhau. Sự mở rộng của NATO không phải là mối đe
dọa đối với Nga. Ngược lại, thông qua việc mở rộng NATO – và cả sự mở rộng Liên
hiệp Châu Âu – chúng tôi đã thiết lập một khu vực an ninh, ổn định, và thịnh
vượng ở Đông và Trung Âu. Và Nga được lợi rất nhiều từ điều đó. Khi xét đến
thương mại và đầu tư, ta sẽ thấy Nga hưởng nhiều lợi ích từ tăng trưởng kinh tế
ở khu vực đó của Châu Âu, nhờ khuôn khổ mà chúng tôi đã tạo nên bên trong NATO,
bên trong Liên hiệp Châu Âu. Trong nhiều thế kỷ, Nga đã mong muốn có ổn định
dọc biên giới phía Tây của mình. Và đó chính là điều chúng tôi đã cung cấp.
Ngoài ra, Nga không có quyền quyết định liệu một quốc gia riêng lẻ muốn gia
nhập NATO, hay hợp tác với NATO, hay có chính sách không liên minh. Điều đó do
từng quốc gia cụ thể quyết định.
Ví
dụ như Georgia.
- Chẳng có gì bí mật là Georgia muốn trong tương lai
gia nhập NATO. Quả thực, tại Hội nghị Thượng đỉnh NATO năm 2008, chúng tôi đã
quyết định rằng Georgia sẽ gia nhập NATO, dĩ nhiên nếu họ đáp ứng các tiêu chí
cần thiết. Chúng tôi đang gắng giải quyết chuyện này. Hiện tại họ chưa đáp ứng
đủ mọi tiêu chí, nhưng họ có ước vọng rõ ràng. Chúng tôi sẵn sàng giúp họ đáp
ứng các tiêu chí cần thiết. Và điều đó sẽ không bị thay đổi bất chấp những gì
chúng ta đã chứng kiến ở Ukraine.
Nhưng
sẽ kế hoạch ra sao để Georgia giải quyết những vùng ly khai Abkhazia và Nam
Ossetia mà hiện đang bị Nga chiếm đóng?
- Chuyệnđó phức tạp. Và chúng tôi vẫn chưa đến cột
mốc đó. Chúng tôi đều hiểu rõ các vấn đề. Nhưng tôi cũng nghĩ Georgia nhận ra
rằng việc gia nhập NATO sẽ không diễn ra trong tương lai rất gần. Vì thế chúng
tôi sẽ quan sát xem về sau các vấn đề Abkhazia và Nam Ossetia có thể và sẽ được
giải quyết ra sao.
Mỹ
và NATO đang cố gắng trấn an các nước thành viên liên minh ở Đông Âu, những
nước mà lâu nay đã quan sát các hành động của Nga với tâm lý ngày càng lo lắng,
e ngại về chủ trương bành trướng rành rành của Putin. NATO đã phái thêm máy bay
F-16 sang Ba Lan, thêm máy bay F-15 sang các nước vùng Baltic, tăng số chuyến
bay kiểm soát và cảnh báo không phận (AWAC) trên vùng trời Ba Lan và Romania,
và bắt đầu tiến hành thêm các cuộc tập trận tàu chiến ở Hắc Hải. Nhưng một số người,
trong đó có Thượng nghị sĩ Mỹ John McCain, đang kêu gọi có phản ứng mạnh mẽ
hơn, gồm các biện pháp như tăng các đợt triển khai quân sang Đông và Trung Âu
và đẩy nhanh tốc độ mở rộng NATO.
- Đừng nên nghi ngờ sự quyết tâm của chúng tôi trong
việc bảo vệ các đồng minh của mình. Và dĩ nhiên, sau những gì chúng ta đã chứng
kiến, chúng tôi có nghĩa vụ xem xét cách chúng tôi có thể củng cố hoạt động
ngăn ngừa và củng cố hoạt động phòng thủ hợp lực của chúng tôi.
Tôi nghĩ những gì chúng ta đã chứng kiến là hồi
chuông thức tỉnh. Và điều đó liên quan đến cốt lõi của mục đích tồn tại của
chúng tôi. Do vậy chúng tôi có quyết tâm mạnh mẽ để thực hiện các bước cần
thiết.
