Cập nhật: 11:25 GMT -
thứ hai, 30 tháng 9, 2013
Ông Derek Tonkin là Đại sứ Anh
tại Việt Nam từ năm 1980-1982
Mặc dù tranh chấp chủ quyền trên biển Đông là phức tạp,
không dễ giải quyết ngày một, ngày hai, Việt Nam vẫn nên đòi chủ quyền của
mình, theo lời khuyên của cựu Đại sứ Anh từng làm việc tại Việt Nam trong giai
đoạn 1980-1982.
Cựu Đại sứ Derek Tonkin cho
rằng Anh quốc không ủng hộ bất cứ hành động quân sự hoặc xâm lược nào mà một
quốc gia tranh chấp chủ quyền tiến hành với quốc gia khác.
"Nó có chiều hướng làm
tăng nhiệt căng thẳng và có xu thế dẫn tới có thêm các cuộc giao tranh và các
cuộc xung đột vũ trang đẫm máu", nhà ngoại giao bình luận về cuộc cưỡng
chiếm của Trung Quốc đối với Hoàng Sa từ tay chính quyền Việt Nam Cộng hòa năm
1974.
Về con đường cải tổ dân chủ của
Việt Nam hiện nay, cựu Đại sứ Anh cho rằng mọi việc hoàn toàn tùy thuộc vào
quyết định của nhân dân Việt Nam, vì theo ông mỗi quốc gia cần tự tìm kiếm một
giải phảp riêng.
"Phần lớn những quy ước
quốc tế, tôi nghĩ Việt Nam đều đã tham gia, nhưng điều mà tôi đặc biệt quan
ngại là về tự do tôn giáo và tự do ngôn luận," ông Tonkin nói.
Trao đổi với BBC nhân dịp đánh
dấu 40 năm thiết lập quan hệ giữa London và Hà Nội, cựu Đại sứ Anh cũng thuật
lại kinh nghiệm của mình với tư cách nhà ngoại giao khi đặt chân tới Việt Nam
vào thời điểm nước này vừa chịu cuộc tấn công của Trung Quốc trên toàn tuyến
biên giới phía Bắc vào năm 1979.
Ông cũng đưa ra nhận xét cá
nhân về một số một số chính trị gia, nhà ngoại giao hàng đầu của Việt Nam ở đầu
thập niên 1980 như các ông Trường Chinh, Phạm Văn Đồng, Võ Nguyễn Giáp, Nguyễn
Cơ Thạch...
Derek Tonkin:
Tôi là đại sứ thứ năm của Anh
quốc tại Việt Nam sau khi hai nước thiết lập quan hệ ngoại giao đầy đủ vào năm
1973. Vài đồng nghiệp của tôi trước đó chỉ đảm nhiệm 6 tháng. Nhưng một đồng
nghiệp khác của tôi đã ở đó trong 2 năm, nên tôi quyết định là tôi cũng sẽ ở
lại trong hai năm.
Tất nhiên tôi tới Việt Nam
trong một giai đoạn đặc biệt khó khăn, những năm của thập niên 1980. Lúc đó
Việt Nam đã chiếm đóng Campuchia với lý do mà tôi nghĩ là tôi hiểu rất rõ, dù
có thể ở phương Tây một số người đã chưa rõ lắm.
Trung Quốc như quý vị biết
trong năm 1979 đã tấn công Việt Nam, họ gọi đó là sự trừng phạt, nhưng đúng ra
có thể coi là một cuộc tấn công xâm lược, dù Trung Quốc có giải thích theo cách
khác được hiểu như là chiến thuật quân sự của họ.
Khi tôi tới nơi, một trong
những điều đầu tiên tôi nhớ là đã được thông báo rằng tôi cần luôn chuẩn bị để
rời tòa đại sứ trong vòng 24 tiếng đồng hồ, và thông báo này cũng đã được đưa
ra cho những người nước ngoài ở Việt Nam, trong trường hợp quân đội Trung Quốc
tràn xuống.
