Stan
Fedun
Diên Vỹ chuyển ngữ
Thứ Sáu, 27/09/2013
Lịch sử của một đất nước vật
lộn với bệnh nghiện rượu, và tại sao chính quyền lại chẳng làm gì để giải
quyết.
Một nhóm người đang thưởng thức
rượu Vodka gần một ngôi làng ở vùng núi xa xôi tại Tsovkra-1 thuộc vùng
Caucasus, Dagestan (Ảnh Thomas Peter/Reuters)
Hình ảnh của một người Nga
nghiện rượu: mũi đỏ, râu không cạo, tay nắm chặt chai vodka. Bên cạnh anh ta là
nửa lọ dưa chuột muối và một ổ bánh mỳ đen để giúp đẩy thứ chất lỏng quái quỷ
đi xuống. Niềm hạnh phúc đẫm đầy chất cồn khiến anh ta ca hát một cách vui
sướng. Thế giới của anh có thể không hoàn hảo nhưng cơn say làm anh thấy nó như
thế.
Căn cứ theo Tổ chức Sức khoẻ
Thế giới (WHO), hiện nay tại Liên bang Nga thì trong năm người chết thì có một
người chết vì liên quan đến rượu, so với tỉ lệ 6,2% nam giới trên toàn thế
giới. Trong bài viết của mình vào năm 2000 “Bước đầu: AA và Bệnh nghiện rượu
ở Nga” (AA: Alcoholics Anonymous: Hội Những người Nghiện rượu Vô danh, một
tổ chức giúp cai rượu - ND), Patricia Critchlow ước đoán là có khoảng 20 triệu
người Nga mắc bệnh nghiện rượu trong một quốc gia chỉ có 144 triệu dân.
Nhân vật nghiện rượu Nga là một
hình ảnh cố hữu kéo dài từ thời kỳ Nga hoàng, trong thời kỳ Cách mạng Nga,
trong thời kỳ Liên bang Sô viết, trong thời kỳ chuyển đổi từ xã hội chủ nghĩa
chuyên chế sang dân chủ tư bản, và anh ta vẫn tiếp tục tồn tại trong xã hội
ngày nay. Anh ta ngồi trên chiếc ghế công viên gãy nát hoặc trên các tam cấp
của nhà ga với điếu thuốc lá thỏng trên môi, tính toán đến việc kiếm ở đâu ra
chai rượu kế tiếp và liệu anh ta có thể xoay trở nổi hay không.
Chính quyền Nga đã liên tục tìm
cách đối phó với tệ nạn này, nhưng chẳng có kết quả mấy: đã có bốn đợt cải cách
trước năm 1917, và những biện pháp tổng thể được áp dụng trong thời kỳ Sô Viết
trong những năm 1958, 1972, và 1985. “Sau mỗi chiến dịch quyết liệt tăng
cường chống rượu, xã hội Nga lại thấy mình đối diện với nạn say sưa và nghiện
rượu càng trầm trọng hơn,” G.G. Zaigraev, giáo sư Khoa học Xã hội và người
đứng đầu Hội Khoa học thuộc Viện Xã hội Học tại Học viện Khoa học Nga giải
thích. Chứng nghiện tiền thu nhập từ rượu của Kremlin đã xóa bỏ đi nhiều nỗ lực
nhằm giúp người Nga bớt uống rượu: Ivan Bạo chúa từng khuyến khích thần dân của
mình uống cạn đến đồng kopeck cuối cùng tại những quán rượu của chính quyền để
nêm chặt ví của vị hoàng đế này. Trước khi Mikhail Gorbachev nắm quyền vào
những năm 1980, các nhà lãnh đạo Sô Viết xem việc bán rượu như là một nguồn thu
nhập của chính phủ và không nhìn nhận việc uống rượu nhiều là một vấn nạn xã
hội trầm trọng. Trong năm 2010, bộ trưởng tài chính Nga là Aleksei L. Kudrin đã
giải thích rằng cách tốt nhất mà người Nga có thể giúp “nền kinh tế đang què
quặt của nước nhà là hút thuốc và uống rượu nhiều thêm, qua đó mà trả thêm
thuế.”
Qua hình thức tạo điều kiện cho
việc bán và phân phối rượu, điện Kremlin từ lâu đã có ảnh hưởng đáng kể trong
những thập niên gần đây. Nhưng lịch sử rượu chè của Nga đã có từ nhiều thế kỷ
trước.