Điều
5 của Hiệp ước Bắc Đại Tây Dương tuyên bố rằng các nước thành viên NATO sẽ xem
cuộc tấn công vào một thành viên là cuộc tấn công vào tất cả các thành viên.
Nhưng Điều 5 còn hơi mơ hồ: điều này yêu cầu mỗi đồng minh chỉ có “hành động
như vậy nếu cảm thấy cần thiết” trong trường hợp một đồng minh bị tấn công. Vì
vậy NATO cần phải đạt đồng thuận trước khi có hành động. Vậy chính phủ ví dụ
của nước Estonia nên cảm thấy tin tưởng ra sao về việc NATO sẽ phản ứng bằng vũ
lực nếu Putin quyết định đưa quân Nga vào vào Estonia với cái cớ bảo vệ cộng
đồng người Nga đông đảo ở nước này?
- Tôi chắc
chắn 100% là trong trường hợp đó Điều 5 sẽ được vận dụng, và tôi không hề nghi
ngờ là toàn khối liên minh sẽ có hành động để bảo đảm bảo vệ và phòng thủ hữu
hiệu cho một đồng minh bị tấn công. … Và quả thực, một phần trong cách ngăn
ngừa của chúng tôi là anh không bao giờ biết chúng tôi sẽ có quyết định gì. Kẻ
thù tiềm năng của chúng tôi không biết chính xác NATO sẽ phản ứng ra sao.
Ông
tin là sự mơ hồ đó củng cố sự ngăn ngừa?
- Đúng vậy. Sự mơ hồ đó củng cố sự ngăn ngừa, vì một
kẻ thù tiềm năng rất muốn biết chính xác NATO sẽ phản ứng ra sao. Vì khi đó họ
có thể dò thử NATO. Hiện nay, họ không biết – và đó là một phần của cách ngăn
ngừa.
Hồi
đầu tuần này, tờ The New York Times tường thuật rằng mãi đến năm
2009 NATO mới lập kế hoạch dự phòng khẩn cấp cho vùng Baltic. Kế hoạch này hiện
nay đã chắc chắn chưa?
- Về nguyêntắc, chúng tôi không bao giờ bình luận về
các kế hoạch dự phòng khẩn cấp. Nhưng tôi có thể bảo đảm với ông rằng chúng tôi
có sẵn mọi kế hoạch để bảo vệ và phòng thủ hữu hiệu cho các đồng minh của chúng
tôi. Nhưng hiển nhiên, trong bối cảnh những gì chúng ta đã chứng kiến, cũng cần
xem xét lại một số kế hoạch của chúng tôi.
Ông
gọi cuộc khủng hoảng Ukraine là hồi chuông thức tỉnh cho toàn khối liên minh
này. Đối với các thành viên Châu Âu của liên minh, liệu thông điệp dành cho họ
có phải là tái cân nhắc những khoản cắt giảm ngân sách quốc phòng mà họ đã thực
hiện?
- Cuộc khủng hoảng này phải đưa đến mức đầu tư quốc
phòng cao hơn ở Châu Âu. Chúng ta đã chứng kiến ngân sách quốc phòng giảm xuống
trong thời buổi áp dụng chính sách kinh tế thắt lưng buộc bụng, và tôi hiểu tại
sao. Chính phủ các nước đánh vật với ngân sách của mình và, nếu nợ nần quá
nhiều, một quốc gia cũng dễ bị tổn hại. Bởi vậy áp dụng chính sách tài khóa
đúng đắn cũng là chính sách an ninh đúng đắn. Nhưng đã có những khoản cắt giảm
thiếu cân đối về chi tiêu quốc phòng. Một số quốc gia cắt giảm đến 40%. Điều
này không thể tiếp tục nếu chúng ta muốn bảo đảm phòng thủ hữu hiệu. Bất cứ khi
nào tôi gặp các chính khách Mỹ, họ hỏi tôi: “Châu Âu không thể đóng góp thêm
chút đỉnh hay sao?” Tôi nghĩ đã đến luc Châu Âu nhận thấy là chúng ta phải đảo
ngược chiều hướng đó.
