Lữ
Phương
Viet-Studies 3-9-13
Việc thành lập một đảng chính trị mới đang nói tới ở
đây là một đảng giả định, mang tên “Đảng Dân Chủ Xã hội” do Lê Hiếu Đằng đề
xuất. Anh Đằng là một cán bộ đã 45 tuổi Đảng, hoạt động ở các đô thị miền Nam
trong thời kỳ chiến tranh “chống Mỹ”, sau 1975 từng đảm nhận vai trò lãnh đạo
trong Mặt Trận Tổ quốc Thành phố Hồ Chí Minh suốt một thời gian dài. Đề xuất
của anh đã làm dấy lên trong dư luận trong và ngoài nước một không
khí tranh cãi sôi nổi, hào hứng, quyết liệt ít thấy . Là chỗ quen biết
anh Đằng, sau khi theo dõi những cuộc tranh luận nói trên, tôi xin được
góp thêm với công luận mấy ý kiến sau đây:
***
1.
Điều tôi có thể khẳng định đầu tiên là đề xuất ấy chỉ là ý kiến đột
xuất của riêng Lê Hiếu Đằng khi anh đối mặt với căn bệnh
ngặt nghèo mà mình vướng phải, từ đó nẩy ra ý định nhìn lại cả một đời
hoạt động đã qua và đã bày tỏ những dằn vặt cá nhân của mình về những hoạt động
đó trong bài “ Suy nghĩ trong những ngày nằm bịnh” . Khi bài này xuất hiện trên
một trang mạng lập tức được anh Hồ Ngọc Nhuận – một nhà báo cũng là một
nhân sĩ ngoài Đảng, thuộc “lực lượng thứ ba” đối lập với chính quyền Sài
Gòn trước đây, sau 1975 đã cùng hoạt động với anh Đằng trong ban lãnh đạo Mặt
trận Thành phố Hồ Chí Minh – lên tiếng tán thưởng bằng một bài viết hết sức
nhiệt tình mang tên “Phá Xiềng”.
Sau bài viết đó của anh Nhuận, đây đó đã phát sinh
dư luận cho rằng việc thành lập một đảng mới đối lập, đương đầu với Đảng Cộng
sản đã là một thực tế đang được xúc tiến và xúc tiến bởi một nhóm người
đang nuôi tham vọng nào đó về chính trị. Nhưng theo chỗ tôi biết thì trên thực tế chưa hề có một
cá nhân nào hoặc một nhóm người nào đó thực sự có ý định kết tập nhau lại để
bắt tay vào việc hình thành ra cái đảng chính trị này cả. Tất cả chỉ
mới manh nha trong sự gợi ý từ bài viết của anh Đằng và riêng anh Đằng cũng cho
biết, ngay cả khi có điều kiện để hiện thực hoá ý tưởng ấy thì trong tình trạng
bệnh tật không biết đi đến đâu hiện nay, anh cũng không thể nào đứng ra đảm
đương được. Anh Đằng không ngây thơ đến nỗi không hiểu tính chất đầy khó
khăn và phức tạp của một dự án chính trị như vậy.
2.
Qua việc tiếp xúc trực tiếp với anh và những văn bản mà anh đã công bố,
tôi có thể khẳng định thêm rằng khi gợi ra vấn đề “đa đảng” nói trên, anh Đằng không hề đề ra mục
tiêu lật đổ hay thay thế Đảng cộng sản đang lãnh đạo nhà nước và xã hội Việt
Nam. Động lực thực sự của anh là muốn đưa ra một giải
pháp thiết thực, góp phần dân chủ hoá đời sống chính trị của đất nước, từ đó
cùng góp sức với Đảng cộng sản, tìm kiếm những giải pháp phù hợp thực tế
để mau chóng đưa đất nước thoát ra khỏi cuộc khủng hoảng hiện nay. Suy nghĩ này
của anh thật ra không có gì mới mẻ vì đã được nhiều nhân vật hoạt động và một
số nhà nghiên cứu (kể cả những người trong Đảng) nói tới từ lâu, quan
trọng nhất là chỉ ra được nguyên nhân mọi sai lầm lặp đi lặp lại của Đảng cộng
sản cầm quyền: đó là việc Đảng đã coi cái ý thức hệ Mác-Lênin của riêng mình
như chân lý duy nhất đúng, ép buộc toàn xã hội phải thừa nhận, căn cứ vào
đó thiết lập quyền độc tôn lãnh đạo, không màng đến phản ứng của
cuộc sống thực tiễn, nguyện vọng của đông đảo nhân dân.