Vào năm 988, Hoàng tử Vladimir
quyết định chuyển quốc gia của mình sang đạo Thiên Chúa giáo Chính thống
(Orthodox Christianity - ND), một phần vì đạo này cho phép được uống rượu. Theo
truyền thuyết, các tu sĩ ở Tu viện Chudov trong điện Kremlin là những người đầu
tiên đã nếm mùi vị của vodka vào cuối thế kỷ thứ 15, nhưng theo nhà văn Nga
Victor Erofeyev thì “Hầu như mọi thứ trong câu chuyện này đều mang tính hình
tượng một cách thái quá: sự liên quan của những tu sĩ, tên của tu viện, vốn
không còn nữa (chudov có nghĩa là “kỳ diệu”), và bối cảnh của nó tại thủ đô
nước Nga.” Vào năm 1223, quân đội Nga bị thất trận thảm hại trước quân xâm
lược Mông Cổ và Tartar một phần là vì họ đã say xỉn khi lâm trận.
Ivan Bạo chúa đã thiết lập
những nhà kabak (nơi nấu và bán rượu) vào những năm 1540, và đến những
năm 1640 chúng đã chiếm vị thế độc quyền. Vào năm 1648, các cuộc nổi loại chống
các quán rượu nổ ra trên khắp đất nước, vào lúc ấy một phần ba nam giới đã bị
mang nợ từ các quán rượu. Trong những năm 1700, để lập lại trật tự, Peter Đại
đế đã giành độc quyền trong ngành chế biến vodka và đã trục lợi từ thói nghiện
rượu của thần dân mình. Heidi Brown, người đã sống ở Nga trong 10 năm để viết
bài cho tạp chí Forbes, giải thích rằng “Peter Đại đế đã ra chiếu chỉ
rằng những người vợ của các nông dân sẽ bị ăn roi nếu họ tìm cách kéo những ông
chồng đang cạn chén ra khỏi quán rượu trước khi các ông ấy muốn về.”
Peter Đại đế cũng đã tìm được
một nguồn cung cấp nhân công miễn phí dồi dào bằng cách cho phép những ai mắc
nợ vì nhậu nhẹt không phải ngồi tù của chủ nợ bằng cách phục vụ trong quân đội
25 năm.
Việc uống rượu lan tràn và quá
mức không chỉ được chấp thuận mà còn được khuyến khích như là một cách để thu
nhập ngân sách. Đến những năm 1850, gần phân nửa lượng tiền thuế của chính
quyền Sa Hoàng có được là từ việc bán vodka. Sau cuộc Cách mạng Nga năm 1917,
Lenin đã cấm vodka. Nhưng sau khi ông chết, Stalin đã dùng việc bán vodka để
giúp chi trả cho quá trình công nghiệp hoá xã hội chủ nghĩa ở Liên Sô. Cho đến
những năm 1970, lượng thuế từ rượu một lần nữa lại chiếm đến một phần ba thu
nhập ngân sách của chính phủ. Một nghiên cứu cho thấy mức tiêu thụ rượu đã tăng
hơn gấp đôi giữa năm 1955 và 1979, lên đến 15,2 lít mỗi đầu người.
***
Đã có lập luận cho rằng việc
tiêu thụ rượu mạnh mẽ cũng được dùng như những phương tiện nhằm giảm thiểu sự
đối lập chính trị và như một hình thức đàn áp chính trị. Sử gia và nhà chống
đối Nga Zhores Medvedev vào năm 1996 đã cho rằng “Cái thứ ‘thuốc phiện của
quần chúng’ [vodka] này có lẽ đã giải thích được tại sao tài sản chính phủ Nga
đã có thể phân bố và các doanh nghiệp nhà nước được chuyển sang sở hữu tư nhân
một cách mau chóng mà không dẫn đến bất kỳ một bất an xã hội nào cả.” Vodka
luôn là một thứ máy làm ra tiền ở Nga, có lẽ nó cũng là một thứ máy sản xuất ra
chính quyền.
Cho đến hôm nay, chỉ có hai
chiến dịch chống rượu toàn diện ở Nga, cả hai đều xảy ra trong thời kỳ Liên
bang Sô viết: một lần dưới thời Vladimir Lenin và lần kia dưới thời Mikhail
Gorbachev. Tất cả các nhà lãnh đạo khác hoặc là tảng lờ sự hiện hữu của nạn
nghiện rượu hoặc thừa nhận vấn đề tiêu thụ rượu quá độ nhưng chẳng làm việc gì
đáng kể để đối phó. Critchlow đã viết rằng “Dưới thời các chính phủ Stalin,
Khrushchev and Brezhnev, những hình phạt nặng nề được đưa ra cho những ai phạm
tội trong lúc say rượu, nhưng việc uống rượu quá độ lại không được xem như một
đe doạ đối với xã hội, có lẽ vì bản thân các nhà lãnh đạo cũng là những người
thích nhậu, đã xem việc uống rượu như một chiếc van xả đối cho thái độ bất
mãn.”