Kể
từ khi NATO ra đời, có một quy tắc bất thành văn là lãnh tụ dân sự của tổ chức
này, tổng thư ký, sẽ là người Châu Âu, còn lãnh tụ quân sự, tư lệnh tối cao của
lực lượng đồng minh, sẽ là người Mỹ. Phải chăng đã đến lúc có tư lệnh tối cao
của lực lượng đồng minh là người Châu Âu?
- Tôi nghĩ cách dàn xếp hiện tại phục vụ lợi ích của
tất cả các đồng minh. Chúng ta đều biết rằng phần lớn đóng góp quân sự cho liên
minh này là của Mỹ. Nên tôi nghĩ cũng hợp lý khi tư lệnh tối cao của lực lượng
đồng minh là người Mỹ. Và với tổng thư ký NATO là người Châu Âu, theo tôi, quy
tắc bất thành văn này tạo được thế cân đối hợp lý.
Một
số bình luận viên nhận định rằng cuộc khủng hoảng ở Ukraine cho thấy rằng trật
tự phương Tây do Mỹ dẫn đầu đang thoái trào, và cho rằng do không hành động
cứng rắn hơn ở Syria và những nơi khác, Tổng thống MỹBarack Obama đã khiến các
lãnh tụ như Putin bạo dạn hơn. Một số khác lại cho rằng tình hình ở Ukraine cho
thấy sức mạnh của phương Tây: Putin có thể lấy được Crimea, nhưng Châu Âu và Mỹ
sẽ có phần còn lại của Ukraine và có lẽ sẽ lập được các mối quan hệ chặt chẽ
hơn với các nước khác trước đây thuộc Liên Xô. Ông nghĩ sao?
- Rõ ràng chúng tôi đang thu phục nhân tâm. Ta có
thể thấy điều đó qua thực tế là các quốc gia đang xếp hàng xin gia nhập Liên
hiệp Châu Âu và NATO, hoặc củng cố mối quan hệ hữu nghị với Liên hiệp Châu Âu
và NATO. Vì thế, có thể Tổng thống Putin hành xử liều lĩnh, có thể ông ta sáp
nhập Crimea, nhưng ông để lại nhiều mối quan ngại cho các nước lân cận của Nga.
Chúng tôi biết rằng họ đang mong muốn có mối quan hệ mật thiết hơn với Liên
hiệp Châu Âu và NATO vì chúng tôi hấp dẫn nhờ các tư tưởng, giá trị, nguyên tắc
và cơ hội kinh tế của chúng tôi. Nga chỉ có thể dùng vũ lực để mở rộng tầm ảnh
hưởng của họ. Tôi tin rằng các giá trị và nguyên tắc của chúng tôi là những giá
trị và nguyên tắc mạnh nhất, và sẽ thắng thế.
Dường
như khá chắc chắn là Tổng thống Afghanistan Hamid Karzai sẽ không ký hiệp định
an ninh song phương với Mỹ để cho phép một số quân Mỹ lưu lại ở Afghanistan qua
hết năm nay. Theo phỏng đoán hợp lý nhất của ông, liệu Mỹ có triệt thoái toàn
bộ quân số trong năm nay?
- Không. Tôi nghĩ rốt cuộc chúng tôi sẽ có được chữ
ký. Tôi đồng ý là Karzai có lẽ sẽ không ký. Nhưng tôi hy vọng một tổng thống
mới sẽ ký, vì Afghanistan có nhiều quyền lợi liên quan. Hiệp định an ninh song
phương đó và một hiệp định sau đó về tình trạng các lực lượng NATO là các điều
kiện tiên quyết cho việc triển khai sứ mệnh huấn luyện do NATO đứng đầu để cố
vấn và hỗ trợ các lực lượng an ninh Afghanistan sau năm 2014.
Nếu không có quân quốc tế hiện diện ở Afghanistan
sau năm 2014, có thể khó mà huy động được nguồn lực tài chính để duy trì các
lực lượng an ning Afghanistan. Các lực lượng này đạt đạt tới mức 350.000 binh
lính và cảnh sát, và rõ ràng chính phủ Afghanistan sẽ không trả lương nổi cho
họ. Họ sẽ cần sự hỗ trợ tài chính quốc tế. Và người Afghanistan hiểu điều đó;
họ biết rõ các mặt thiệt hơn. Chính vì vậy tôi tin rằng một tổng thống mới sẽ
ký và chúng tôi sẽ có thể triển khai quân sau năm 2014.