Tất cả mọi sự phản biện dai dẳng đưa đến những đề
xuất tìm kiếm một giải pháp điều chỉnh lại hướng đi cho đất nước cũng
xuất phát từ đó: trong thời kỳ mới này, Việt Nam cần phải chuyển mình sang thể
chế dân chủ để hình thành một tập hợp dân tộc đồng thuận, trong và ngoài
nước, dựa trên đó cùng nhau tìm ra những giải pháp thoát khỏi được sự bế tắc
bấy lâu nay. Trong ý hướng dân chủ hoá đời sống chính trị đó, vấn đề kiểm soát
quyền lực – cụ thể là không để nhà nước dùng sự độc tôn quyền lực
triệt tiêu sự sống độc lập của xã hội công dân, kết quả là biến sự độc tôn đó
thành chỗ dựa cho các tập đoàn lợi ích cấu kết với nhau để thao túng nhà nước –
đã được đặt ra ngày càng gay gắt, dưới nhiều hình thức, từ việc lên tiếng của
những cá nhân đến những kiến nghị tập thể mở rộng cho nhiều người tham gia.
3.
Vấn đề “đa đảng” mà Lê Hiếu Đằng nêu ra chỉ nhắc lại những suy nghĩ chung nẩy
sinh từ quá trình thảo luận tìm kiếm con đường dân chủ hoá cho Việt Nam, diễn
ra cả hơn hai thập niên đã qua. Và không phải
chỉ như vậy vì có lúc các ý tưởng ấy đã thể hiện trong thực tế, cụ thể qua sự
xuất hiện công khai một số đảng chính trị mà thách thức rất đáng chú ý là việc
ông Hoàng Minh Chính một cựu đảng viên đứng ra “phục hồi” một đảng ra đời vào
thời kỳ cách mạng 1945 mệnh danh là Đảng Dân Chủ. Gọi là “phục hồi” một
đảng cũ (thực chất là do Đảng Cộng sản chủ động lập ra) nhưng trong khi đó ông
Chính lại dời vị trí nội địa của nó ra hải ngoại để một số nhân vật bên ngoài
chi phối, vì thế nỗ lực của ông đã không giữ được tính chính danh cần phải có
để có thể hoạt động, nhất là không đủ thực lực để vượt qua được sự trấn áp của
Đảng cộng sản.
Đảng chính trị mang tên “Dân chủ Xã
hội” do Lê Hiếu Đằng đề xuất đã đi theo một hướng hoàn toàn khác: là kết
quả của cuộc vận động trong nước nhưng không ra đời một cách tự phát từ cuộc
sống xã hội mà lại bắt nguồn từ nội bộ Đảng cộng sản, cụ thể từ sáng kiến của
những đảng viên bất đồng, xin ra khỏi Đảng với một số lượng tương đối nào đó để
có thể khởi xướng và thành lập. Thực chất của cái thực thể chính trị được Lê Hiếu
Đằng đề xuất đã bộc lộ rõ trong điều kiện giả định đó: Đảng Dân chủ Xã hội sẽ
không thể nào trở thành hiện thực nếu chưa có đủ số đảng viên cộng sản ly khai
cần thiết. Vì thế sẽ là tất nhiên khi thấy anh Đằng chưa nói
gì đến cương lĩnh, tổ chức, điều lệ của đảng, và cũng là tất nhiên nữa khi
chúng ta chưa thấy có dấu hiệu nào cho biết đã có một sự chuẩn bị tối thiểu để
làm việc đó. Câu hỏi về sự chín muồi hay chưa của tình hình để sự đề xuất này
có thể đi vào thực tế thiết tưởng cũng không có ý nghĩa bao nhiêu.