Tôi đã rất vui để nói rằng việc
đó đã không xảy ra, thế nhưng ít nhất nó lại làm cho tôi ngay lập tức liên hệ
với vấn đề mà Việt Nam khi đó đang đối diện.
Và vấn đề Campuchia đã thực sự
bao trùm nhiệm kỳ hai năm của tôi ở Việt Nam, lúc đó có rất ít quan hệ thương
mại song phương. Tôi cũng gặp rất ít khách thăm.
Nhưng ít nhất Anh quốc đã không
tham gia ở phe của người Mỹ vào cuộc chiến tranh Việt Nam. Chúng tôi đã luôn cố
gắng giữ một mức độ độc lập có thể được, mặc dù cũng có bằng chứng rằng một vài
cá nhân người Anh có thể đã tham dự ở phía của người Mỹ.
Nhiều quan chức chính phủ Hà Nội cho rằng VN đang
ở 'đỉnh cao của thế giới' sau nhiều chiến thắng
"Cáo buộc" duy nhất
về sự tham gia của người Anh trong cuộc chiến Việt Nam là một lần tôi trò
chuyện thân tình với Ngoại trưởng Việt Nam ông Nguyễn Cơ Thạch rằng lá cờ của
Anh quốc đã được đưa vào cùng với các lá cờ của một liên minh trong một bảo
tàng ở Hà Nội, tôi nghĩ là Bảo tàng Cách mạng.
Đó là các lá cờ của liên minh
các nước phương Tây được cho là giúp đỡ cho chính quyền "bù nhìn" Nam
Việt Nam. Tôi nói rằng thực tế là chúng tôi đã không tham gia. Và tôi nói thêm
rằng sẽ là một điều tốt nếu tên tuổi của nước Anh có thể được bỏ ra khỏi đó.
Bốn ngày sau đó, Nguyễn Cơ
Thạch trở lại gặp tôi và nói: "Ông có thể nhận ra là chúng tôi đã gỡ bỏ lá
cờ. Tuy nhiên, chúng tôi đã phát hiện ra rằng có một thời điểm vào năm 1968,
chúng tôi tin rằng các ông đã gửi một số chó nghiệp vụ cảnh sát để huấn luyện
ở Việt Nam."
Và ông ta nói: "Tôi có thể
cho ông biết đó có lẽ là lý do vì sao mà chúng đã có mặt ở đó." Ông Thạch
cũng cho tôi biết là có lẽ lá cờ đã được lấy ra từ tòa lãnh sự của Sứ quán Anh
ở Sài Gòn.
Trên thực tế mối quan hệ của
chúng tôi với Việt Nam luôn được đặt trên cơ sở lợi ích song phương và đặc biệt
là tính độc lập. Điều duy nhất đặc biệt giữa Anh quốc và Việt Nam là giữa hai
bên không bao giờ xảy ra chiến tranh. Không có bất cứ một cơ hội nào trong lịch
sử mà trong đó quân đội của Việt Nam đụng đầu với quân lực Anh.
"Một điều khác nữa mà tôi
nhớ về thời gian tôi ở Việt Nam là cuộc sống không dễ dàng gì. Lúc đó vẫn còn
cấm vận toàn phần của Hoa Kỳ. Hàng hóa rất thiếu. Qua các mùa, chúng tôi có kha
khá thực phẩm và rau quả, nhưng chúng tôi phải nhập khẩu rất nhiều thực phẩm từ
Bangkok. Người dân sống rất khó khăn.
Nhưng có một điều mà tôi ấn
tượng nhất là dù cuộc sống khó khăn thế nào, người dân vẫn luôn giữ một nụ
cười.
Cuộc sống rất khó khăn, thiếu thuốc
men, hầu như thiếu thốn đủ thứ, nhưng nếu bạn nhìn vào những gương mặt của họ,
thì ở đâu họ cũng mỉm cười.
