Kính
gửi Hội nghị Trung ương 8:
Tống Văn
Công
Viet-studies 30-9-2013
A. ĐẤT NƯỚC ĐANG LÂM VÀO KHỦNG HOẢNG TOÀN DIỆN
Hội nghị lần thứ 8 của BCH TƯ Đảng Cộng sản VN sẽ
kiểm điểm việc thực hiện Nghị quyết ĐH11 và các nghị quyết TƯ, trên cơ sở đó sẽ
quyết định các việc trọng đại của đất nước. Đối chiếu thực tế cuộc sống đang
diễn ra so với các Nghị quyết của Đảng, xin gửi tới Hội nghị bài viết với nỗi
niềm trăn trở.
I.
KINH TẾ SUY SỤP, DO “YẾU KÉM NỘi TẠI, CƠ CẤU LẠC HẬU”
Cương
lĩnh (bổ sung, phát triển năm 2011) viết: “Kinh tế nhà nước giữ vai trò chủ đạo. Kinh tế tập thể không ngừng được
củng cố và phát triển. Kinh tế nhà nước cùng với kinh tế tập thể ngày càng trở
thành nền tảng vững chắc của nền kinh tế quốc dân.”
Chiến
lược phát triển kinh tế xã hội viết: “Phấn đấu
đến năm 2020 nước ta cơ bản trở thành nước công nghiệp theo hướng hiện đại. Để
đạt mục tiêu đó, phải tăng trưởng GDP hàng năm bình quân từ 7 đến 8%; GDP năm
2020 bằng 2,2 lần so với năm 2010; GDP bình quân đầu người khoảng 3000 USD.Tỉ
trọng công nghiệp, dịch vụ chiếm 85% trong GDP. Giá trị sản phẩm công nghệ cao
và ứng dụng công nghệ cao khoảng 45% trong GDP. Giá trị sản phẩm công nghiệp
chế tạo khoảng 40% trong sản xuất công nghiệp.”
Ngay năm đầu tiên thực hiện Nghị quyết ĐH11, nền
kinh tế Việt Nam vấp phải khó khăn lớn nhất sau 20 năm, kể từ năm 1991. Mục
tiêu tăng trưởng đề ra 7,5% chỉ đạt được 5,8%; Quốc hội đề ra mức lạm phát 7%,
thực tế lên tới 19%; hơn 48000 doanh nghiệp phá sản; các tập đoàn kinh tế nhà
nước được kỳ vọng là “quả đấm thép” của nền kinh tế thua lỗ nặng nhất, chỉ
riêng Vinashin đã gây ra nợ 4 tỉ USD; thị trường bất động sản đóng băng; hàng
trăm vụ vỡ nợ tín dụng đen; nợ xấu chiếm 15% tổng tín dụng; nhập siêu10 tỉ USD;
Khả năng cạnh tranh của nền kinh tế sút giảm nghiêm trọng vì tham nhũng, lãng
phí làm cho chỉ số ICOR (số đồng vốn bỏ ra để thu 1 đồng lãi) tăng vọt xấp xỉ 2
con số (chỉ số ICOR của các nước trong vùng chỉ từ 3 đến 4). Kinh tế nhà nước
là gánh nặng của nhân dân, nhận vào 65% tổng tín dụng để làm ra 28% tổng sản
phẩm!