Vì thế, muốn nhìn ra cho rõ hình hài của cái thực
thể chính trị mới này tôi thấy không dễ. Tuy vậy nếu cố gắng đi sâu vào
những gì Lê Hiếu Đằng gợi ra qua các bài viết của anh, chúng ta vẫn có thể hình
dung ra được đôi nét rất khái quát của nó. Khác hẳn về phương pháp hoạt động
với Đảng cộng sản, đó là điều rõ ràng nhất: nếu một bên là chuyên chính, dựa
vào đường lối từ bên trên để “cải tạo” bên dưới, buộc bên dưới phải vâng
phục (cộng sản) thì một bên sẽ là dựa vào bên dưới – Lê Hiếu Đằng nói đến nhiều
lần cái “xã hội dân sự” đang lớn mạnh – để hoạt động, lấy nguyện vọng của
bên dưới hình thành đường lối, căn cứ vào đó tạo ra áp lực tác động lên trên,
buộc Đảng cộng sản phải tiến hành những cải cách căn bản và thiết thực (dân chủ
xã hội).
Khác nhau về phương pháp hoạt động nhưng xét về mặt
mục tiêu, hai thực thể chính trị ấy vẫn có thể gặp nhau trên những định hướng
lý thuyết khả dĩ về một mô hình xã hội chủ nghĩa truyền thống: hạn chế sự bóc
lột mù quáng và vô độ của chủ nghĩa tư bản, đề cao quyền sở hữu về sức lao động
của những người công nhân, bảo vệ môi trường tự nhiên, lành mạnh hoá môi trường
văn hoá xã hội …Với những
tương đồng giả định đó, nếu ra đời được, Đảng Dân Chủ Xã hội sẽ đảm nhận một
chức năng đặc biệt trong mô hình “lưỡng đảng” kiểu Việt Nam, ở đó
Đảng cộng sản vẫn là chủ thể lãnh đạo còn Đảng Dân chủ Xã hội sẽ giữ vai
trò của một lực lượng “đối trọng hợp pháp”, không hoàn toàn là một thứ đảng bù
nhìn vuốt đuôi (như ở Trung quốc) nhưng cũng không phải là một đảng chống đối
nhằm “giải thể” Đảng cộng sản để thay thế như người ta có thể tưởng tượng ra.
4.
Nhìn chung lại, tôi thấy đề xuất thành lập Đảng Dân chủ Xã hội của Lê Hiếu Đằng
đã đặt nền trên mấy nhận định sau đây:
- Sự lãnh đạo của Đảng cộng sản hiện nay đã tỏ ra hoàn toàn bất lực trong công cuộc phát triển lành mạnh của đất nước, vì vậy đang đưa dân tộc vào một cuộc khủng hoảng xã hội trầm trọng, có nguy cơ để mất chủ quyền vào thế lực bành trướng phương Bắc.
- Tình trạng đó được quy về phương thức lãnh đạo chuyên chính của Đảng cộng sản với một đường lối áp đặt, xa rời thực tế, mất lòng dân, cho nên biện pháp dân chủ hoá sự lãnh đạo của Đảng cộng sản là điều kiện cấp bách để giải quyết cuộc khủng hoảng nói trên.
- Trong tình thế cực đoan như hiện nay, sự ra đời của một đảng mới gần gũi với Đảng cộng sản về mục tiêu nhưng khác về phương pháp là phương thức tốt nhất, để vừa dân chủ hoá thể chế chính trị ở Việt Nam, vừa tạo ra một môi trường cạnh tranh thúc đẩy Đảng cộng sản tự dân chủ hoá và canh tân.
Qua sự tìm hiểu như trên, giả sử như tiếp cận được
gần đúng suy nghĩ của Lê Hiếu Đằng, nếu bỏ qua một số biểu đạt có tính chất cảm
tính vì những bức xúc đặc biệt của anh, tôi cho rằng những suy nghĩ ấy cần được
đón nhận một cách thiện chí vì bản thân cái phần cốt lõi trong bài viết
của anh đã bắt nguồn từ một thiện chí không thể không ghi nhận. Những anh em
quen biết anh Đằng lâu năm đều nhận thấy anh thuộc loại đảng viên ít chịu khoan
nhượng trước những sai trái, cho nên hoạt động trong một môi trường phải tận
mắt chứng kiến quá nhiều những điều đi ngược lại lý tưởng ban đầu của anh,
nghiêm trọng, dai dẳng đến phi lý, anh không thể không tiếp nối những người đi
trước (như tướng Trần Độ đã mất ), lên tiếng phê phán những sai trái ấy với
tinh thần trách nhiệm cao nhất của một đảng viên mà cũng là của một công dân.
Gọi anh là kẻ “phản bội”, “chuyển hệ” hoặc theo đuôi các “thế lực thù
địch”, xuyên tạc tư tưởng để bôi nhọ nhân thân của anh v.v… là những quy
kết đầy ác ý.