Những hình ảnh ấy gợi cho tôi
nhớ lại thời kỳ chiến tranh ở nước Anh. Khi đó sức khỏe mọi người lành mạnh hơn
bây giờ vì chế độ ăn uống của mọi người tốt hơn vì mọi người không bỏ nhiều
tiền vào sô-cô-la và những thứ khác.
Trở lại với Việt Nam, lúc đó
chiến tranh đã kết thúc, bốn năm sau khi đất nước thống nhất, tôi nghĩ mọi
người cảm thấy hạnh phúc.
Và nhìn chung lúc đó trong
chính phủ Việt Nam, mọi người có cảm nghĩ là Việt Nam đã chiến thắng: "Vì
sao ư? chúng tôi đã đánh thắng Trung Quốc, chúng tôi đã chiến thắng người Pháp
và chúng tôi đã chiến thắng người Mỹ, cho nên chúng tôi thực sự cảm thấy rằng
chúng tôi ở đỉnh cao của thế giới."
'Sai lầm ở Campuchia'
BBC: Ông có còn giữ quan điểm cho rằng sau khi can thiệp vào Campuchia, quân
đội Việt Nam ở lại Campuchia khoảng 10 năm và đó là một sai lầm lớn của chính
quyền Việt Nam? Lúc đó, các đoàn ngoại giao ở Hà Nội khi gặp gỡ, có bình luận
gì về việc này không?
Derek Tonkin: Một trong những lý do mà tôi được cử tới Hà Nội
làm Đại sứ là vì tôi có kinh nghiệm ở Campuchia, tôi đã từng ở đó trong ba năm
hồi thập niên 1960. Và tôi cũng có thời gian ở Thái Lan. Do đó tôi có một sự
hiểu biết rộng về khu vực.
Tôi nghĩ tôi hiểu khá rõ lý do
của việc vì sao Việt Nam cảm thấy họ không còn có thể chịu đựng được hơn nữa
mối đe dọa từ phía Khmer Đỏ. Các vị có thể nhớ rằng về gốc gác, lúc đầu Khmer
Đỏ là đồng minh của Đảng Cộng sản Việt Nam.
Cái tên Khmer Đỏ cũng là do
Hoàng thân Sihanouk đặt, chỉ những người khuynh tả. Nhưng rồi Khmer Đỏ trở
thành một phe chạy theo ý thức hệ mà tôi gọi là rất tàn ác. Họ có khát vọng trả
thù Việt Nam, đặc biệt với những vùng đất mà trước đó 200-300 năm từng là lãnh
thổ của người Khmer, điều gợi cho tôi nhớ tới cái được gọi là Khmer Krom.
Nhưng còn đi xa hơn thế nữa,
Khmer Đỏ muốn khích động việc lấy lại toàn bộ miền Nam Việt Nam, thậm chí cả
Sài Gòn, mà theo họ chính đó cũng là một thành phố cũ của Campuchia, Pren Kor,
hay là Thành phố ở trong rừng. Và đã có rất nhiều vụ khiêu khích ở dọc biên
giới mà phía Việt Nam nghĩ là họ không còn có thể tha thứ được nữa.
Quý vị cũng có thể nhớ rằng khi
Việt Nam xâm lược Campuchia, họ tiến vào với một nhóm người Campuchia khác mà
về nguồn gốc cũng là Khmer Đỏ, được gọi là phe Tư lệnh cánh Đông của Pol Pot.
Phe này cũng rất cứng rắn, nhưng không cực đoan quá khích như chính quyền Pol
Pot ở phần còn lại của Campuchia, và cánh này biết họ là mục tiêu của việc bị
Khmer Đỏ loại trừ.
Do đó, Thủ tướng hiện nay của
Campuchia, Hun Sen và những người khác như các ông Heng Samrin, Chea Sim cũng
đã phải chạy trốn thực sự để thoát hiểm. Trở lại thì ý định của Việt Nam là
chấm dứt các hành động khiêu khích mà Việt Nam phải chịu đựng tới lúc đó. Tất
nhiên, khi bạn xâm lược một quốc gia khác, sẽ có những hệ lụy quốc tế.