Cuối năm 2011, Đảng và Chính phủ đề ra chủ trương
tái cấu trúc nền kinh tế để cứu vãn: Tái cấu trúc các tập đoàn, tổng công ty
nhà nước; tái cấu trúc hệ thống ngân hàng và hệ thống thể chế tài chính, giải
quyết nợ xấu; tái cấu trúc đầu tư công. Diễn đàn Mùa thu 2012 ở TP Vũng Tàu
nhận định: “Những nguy cơ mang tính cơ cấu và hệ thống đang đe dọa nền kinh
tế”. Viện trưởng Viện kinh tế Việt Nam Trần Đình Thiên cho rằng “Cần phải đổi
mới về cải cách đất đai,tiếp theo là cải cách doanh nghiệp Nhà nước theo nghĩa
thị trường; sau đó là cải cách ngân hàng Nhà nước một cách quyết liệt; tất cả
phải công khai, minh bạch”. Cam kết với WTO phát triển nền kinh tế thị trường ,
nhưng thực tế dùng nhiều biện pháp hành chính và ngắn hạn, nhiều loại giá cơ
bản phi thị trường. Các nhóm lợi ích bất chính đang là lực cản của tái cơ cấu
nền kinh tế, chi phối chính sách ngày càng trắng trợn. Diễn đàn kinh tế mua thu
năm 2013, ở Huế, Viện trưởng Trần Đình Thiên mở đầu tham luận, cho rằng “Kinh
tế thế giới đã bước vào quỹ đạo phục hồi, nhưng Việt Nam không nằm trong quỹ
đạo đó.Những “điểm đen” như nợ xấu, sở hữu chéo trong các ngân hàng vẫn còn
nguyên, tái cơ cấu kinh tế nhà nước vẫn nằm trên giấy. Kinh tế vẫn trong lộ
trình “xuống đáy” và nằm bẹp ở đấy”. Giáo sư Võ Đại Lược đề nghị bán các doanh
nghiệp nhà nước như bia, rượu, nước giải khát, đất đai của Tổng công ty Thương
mại Hà Nội… lấy tiền làm việc có ích.
Nhiều nhà nghiên cứu kinh tế cho rằng mục tiêu đưa
Việt Nam đến năm 2020 cơ bản trở thành nước công nghiệp theo hướng hiện đại
không thể nào đạt được.Cho đến nay Việt Nam chỉ có nền công nghiệp gia công và
là bãi thải công nghiệp của các nước.
Hội
nghị TƯ 3 (10-10-2011) nhận định: “Do yếu kém nội
tại của nền kinh tế với mô hình tăng trưởng và cơ cấu kinh tế lạc hậu, kém hiệu
quả, tích tụ kéo dài….” Ngày 5-9-2013, tại diễn đàn Việt Nam-Nhật Bản, ông Bùi
Quang Vinh, Ủy viên TƯ Đảng, Bộ trưởng Bộ KH-ĐT phát biểu: “Kinh tế Việt Nam
mấy năm qua gặp phải những khó khăn do tác động bên ngoài và chịu ảnh hưởng bởi
suy thoái kinh tế thế giới, tuy nhiên nguyên nhân chủ yếu xuất phát từ những
yếu tố của kết cấu bên trong, những yếu kém của nội bộ”.
Đúng vậy! Cũng trong tình hình kinh tế thế giới suy
thoái, kinh tế của các nước trong khu vực vẫn phát triển, nước lớn như Trung
Quốc GDP năm 2011 là 9,2 %, năm 2012 là 7,8%; nước nhỏ như Campuchia năm 2011
GDP là 7,5%, năm 2012 là 7%, năm 2013 dự kiến 7,6%.).
Cuối năm 2013, vốn đầu tư nước ngoài có tăng lên so
với hai năm trước, đã đem lại nhiều hy vọng cải thiện cho kinh tế Việt Nam, tuy
nhiên vấn đề chính như ông Bùi Quang Vinh nói là “những yếu tố kết cấu bên
trong, những yếu kém nội bộ” vẫn chưa được giải quyết! “Yếu tố và kết cấu” đó
là gì? Phải chăng đó là điều mà nhiều nhà nghiên cứu khuyến nghị: Trả lại quyền
sở hữu ruộng đất cho nông dân và tư nhân hóa, cổ phần hóa các doanh nghiệp nhà
nước?
2.
GIAI CẤP CÔNG NHÂN SỐNG DƯỚI MỨC SỐNG TỐI THIỂU 40%!