Tháng Năm năm 1985, Gorbachev
đã công bố một đạo luật và một chiến dịch tầm cỡ như là một phần của cuộc chiến
tranh mới từ Kremlin chống lại nạn nghiện rượu - lúc ấy đang là vấn nạn xã hội
lớn nhất và là căn bệnh đứng thứ ba sau các chứng tim mạch và ung thư ở Liên
bang Sô viết. Nó đã được nhiều người xem là một kế hoạch kiên quyết và có tác
dụng nhất cho đến nay: tỉ lệ sinh con tăng, tuổi thọ tăng, vợ thấy mặt chồng
thường xuyên hơn, và năng lượng sản xuất khá hơn. Tuy nhiên, sau một đợt tăng
giá rượu và sản lượng rượu quốc gia bị giảm, một số người đã bắt đầu tích trữ
đường để nấu rượu lậu, và những người khác tự đầu độc mình bằng những hoá chất
gây say nguy hiểm như dung dịch làm mát máy xe. Sự bực bội của người dân đối
với chiến dịch chống rượu của Gorbachev có thể được tóm gọn trong câu chuyện
cười thời Sô viết: “Người ta đang xếp hàng dài để mua vodka, và có một gã
khốn khổ không thể chờ thêm được nữa: ‘Tớ đi đến Kremlin để giết Gorbachev,” gã
bảo. Một giờ sau gã quay lại. Dòng người xếp hàng vẫn còn đấy, và mọi người hỏi
gã, ‘Cậu đã giết ông ấy chưa?’ ‘Giết ông ta?!’ gã trả lời. ‘Dòng người xếp hàng
để làm việc ấy còn dài hơn ở đây!”
Bất chấp những nỗ lực của
Gorbachev, đến cuối thời đại Sô viết, nạn nghiện rượu vẫn bám chặt nước Nga. Sự
thành công của chiến dịch cuối cùng lại đưa đến thất bại của nó: chi tiêu vào
rượu tại những cửa hàng nhà nước giảm đến hàng tỉ rúp từ năm 1985 đến 1987.
Chính phủ đã ước lượng rằng suy giảm thu nhập này sẽ được bù đắp cao hơn bởi
năng suất chung được dự đoán là sẽ tăng đến 10 phần trăm, nhưng cuối cùng thì
dự đoán này đã không đạt được.
Sau khi Liên Sô sụp đổ, tình
trạng nhà nước độc quyền về rượu đã bị huỷ bỏ vào năm 1992, điều này dẫn đến
việc tỉ lệ cung cấp rượu gia tăng ở cấp số mũ. Vào năm 1993, mức độ tiêu thụ
rượu đã đạt mức 14,5 lít rượu nguyên chất cho mỗi đầu người, biến Nga thành
quốc gia tiêu thụ rượu nhiều nhất thế giới. Đến nay, thuế đánh vào rượu vẫn còn
thấp, một chai vodka rẻ nhất có giá chỉ 30 rúp (1USD). Như Tom Parfitt đã giải
thích trong bài viết trên báo Lancet vào năm 2006, “Câu trả lời đơn giản về
việc tại sao có quá nhiều người Nga trở thành con mồi của rượu… vì nó rẻ. Có
khoảng 30-60% rượu được sản xuất lậu, vì thế chúng không bị đánh thuế. Một
lượng lớn rượu được tuồn ra trong những ‘ca đêm’ tại các xí nghiệp có giấy
phép, nơi các nhân viên kiểm tra nhà nước được hối lộ để cắt bỏ những nhãn hiệu
chứng nhận trên các dây chuyền sản xuất vào cuối ngày làm việc.”
Vladimir Putin đã lên án việc
nhậu nhẹt quá độ và Dmitri Medvedev từng gọi chứng nghiện rượu ở Nga là một
“thiên tai”, nhưng bên cạnh những khẩu hiệu, chẳng có biện pháp gì được đưa ra
để thắt chặt việc quản lý ngành sản suất rượu, và cũng chẳng có một chương
trình rõ rệt nào được tiến hành nhằm chống lại nạn nghiện rượu. Gennady
Onishchenko, Giám đốc Cơ quan Kiểm tra Y tế Liên bang Nga đã kêu gọi chính phủ
nên chi tiêu nhiều hơn vào việc chữa bệnh nghiện rượu để đối phó với tỉ lệ tử
vong liên quan đến rượu vốn đã tăng gấp ba lần kể từ năm 1990, ông cho rằng các
biện pháp cấm đoán và tăng thuế thì phản tác dụng.