Và vào thời điểm đó chúng ta có
thể nhớ rằng đã có quan ngại quốc tế về cuộc xâm lược của Liên Xô ở Afghanistan
vào năm 1981, chúng tôi cũng quan ngại về cuộc xâm lược của Argentina ở quần
đảo Falkland vào năm 1982. Do đó ý niệm rằng một nước có thể xâm lược một nước
khác rất nhạy cảm đối với phương Tây. Do đó chúng tôi chỉ trích rất mạnh.
Nhưng đồng thời, nếu tôi có thể
trở lại với Hoàng thân Sihanouk, chính ông nói rằng nếu Việt Nam rút khỏi
Campuchia sau 12 tháng và để cho Campuchia tự giải quyết vấn đề của họ, thì họ
đã rất được hoan nghênh, bởi vì đó chính xác là ý định ban đầu của cuộc can
thiệp, vì dẫu sao một chế độ như của Khmer Đỏ là không thể chấp nhận được.
Tất nhiên, tôi không quá ngây
thơ để tin rằng đó là lý do duy nhất Việt Nam đưa quân vào Campuchia, họ cũng
có những lý do quan ngại về an ninh, về bất ổn định, và họ cũng luôn tự xem
mình là quốc gia đứng đầu ở Đông Dương với Lào và Campuchia. Và nhìn lại từ góc
độ này, tôi có thể hiểu vì sao họ tiến vào Campuchia.
Thật đáng tiếc là họ đã ở lại
quá lâu, trong 10 năm, và họ ở lại trong một thế như là sự thể này không thể
đảo ngược. Tuy nhiên, Việt Nam đã rời khỏi Campuchia. Họ phải đi dưới áp lực,
mà đặc biệt từ các quốc gia còn lại ở khối Asean.
BBC:Ông từng được cố Thủ tướng Việt Nam, ông Phạm Văn Đồng hỏi về tính hợp lệ
của Anh trong cuộc tranh chấp ở quần đảo Falkland với Argentina. Hiện nay,
Trung Quốc đang tuyên bố chủ quyền ở đa số khu vực Biển Đông, theo ông việc
tuyên bố này của họ có lý hay không, liệu Trung Quốc có quá tham vọng?
Derek Tonkin: Trước hết nói về quần đảo Falklands, cuộc tranh
chấp này hoàn toàn khác với tranh chấp trên Biển Đông. Như tôi đã giải thích
với ông Phạm Văn Đồng, và tôi cũng đã được chỉ dẫn bởi London khi trình bày với
ông ấy, vì có một cuộc bỏ phiếu ở Liên Hợp Quốc, tại Đại hội Đồng cũng như tại
Hội đồng Bảo an, tôi giải thích với ông ấy rằng nước Anh trên thực tế đã hiện
diện ở quần đảo Falkland cũng không lâu hơn gì quãng thời gian mà Việt Nam đã
hiện diện ở một số vùng ở miền Nam Việt Nam mà trước đây từng là của người
Khmer.
Nếu ông tìm kiếm khía cạnh
thuộc địa trong vấn đề này, ông cũng hiểu rằng chính Argentina về cơ bản cũng
được những nhà thực dân Tây Ban Nha và Ý từng hiện diện ở đó tạo nên. Do đó có
một nhân tố thuộc địa rất mạnh mẽ trong việc thành lập ra Argentina cũng như
quần đảo Falkland, cách khoảng 300 dặm.
Và ông Phạm Văn Đồng, như tôi
vẫn còn nhớ, đã cười lớn và nói "tôi hiểu quan điểm của ông" nhưng
ông ấy nhấn mạnh và nói: "Trong quan điểm của chúng tôi, có một vấn đề về
nguyên tắc ở đây và đó là vấn đề về phi thuộc địa hóa. Và chúng tôi nghĩ rằng
nước Anh không nên ở đó, vì chính quốc của các ông, nước Anh, là ở bên châu Âu,
không phải là ở bên Argentina.