“Cương
lĩnh” viết: “Xây dựng giai cấp công nhân lớn mạnh cả về số
lượng và chất lượng; là giai cấp lãnh đạo cách mạng thông qua đội tiên phong là
Đảng Cộng sản Việt Nam, giai cấp tiên phong trong sự nghiệp xây dựng chủ nghĩa
xã hội.”(Văn kiện ĐH 11, trang 80).
Báo
cáo chính trị: “Gắn tiền lương của người lao động với hiệu quả
kinh doanh của doanh nghiệp” (Văn kiện, trang 228).
Nghị
quyết 20 /NQ-TƯ về xây dựng giai cấp công nhân viết: “Xử lý đúng đắn mối quan hệ giữa tăng trưởng kinh tế với thực hiện tiến
bộ và công bằng xã hội và chăm lo xây dựng giai cấp công nhân; đảm bảo hài hòa
lợi ích giữa công nhân, người sử dụng lao động, Nhà nước và toàn xã hội; không
ngừng nâng cao đời sống vật chất và tinh thần của công nhân.”
Hơn 20 năm qua,giai cấp công nhân đã phát triển
nhanh chóng. Họ là những nông dân nghèo khó nhất rời đồng ruộng đến các khu
kinh tế công nghiệp tìm việc. Theo số liệu của Tổng Liên đoàn Lao động Việt Nam
năm 2013, có 15 triệu người lao động làm công ăn lương, có 7,9 triệu đoàn viên
công đoàn, ở khu vực vốn đầu tư nước ngoài có hơn 1,7 triệu người. Hai mươi năm
qua có ba lần cải cách chế độ tiền lương, nhưng lương tối thiểu cho đến nay vẫn
chỉ đáp ứng được 60% mức sống tối thiểu của người lao động. Luật Lao động cho
doanh nghiệp được phép buộc công nhân làm thêm 300 giờ/năm. Các chủ doanh
nghiệp căn cứ mức lương tối thiểu do Nhà nước quy định để trả cho công nhân. Do
đó hình ảnh của giai cấp công nhân hiện nay, theo báo cáo của Viện nghiên cứu
Công nhân, Công đoàn: Có 94% công nhân phải làm thêm ca, thêm giờ mà vẫn không
đủ sống; Có 26,5 % nam công nhân và 31,8 % nữ công nhân suy dinh dưỡng; Có 19,2
% công nhân thiếu máu; 70% thiếu iốt; Có 20% công nhân bỏ một bữa ăn trong
ngày. Công nhân coi được làm thêm giờ như một ân huệ. Nhiều ông chủ doanh
nghiệp phạt công nhân bằng hình thức không cho làm thêm giờ! (Ông Thee Hong Bae
ở Công ty Yujin Vina TP HCM cắt tăng ca vĩnh viễn đối với công nhân Dương Văn
Tam để phạt anh về “tội” sau đình công, mọi người đã đi làm mà 2 ngày sau anh
mới có mặt!. Cán bộ quản lý doanh nghiệp thường kiếm cớ để phạt hoặc làm nhục
công nhân: Ngày 20-5-2013, ở Công ty Yujin Vina (TP HCM) anh Hậu lúc tan ca không
xếp vào hàng, đã bị ông quản lý Chu bóp miệng, nắm cổ áo lôi đi; tháng 7-2013,
anh HVT ở Prex - Vinh (Nghệ An) bị cán bộ quản lý ném phế phẩm vào mặt và đè
đầu dúi vào máy; ngày 18-7-2013 các chị Đặng Thiên Trang, Chu Thị Vân nghỉ phép
quá 1 ngày đã bị quản lý Công ty dệt may Thái Dương (TP HCM) phạt trừ lương và
phụ cấp 700. 000 đồng!...