Còn về vấn đề “”đa đảng” mà anh xởi
lên, như đã nói ở trên, thật sự đó vẫn chỉ là một đề xuất giả định, đúng hơn là
một khuyến cáo có tính chất định hướng cho Đảng cộng sản – chứ không phải cho những thực thể chính trị khác – mà anh vẫn còn là một
thành phần, mục đích không có gì khác hơn là thúc đẩy sự canh tân thể chế, vì
lợi ích của dân tộc mà cũng là vì Đảng của anh. Vốn là một khuyến cáo
công khai đề xuất trực tiếp, nếu không đồng ý với anh thì điều quan trọng nhất
để những nhà lãnh đạo Đảng ứng phó là chỉ đạo những nhà lý luận của mình, dưới
hình thức một cuộc đối thoại cũng công khai, minh bạch trả lời từng điểm một
các vấn đề đã được nêu ra, nhân dịp này thành thật công bố đường lối giải quyết
những khó khăn hiện nay của Đảng (nhất là với chủ nghĩa bành trướng phương
Bắc), không phải chỉ với riêng anh mà với cả đông đảo những người
thuộc nhiều thế hệ khác nhau, đã nghĩ như anh và tạo ra động lực để anh bộc lộ.
Không làm như vậy mà lại né tránh các vấn đề đó, trong khi đó lại cho mở ra
chiến dịch công kích anh hết sức thô bạo – cơ sở lập luận không dựa vào
đâu ngoài những công thức tuyên truyền xa rời thực tế (như tính chất
“khoa học” của chủ nghĩa Mác-Lênin, sự chọn lựa của Đảng và của nhân dân
là một, cổ vũ đa đảng là làm rối loạn xã hội v.v…), đương nhiên coi đó
như những chân lý quyền uy, không cần thuyết phục – những nhà lý luận của
Đảng đã không gặt hái được gì ngoài những chống trả quyết liệt của nhiều
xu hướng phản biện khác nhau.
5.
Để giữ tính chất nghiêm túc cho đề xuất của Lê Hiếu Đằng, thiết nghĩ
chúng ta cần vượt lên cuộc tranh cãi ồn ào đang diễn ra để tìm hiểu thêm
vấn đề này theo một viễn cảnh chuyển đổi xã hội rộng lớn hơn mà ở Việt
Nam hiện nay đang đặt ra ngày càng rõ ràng, đặc biệt là những ý hướng canh tân
mạnh mẽ xuất phát từ trong nội bộ Đảng cộng sản. Trong xu thế ấy, việc đề xuất công khai và trực tiếp của Lê Hiếu Đằng về
vấn đề “đa đảng”là một đột biến quan trọng, có khả năng mở ra một hướng
mới cho quá trình đấu tranh trong nội bộ Đảng về sự cần thiết phải có những
chuyển hoá triệt để về lãnh đạo: cuộc đấu tranh dân chủ hoá đời sống chính trị
của đất nước từ nay trở đi sẽ không chỉ giới hạn trong việc “phản biện” trên lời
nói về những chính sách sai lầm của Đảng mà cần tranh đấu tạo ra một định chế
phân tán quyền lực để ngăn chặn những sai lầm ấy một cách có hiệu lực. Việc
kiểm soát quyền lực này không đụng chạm tới cương lĩnh của Đảng cộng sản (đó là
chuyện nội bộ của những người cộng sản) mà chỉ đặt vấn đề thiết lập một định
chế mới để buộc Đảng cộng sản phải tuân thủ những quy định dân chủ về “kiểm
soát và cân bằng quyền lực” khi đem cương lĩnh của mình ra thực hiện.
Trước một xu thế như vậy, sự phản ứng ứng quyết liệt
của một số cán bộ Đảng, quen bám víu (một cách lén lút) vào thứ lý luận giáo
điều về “chuyên chính vô sản”, dứt khoát không chia quyền với bất cứ ai, là
hoàn toàn dễ hiểu. Nhưng nhìn vào lịch sử của phong trào cộng sản thế
giới, người ta nhận thấy quan niệm ấy không phải lúc nào cũng được áp dụng một
cách tuyệt đối, máy móc, nhất là trong những tình thế khó khăn cần linh
động nhân nhượng để đừng mất tất cả (“dĩ nhất biến ứng vạn biến” như Hồ Chí
Minh hay nói): việc Đảng cộng sản Đông Dương, cuối năm 1945 ra thông báo căn cứ
vào “tình hình thế giới và hoàn cảnh trong nước” bấy giờ để tự giải
tán là một thí dụ . Trong những tình hình như vậy, vấn đề “đa đảng” không còn
là một khái niệm thiêng liêng, một nguyên tắc bất dịch mà là một công cụ trong
đấu tranh, cần phải được sử dụng để bảo vệ mục đích theo đuổi của mình. Vấn đề
thành công hay thất bại trong trong việc quyết định này hoàn toàn tuỳ thuộc vào
bản lĩnh của những người có đảm lược sử dụng công cụ đó.