Còn bây giờ, về vấn đề Biển
Đông, đây là vấn đề rất phức tạp. Như đã biết, có một số quốc gia cùng có tuyên
bố chủ quyền, bao gồm cả Đài Loan, như họ luôn tự coi là đại diện đích thực của
Trung Hoa, Philippines, Indonesia, Việt Nam.
Trên thực tế, việc này đã gây
ra những quan ngại, nhưng tôi sẽ không đứng về bất cứ bên nào vì tôi không tự
cho mình là một chuyên gia trong vấn đề này, tôi biết rằng một số đảo có tên
tiếng Anh như là Spratly Islands (Quần đảo Trường Sa), nhưng đó là một vấn đề
mà chỉ có thể được giải quyết bởi các quốc gia liên quan ở khu vực, bởi vì chắc
chắn đó không phải là một vấn đề mà phương Tây có thể can thiệp.
Do đó chắc chắn là tôi không
mong muốn can dự vào bất cứ cuộc bàn luận nào, nhưng nó đúng là một vấn đề đáng
quan ngại, khi sự căng thẳng của nó đang gia tăng và đôi khi chúng ta chứng
kiến những sự kiện xảy ra, đặc biệt ở đâu mà có khai thác dầu mỏ, hay có tài
nguyên đánh cá. Nhưng trở lại câu hỏi đầu tiên đối với tôi, tôi không thấy có
bất kỳ vấn đề gì đối với chúng tôi ở đảo Falklands.
'Chờ đợi thời cơ'
BBC: Năm 1974, Trung Quốc sử dụng vũ lực quân sự cưỡng chiếm Quần đảo Hoàng
Sa từ tay của chính quyền Việt Nam Cộng hòa do ông Nguyễn Văn Thiệu làm Tổng
thống, ông có nghĩ là đây là một hành động xâm lược và phi pháp không? Ông có
nghĩ là trong tương lai, Việt Nam có thể có một cơ hội nào đó để lấy lại chủ
quyền của mình với quần đảo này?
Derek Tonkin: Đây là một câu hỏi khó trả lời. Điều tôi muốn nói
là Anh quốc chống lại bất cứ hành vi sử dụng bạo lực nào để giải quyết một
tranh chấp, bất luận là nó xảy ra ở đâu. Do đó nếu một quốc gia này tiến hành
một cuộc xâm lăng với một quốc gia khác vì nó tuyên bố chủ quyền với một vùng
lãnh thổ, thì điều đó là không thể chấp nhận và không bao giờ nên như thế.
Do đó trong trường hợp như Việt
Nam xâm lược Campuchia, Liên Xô xâm lược Afghanistan và gần đây là cuộc xung
đột ở Syria, người dân Anh đều chống đối sự can thiệp. Bởi vì các hành động
quân sự luôn để lại những hậu quả. Nó có chiều hướng làm tăng nhiệt căng thẳng
và có xu thế dẫn tới có thêm các cuộc giao tranh và các cuộc xung đột vũ trang
đẫm máu.
Những vấn đề này không thể giải
quyết được trong ngày một ngày hai, mà phải mất thời gian rất lâu. Và hiện nay,
tôi e rằng có vẻ như chưa có một cơ sở cho các cuộc đàm phán và thương thảo.
Và cũng rất tiếc là năm ngoái,
Asean cũng đã gặp một vấn đề đặc biệt, khi mà Campuchia đã hậu thuẫn Trung Quốc
trong vấn đề này, trong khi phần còn lại của Asean thì không.
Do đó mà phiên họp thường niên
đặc biệt đó của Asean đã không trở thành một phiên họp vui vẻ, như tôi còn nhớ.