Từ năm 1995 đến nay đã xảy ra hơn 5000 cuộc đình
công, có những cuộc huy động hơn 10.000 công nhân (như ở Công ty Keyhing Toys
Đà Nẵng năm 2005, Công ty Pouchen Biên Hòa năm 2010). Tất cả các cuộc đình công
đều bị coi là bất hợp pháp, vì không có công đoàn lãnh đạo. Những người được
công nhân đình công cử làm đại diện đối thoại với chủ, sau khi ổn định đều bị
sa thải mà không được các cơ quan chức năng bảo vệ! Cách đây 5 năm, Viện Khoa
học Xã hội thực hiện cuộc điều tra tại 24 doanh nghiệp, cho thấy có 84% người
lao động không thấy công đoàn có vai trò giải quyết tranh chấp. Báo cáo của Ban
Chấp hành Tổng Liên đoàn Lao động Việt Namtại Đại hội 11 Công đoàn Việt Nam
nhận khuyết điểm: “Công đoàn cơ sở chưa lãnh đạo được đình công theo quy định
của pháp luật, tham gia giải quyết tranh chấp lao động, ngừng việc tập thể,
đình công còn bị lúng túng.”
Chỉ cần đọc bài “Công nhân đồng loạt
đình công đòi quyền lợi” trên báo Công An Nghệ An ngày 20-7-2013 cũng đã có
thể hình dung tình cảnh khốn cùng, bị chà đạp nhân phẩm của giai cấp công nhân
hiện nay. Bài báo kể trong một ngày tỉnh Nghệ An có 2 cuộc đình công ở Công ty
Prex Vinh và Công ty May Hanosimex. Bài báo kể một số chi tiết: Bắt làm thêm
giờ mà trả lương rất bèo, tổng thu nhập trung bình là 1650000 đồng/ tháng,
nhiều công nhân bị bị ném phế phẩm vào mặt. Có người “yêu cầu quản lý không nên
có thái độ như vậy” lập tức bị đuổi việc, công nhân bấm thẻ chấm công sớm 30
giây, bị trừ cả ngày công, 1900/ 2500 công nhân đã vào công đoàn, nhưng gửi
kiến nghị lên, công đoàn không trả lời; chủ doanh nghiệp yêu cầu công nhân đình
công cử đại diện đối thoại, nhưng cuộc đình công hồi năm ngoái, cả 8 người được
cử làm đại diện đối thoại với chủ sau đó đều bị đuổi việc, cho nên lần này
không ai dám nhận làm đại diện!
Bộ Lao Động, Thương Binh và Xã Hội kiên trì quan
điểm “Nếu điều chỉnh lương tối thiểu đảm bảo ngay nhu cầu tối thiểu thì rất
nhiều doanh nghiệp, đặc biệt là doanh nghiệp dệt may, da giày gia công sẽ phá
sản.” Quan điểm này vừa trái với các nghị quyết nói trên của Đảng, vừa sai với
thực tế (thời gian qua có nhiều cuộc đình công ở các doanh nghiệp dệt may, da
giày gia công đều được chủ doanh nghiệp giải quyết yêu sách tiền lương mà họ
không hề bị phá sản) và trái với lý luận: “Giá trị sử dụng của thứ hàng hóa đặc
biệt sức lao động là ở chỗ nó sinh ra một giá trị lớn hơn giá trị của chính bản
thân nó. Do đó người sử dụng lao động phải trả mức lương tối thiểu không chỉ đủ
nuôi sống bản thân người lao động mà còn phải có dư để nuôi sống gia đình anh
ta, đảm bảo tái sản xuất sức lao động” (Marx, Engels T23, trang 252). Ý kiến
chưa thể tăng lương tối thiểu đủ mức sông tối thiểu giống như đại diện nhóm lợi
ích của các ông chủ tư bản hoang dã. Thế mà tại sao họ không bị khiển trách?
Ngành dệt may,da giày gia công còn được cho ưu tiên làm thêm giờ!
Từ năm 1930 cho đến trước Đổi Mới, những người cộng
sản Việt Nam luôn luôn lấy khẩu hiệu đòi ngày làm 8 giờ để vận động công nhân.