Ông
đánh giá thế nào về Karzai?
- Khen có chê có. Trước tiên, tôi xin nhấn mạnh là
tôi có mối quan hệ cá nhân rất tốt với Tổng thống Karzai từ thời tôi còn làm
thủ tướng Đan Mạch. Tôi cũng xem ông là một đại diện ưu tú cho đất nước ông.
Ông ăn nói hùng biện và có khả năng diễn đạt quan điểm rõ ràng.
Tuy nhiên, tôi cũng phải nói rằng trong những tháng
gần đây, ông đã có những phát biểu ảnh hưởng xấu đến lòng tin của các nước đóng
góp quân. Nhiều phát biểu của ông đã bị xem là vô ơn đối với sự hy sinh của
chúng tôi về người và của. Và một số phát biểu của ông đã góp phần gây tác hại
đối với sự ủng hộ của công chúng và ủng hộ chính trị cho việc chúng tôi tiếp
tục hiện diện ở Afghanistan. Cũng có thể các phát biểu của ông nên được xem xét
trong bối cảnh chính trị nội địa, nhưng tôi nghĩ ông đã đánh giá thấp những tác
hại gây ra ở các nước đóng góp quân.
Ông
và những người khác đã cổ xúy chiến dịch NATO năm 2011 ở Libya là mô hình cho
việc can thiệp quốc tế. Nhưng đất nước này hiện đang tan rã. Liệu NATO có thể
đã làm gì khác hơn để tránh kết cục này?
- Trước hết, tôi xin nhấn mạnh rằng NATO không can
dự đến tình hình hậu xung đột. Chúng tôi có ủy quyền rõ ràng từ Hội đồng Bảo an
Liên Hiệp Quốc để bảo vệ thường dân ở Libya. Một phần của sự ủy nhiệm đó quy
định chúng tôi không được đưa quân vào. Nên đó chỉ là một chiến dịch không
kích. Và một khi chúng tôi đã thực hiện xong các nhiệm vụ của mình trong khuôn
khổ của sự ủy nhiệm đó, chúng tôi kết thúc sứ mệnh vào ngày 31/10/2011. Như vậy
đó là một chiến dịch bảy tháng. Trách nhiệm của chúng tôi đã không, và hiện nay
không vượt ra khỏi khuôn khổ đó.
Ông nhắc tới một số vấn đề hậu xung đột. Nhưng tôi
nghĩ chúng là thách thức không chỉ đối với NATO mà cả đối với toàn thể cộng
đồng quốc tế. Nay xét lại có thể nói là toàn thể cộng đồng quốc tế lẽ ra có thể
đã làm nhiều hơn để giúp chính quyền mới ở Libya xây dựng năng lực và gìn giữ
an ninh. Tuy nhiên, sự hỗ trợ như vậy cần bắt đầu từ thỉnh cầu của chính quyền
[sở tại]. Chúng tôi đâu có thể muốn vào thì vào. Hồi tháng 5 năm ngoái, NATO
nhận được một lời thỉnh cầu của chính quyền Libya yêu cầu giúp họ hiện đại hóa
ngành quốc phòng và xây dựng cấu trúc an ninh. Và chúng tôi đã có phúc đáp tích
cực. Nhưng mãi đến năm ngoái chúng tôi mới nhận được thỉnh cầu đó.
Trong
tương lai, liệu NATO có nên can dự vào những tình huống mà NATO được ủy nhiệm
can thiệp nhưng không có trách nhiệm hậu xung đột hay không? Nói “Bất cứ chuyện
gì xảy ra sau đó, chúng tôi không can dự” thì có ổn không?
- Hỏi rất hay. Nhưng theo tôi câu hỏi này liên quan
hơn về cách ra các nghị quyết của Hội đồng Bảo an.
Bản tiếng Việt © 2014 Phạm Vũ Lửa Hạ
(Bài tóm lược của bản dịch này, ký tên Khương An, đã
đăng trên Thời Mới Canada, ngày 26/3/2014.)
No comments:
Post a Comment