Do đó tôi không nghĩ là quý vị có thể đặt vấn đề yêu cầu tôi bày tỏ quan điểm
về việc khả năng Việt Nam có thể hay không lấy lại được chủ quyền của mình.
Nhưng tôi xin nói rằng hãy cứ
tiếp tục đòi chủ quyền, bởi vì tôi có thể nói rằng ở Nam Thái Bình Dương, có
những hòn đảo mà chủ quyền bị tranh cãi giữa Hoa Kỳ và với chính nước Anh. Có
một số đảo trong đó nhỏ về kích thước, nhưng hết sức quan trọng về tiềm năng.
Tuy nhiên, chúng tôi có những
thỏa thuận nguyên tắc với Hoa Kỳ rằng những đảo này sẽ không phải là chủ đề của
xung đột và chúng tôi sẽ cùng nhau giải quyết. Có rất nhiều hòn đảo ở Nam Thái
Bình Dương mang tên tiếng Anh, và về mặt lịch sử người Anh đã đến từ một phía
của các đảo đó với cờ được cắm, trong khi người Mỹ đến từ phía khác và nói
'không, đây là đảo của Hoa Kỳ'.
Do đó tôi e rằng quý vị chỉ có
thể đòi chủ quyền thông qua việc hoặc là đồng ý với nhau đạt thỏa thuận dứt
khoát, là điều mà sẽ xảy ra với một số trường hợp ở Thái Bình Dương, hoặc là cố
gắng chờ đợi tới một thời điểm thích hợp khi các vấn đề có thể được thảo luận
hoặc được đặt ra.
Nhưng Việt Nam có vấn đề trong
quan hệ với Trung Quốc, về mặt lịch sử. Tôi nhớ rằng khi tôi đến Việt Nam lần
đầu tiên, tôi đến Bộ Ngoại giao để nói chuyện với ông Mai Văn Bộ, khi đó là Vụ
trưởng Vụ Châu Âu và chúng tôi nói về quan hệ đối ngoại.
Và tôi còn nhớ ông ấy nói với
tôi: "Thưa ông Tonkin, chính sách đối ngoại của chúng tôi thực sự là xử lý
quan hệ với Trung Quốc, họ chiếm tới 90% quan hệ đối ngoại của chúng tôi."
"Các mối quan hệ như Việt
- Mỹ, Việt - Pháp, Việt - Anh hay Việt - Asean đều không là gì so với quan hệ
với Trung Quốc."
"Do đó khi nào quý vị nghĩ
tới chính sách đối ngoại của chúng tôi, quý vị nên nghĩ tới quan hệ của chúng
tôi với Trung Quốc, bởi vì đấy là nơi mà chúng tôi quan ngại nhất, trong suốt
lịch sử."
BBC: Thời gian ở Việt Nam, trong số các chính trị gia hoặc nhà ngoại giao của
chính quyền Việt Nam mà ông đã gặp, ai để lại cho ông ấn tượng nhiều nhất, phải
chăng đó là Phạm Văn Đồng, Võ Nguyên Giáp, Trường Chinh, Nguyễn Cơ Thạch, hay
là ai?
Derek Tonkin: Có thể quý vị sẽ ngạc nhiên, nhưng đó là Trường
Chinh. Mặc dù ông ấy được biết đến là một người rất cứng nhắc và có cá tính rất
mạnh, tên của ông ấy là lấy từ sự kiện Vạn lý Trường chinh, ông ấy lại là một
người kỳ cựu trong đảng, nhưng tôi thấy là khi giao tiếp với riêng tôi, ông ấy
luôn đặc biệt lịch sự, rất thân mật, rất quan tâm và đương nhiên, ông ấy nói
tiếng Pháp rất giỏi.
Một trong những điều mà tôi nhớ
về lãnh đạo Việt Nam thời đó là tiếng Pháp của họ thường tốt hơn tiếng Anh
nhiều bởi vì nhiều người trong số họ là những người Pháp học. Nhiều người cũng
từng ở Pháp. Tôi có thể nói là ông Trường Chinh gây ấn tượng với tôi.