Ngay trong điều kiện đã giành thắng lợi rồi mà muốn
bảo vệ quyền lực một cách lâu bền, công cụ đó vẫn không thể tiên quyết coi như
một cấm kị. Thực tế cho chúng ta biết có khá nhiều hình thức “đa đảng” đã được
những đảng cầm quyền sử dụng có lợi cho mình. Có thể cho phép một loạt đảng
“hiệp thương” tồn tại để làm “kiểng” cho chế độ một đảng độc tài. Cũng có
trường hợp các đảng gọi là “đối lập trung thành” được luật pháp cho hoạt
động công khai nhưng trên thực tế đã bị đảng cầm quyền khống chế (một cách hợp
pháp và cả bất hợp pháp) để duy trì quyền lãnh đạo thống trị của mình.
Cũng có trường hợp công cụ đa đảng được dùng trong thể chế “đa nguyên đa đảng”
ở đó các đảng đối lập, vì một lý do văn hoá, lịch sử nào đó, luôn chiếm vị trí
thiểu số, nhưng cũng có những trường hợp được sử dụng trong thể chế “nhất
nguyên đa đảng”, ở đó chỉ có hai đảng thay nhau cầm quyền bằng
những phương pháp khác nhau nhưng có cùng mục đích bảo vệ những giá trị chung
của một chế độ cả hai đều chia sẻ. Trước thực tế phức tạp của cuộc đấu tranh
quyền lực, việc tuyệt đối hoá một quan niệm “độc đảng” có nội dung nào đó để
duy trì sự độc tôn quyền lực cho Đảng của mình trong mọi trường hợp là một thái
độ không thực tế. Nhất là lại thuần tuý bằng trấn áp và bạo lực thì không
những không thực tế mà còn nguy hiểm: đảng chính trị đó chỉ tích tụ những toan
tính bạo lực ngược chiều, trước sau gì cũng “quỵ sụm” hoặc bị đánh đổ bằng con
đường bạo lực do mình tạo ra.
***
Sẽ là một thiếu sót nếu bài này chấm dứt mà không có
vài lời sau đây xin thưa cùng những người quen hay không quen đã bày tỏ thái độ
đồng tình, cổ vũ đề xuất của Lê Hiếu Đằng:
a) Đề xuất của anh chỉ là một khuyến cáo với
Đảng cộng sản. Tán thành nhưng xem đây chỉ như một sáng kiến “cải lương”,
“thoả hiệp” hoặc “ảo tưởng” cũng không sao, nhưng đừng quên rằng đây là một
hình thức tranh đấu mới nẩy sinh từ bên trong hàng ngũ những người cộng
sản trước tình thế mới.
b)Thực chất của đề xuất đó là chuyển hoá thể chế
chuyên chính sang dân chủ pháp quyền, ở đó hình đa đảng là một công
cụ đấu tranh thực hiện bằng phương pháp nội tại của những người cộng sản bất
đồng. Cần xuất hiện những suy nghĩ khác có nội dung phù hợp với những
bước đi thích hợp hơn.
c) Công việc cực kỳ khó khăn, xin đừng quá bồng bột
coi đề xuất này như một thứ phép màu mang đến khả năng chấm dứt ngay được di
sản nặng nề của độc tài, chia rẽ, hận thù do quá khứ để lại.
Cũng đừng quên trong chính trị, vấn đề “đa
đảng” chỉ là một công cụ đấu tranh: viễn cảnh về một xã hội mà công cụ đó cần
vượt qua và nhắm tới mới là mục tiêu quan trọng hơn.
Xong đúng ngày 2-9-2013
L.P
Tác giả gửi cho viet-studies ngày
2-9-13
No comments:
Post a Comment