Hiện nay, cách thức chủ yếu để
cai rượu ở Nga là phương pháp đề xuất của khoa Giải nghiện (Narcology - ND)
(một chuyên khoa thuộc ngành tâm thần của Nga chuyên trị các chứng nghiện).
Phương pháp Giải nghiện, còn được gọi là “giải mã”, là một qui trình nhằm kích
thích tính phản ứng đối với rượu trong tiềm thức bệnh nhân.
”Trong khi nhiều khía cạnh
trong lĩnh vực chữa trị chứng nghiện ngập ở Nga đã được chuyển hoá mạnh mẽ
trong những năm 1990, cấu trúc chung của hệ thống chữa trị do nhà nước đài thọ
vẫn không có thay đổi quan trọng từ những năm 1970, khi hệ thống bài trừ nghiện
ngập Sô viết được thành lập,” Eugene Raikhel thuộc Đại học Chicago viết. Những phương pháp ít phổ biến
hơn được dùng để chữa trị bệnh nghiện rượu và ma tuý bao gồm việc “giải phẫu”
não bộ bằng kim và “đun sôi” bệnh nhân bằng cách tăng thân nhiệt của họ nhằm
giảm thiểu những triệu chứng vật vã của cơn nghiện. Những phương pháp cai rượu
thông dụng như hội Nghiện rượu Ẩn danh cũng có mặt ở Nga, nhưng chúng không
được Kremlin chính thức công nhận và không được nhà nước tài trợ, khiến chúng
trở nên khan hiếm và thiếu nguồn vốn.
Nhà thờ Chính thống Nga cũng
nghi ngờ các chương trình tự chữa này. Critchlow giải thích, ”Bất chấp thành
tích chữa trị nhiều người nghiện rượu và ma tuý, các chương trình tự cai như
hội Nghiện rượu Ẩn danh và Nghiện Ma tuý Ẩn danh… đã gặp phải chống đối ở Nga,
đặc biệt là từ giới chuyên môn y tế, quan chức chính phủ và các giáo sĩ Nhà thờ
Chính thống Nga.” Bà viết thêm ”Các thành viên của giới giáo sĩ Nhà thờ
Chính thống đã bày tỏ sự hoài nghi đối với phong trào tự chữa trị, thường vì họ
xem nó như là một loại tà giáo đang tràn vào nước Nga.”
Năm 2010, Nhà thờ Chính thống
xem hội Nghiện rượu Ẩn danh như một ”công cụ hữu hiệu trong việc phục hồi
các con nghiện rượu và ma tuý,” trong khi tuyên bố rằng họ cũng thành lập
chương trình chữa chạy chứng nghiện rượu của riêng mình.
Trong khi ấy, nhiều người Nga
vẫn thích sử dụng các phương pháp chữa trị truyền thống hơn. ”Tôi tham dự
hội Nghiện rượu Ẩn danh và đã không tin vào tai mình. Họ chẳng tôn thờ Chúa và
còn nói rằng họ tự mình chiến thắng bệnh nghiện rượu. Điều này khiến họ đầy ắp
tự hào,” một tín đồ Chính thống đã viết trên blog của mình. ”Tôi quay
lại Nhà thờ. Ở đấy, họ chiến thắng nó bằng lời cầu nguyện và phép kiêng cữ.”
Liên Xô sụp đổ vì rất nhiêu nguyên nhân, trong đó nguyên nhân xã hội là vì Liên Xô có quá nhiều người nghiện rượu. Một đất nước 144 triệu dân mà có tới 20 triệu người nghiện rượu. Một con số quá khủng khiếp. Cho đến nay thì nạn nghiện rượu vẫn lan tràn ở nước Nga. Có lẽ rượu là một thứ “thuốc phiện” không thể thiếu của dân Nga. Đây là một bài học cho Việt Nam. Hãy cẩn thận với rượu bia. Nó chẳng có lợi gì cho sức khỏe, cho nòi giống của dân tộc ta.
ReplyDeleteviện thẩm mỹ anh thư ở đâu
ReplyDeletethẩm mỹ viện anh thư ở đâu
dieu khac chan may phong thuy
tham my vien anh thu o dau
vien tham my anh thu
thẩm mỹ anh thư
tham my vien anh thu o dau
dieu khac chan may
dieu khac chan may dep
hoc dieu khac chan may