Ông ấy có thể không hoàn toàn
được lòng hết trong đảng, nhưng ông ấy lại có thể trong số những người được
kính trọng nhất.
Với Tướng Giáp, tôi phải nói là
tôi chỉ gặp ông ấy đúng một lần. Ông ấy là một nhà quân sự xuất sắc nên một
người xuất thân dân sự như tôi không có nhiều điều lắm để bình luận.
Phạm Văn Đồng cũng là một
trường hợp rất thú vị, từ gốc gác của ông ấy, có vẻ thấy ông Đồng là một
người thiên hướng xã hội nhiều hơn là cộng sản. Và tôi nghĩ ông ấy có thể thuộc
về một phái có thiên hướng này trong Đảng Cộng sản, cánh theo đường hướng Xã
hội.
Chính vì vậy mà ở trong một số
khía cạnh, ông ấy tỏ ra khoan thai hơn, ít giáo điều, ý thức hệ hơn một số
người khác mà tôi đã gặp.
Còn đối với Nguyễn Cơ Thạch, mà
điều lý thú nhất với tôi là con trai của ông ấy nay trở thành Ngoại trưởng của
Việt Nam, ông Thạch không có một nền tảng hậu thuẫn thật mạnh trong đảng.
Do đó, đôi lúc ông ấy gặp một
số khó khăn, bởi vì trên trường quốc tế, ông ấy sẽ phải nói rằng chính sách của
Việt Nam là hòa bình, Việt Nam không có ý định xâm lược hoặc làm bất cứ điều gì
khác, thì lại có một vấn đề và diễn biến trên biên giới giữa Việt Nam và Thái
Lan và ông Nguyễn Cơ Thạch biết, cho nên ông ấy cũng khó nói.
Ông Thạch đã mất đi tầm ảnh
hưởng của mình trong những năm cuối cùng. Nhưng tôi rất vui và lấy làm thú vị
được biết rằng con trai của ông ấy nay đã được chấp nhận làm Ngoại trưởng.
Và tôi nghĩ rằng thành tích và
nền tảng quan hệ nội bộ đảng trong quá khứ ngày nay đã không còn quan trọng như
trước đây, so với thái độ và năng lực thực sự của họ.
Tôi nghĩ điều này rất quan
trọng, Việt Nam cần những người có năng lực, như những kinh tế gia giỏi, có
kinh nghiệm tốt để điều hành quốc gia, như là Việt Nam.
Tôi không thể nói là tôi theo
dõi sát sao tình hình nội bộ của Việt Nam hiện nay bởi vì đã có nhiều thay đổi
kể từ khi tôi ở đó, nhưng ở giai đoạn mà tôi hiện diện, tất nhiên là vào thời
điểm sau khi ông Hồ Chí Minh đã qua đời, sáu nhân vật lãnh đạo then chốt của
Việt Nam khi ấy đều ở trong hệ thống của đảng hàng ba chục nếu không nói là bốn
chục năm.
Nói cách khác, họ là những lão
làng, kỳ cựu, còn lại trong đảng, lúc ấy họ ở những độ tuổi 70, hay 80 tuổi,
nếu không thể cao niên hơn nữa.
BBC: Ông đã từng làm việc ở Đông Âu như ở Ba Lan, Đức, cũng như đã từng công
cán tại Miến Điện, theo kinh nghiệm và quan sát của mình, theo ông Việt Nam
hiện nay có cơ hội gì không về một con đường đi tới dân chủ và cải tổ dân chủ
thực sự?
Derek Tonkin: Câu trả lời của tôi là có. Nhưng tôi cũng muốn
nói rằng phương Tây cũng nên dừng lại việc tự cho rằng nền dân chủ sản sinh ở
phương Tây là được tạo ra để áp dụng trên khắp thế giới.
Mỗi quốc gia phải tự tìm ra
giải pháp dân chủ cho mình và dân chủ, đặc biệt mà căn bản là quyền lực của
nhân dân thông qua bầu cử, thông qua đại diện của dân.
Điều đó xảy ra như thế nào ở
Việt Nam, tôi nghĩ phải để cho nhân dân Việt Nam tự giải quyết.
Và tôi nghĩ phương Tây nên dừng
lại việc nói với các quốc gia khác về cần thiết lập nền dân chủ cho đất nước
của họ như thế nào.
Có một số chuẩn mực mà tôi chấp
nhận, cũng có những vấn đề về nhân quyền được đặt ra trong tuyên ngôn quốc tế
phổ quát về nhân quyền và trong nhiều công ước quốc tế khác.
Phần lớn những quy ước quốc tế
đó, tôi nghĩ Việt Nam đã tham gia, nhưng điều mà tôi quan ngại đặc biệt, tôi
nghĩ, là về tự do tôn giáo và tự do ngôn luận.
Cũng đang tiếp diễn những đối
thoại giữa phương Tây, đặc biệt là Hoa Kỳ, với Việt Nam về những vấn đề này.
Tất nhiên cùng các cuộc đối
thoại này đang diễn ra ở Miến Điện, cũng như ở Campuchia, và thậm chí ở Thái
Lan, cũng có những quan ngại nhất định.
Nhưng trên khắp Đông Nam Á, bao
gồm Indonesia, quốc gia đã có những tiến bộ to lớn, dân chủ vẫn còn là một đóa
hoa mong manh.
Người ta phải rất nâng niu, cẩn
thận và không nên trông đợi là các thay đổi có thể xảy ra ngay trong một sớm
một chiều.
Đã có hàng trăm năm truyền
thống văn hóa với các thể chế mà chúng tôi miêu tả là độc đoán, độc tài ở các
nước Đông Nam Á, không chỉ ở riêng Việt Nam, và thay đổi sẽ phải cần một thời
gian rất lâu.
Tôi nhớ rằng khi Hoa Kỳ thử
mang dân chủ vào Việt Nam vào những năm thập niên 1950, 1960, phản ứng của
nhiều người Việt Nam mà tôi thấy là họ không có mong muốn và cũng không có
quyền để thách thức lại những gì đã được đưa vào.
Những điều nhập vào đó là mới
mẻ, chính xác đúng như hình dung của một số người, thế nhưng chúng ta cần nhớ
tới câu thành ngữ nói "Phép vua thua lệ làng."
Và cái gì diễn ra ở trong làng
thực sự là ở trong sự kiểm soát của người dân. Còn những gì xảy ra ở bên ngoài
thì có thể nằm trong sự kiểm soát của nhà vua hay của chính quyền trung ương.
Nhưng đổi mới chỉ có thể tồn
tại và nảy nở nhờ sự thuyết phục và nếu chuẩn mực lịch sử và văn hóa như thế
này không được nhìn nhận, thể chế dân chủ sẽ thất bại.
Do đó, đây là vấn đề về hài hòa
khái niệm phương Tây, điều hay được gọi là các giá trị dân chủ phương Tây, với
những gì được mong muốn, kỳ vọng ở các quốc gia Đông Nam Á này, trong đó có
Việt Nam.
Derek Tonkin là cựu đại sứ của
Anh tại Việt Nam (1980-1982), ông từng đảm nhiệm các chức vụ khác nhau trong
các cơ quan, phái bộ ngoại giao của Anh ở Ba Lan, Thái Lan, Campuchia, Miến
Điện. Hiện tại, ông có chân trong ban điều hành một tổ chức mạng lưới theo dõi
tình hình Miến Điện.
viện thẩm mỹ anh thư
ReplyDeletevien tham my anh thu
thẩm mỹ anh thư
tham my vien anh thu o dau
dieu khac chan may
dieu khac chan may dep
hoc dieu khac chan may
dạy điêu khắc chân mày
dieu khac chan may nam
khoa hoc dieu khac chan may