Tại sao ngày nay, sau 28 năm Đổi Mới, trong khi Tổ chức Lao động Quốc tế đòi
ngày làm 7 giờ, tuần làm 5 ngày, tức 35 giờ/tuần thì Nhà nước Việt Nam lại có
chính sách bảo trợ chủ doanh nghiệp buộc công nhân làm thêm 300 giờ, nhưng thực
tế còn cao hơn nhiều, với đồng lương chết đói? Tại sao chúng ta thừa lao động,
nhất là lao động giản đơn mà không buộc các doanh nghiệp dệt may, da giày gia
công là những ngành sử dụng lao động giản đơn giá rẻ, nếu thiếu nhân công thì
phải tuyển dụng thêm , cấm họ buộc công nhân làm thêm giờ và đòi họ phải trả
lương theo hợp đồng thỏa thuận với người lao động?
3.
NÔNG DÂN KHIẾU KIỆN, TỰ TỬ VÀ BẮT ĐẦU DÙNG SÚNG!
Cương
lĩnh viết: “Xây dựng, phát huy vai trò chủ thể của giai cấp
nông dân trong quá trình phát triển nông nghiệp, nông thôn.”
Phương
hướng nhiệm vụ 5 năm (2011-2015): “Phát triển
nông nghiệp toàn diện hiệu quả, bền vững theo hướng công nghiệp hóa, hiện đại
hóa, phát huy ưu thế của nền nông nghiệp nhiệt đới gắn với giải quyết tốt vấn
đề nông dân, nông thôn.”
Nghị
quyết 26/NQ-TƯ (về nông nghiệp, nông dân, nông thôn) mục tiêu:”Không ngừng nâng cao đời sống vật chất tinh thần của dân cư nông thôn,
hài hòa giữa các vùng, tạo sự chuyển biến nhanh hơn ở các vùng còn nhiều khó
khăn; nông dân được đào tạo có trình độ sản xuất ngang bằng với các nước tiên
tiến trong khu vực và đủ bản lĩnh chính trị, đóng vai trò làm chủ nông thôn
mới…”
Sau Đổi Mới, nông dân đã đưa đất nước từ thiếu đói
trở thành nước xuất khẩu gạo thứ nhì thế giới. Nhưng có nghịch lý là từ đó đến
nay cuộc sống của nông dân ngày càng khốn khó. Đặc biệt là nông dân vùng đồng
bằng sông Cửu Long, vựa lúa lớn nhất nước, chưa bao giờ sống khổ như bây giờ:
Được mùa rớt giá, càng làm càng lỗ; mỗi năm buộc phải đóng từ 30 đến 40 loại
phí; học vấn thấp nhất; nhắm mắt xếp hàng cho người Đài Loan, Hàn Quốc chọn vợ
để cứu gia đình; sang Campuchia bán thân; đóng phí rất nặng để đi xuất khẩu lao
động, bị đánh đập, cưỡng hiếp. Mới đây, báo Tuổi Trẻ đăng tình cảnh lao động
Việt Nam cư trú bất hợp pháp ở Malaysia phải trốn chui trốn nhũi vô cùng thê
thảm. Nhiều năm qua, nông dân bị thu hồi đất không được đền bù thỏa đáng, phải
cơm đùm cơm nắm đi khiếu kiện lên quận, rồi lên tỉnh, lên Trung ương, nằm chờ
chực ngoài vườn hoa, trên vĩa hè và bị đuổi đánh tàn tệ.
Cuối cùng tức nước vỡ bờ, lúc đầu là tự thiêu, tự tử
để tỏ sự phẫn uất một cách bất lực, sau đó là nổ súng hoa cải để cảnh báo nỗi
bất bình, nay thì nổ súng sát thương. Những phát súng của Đặng Ngọc Viết không
phải nhằm bắn vào người có oán thù với riêng anh mà có ý nghĩa biểu tượng bắn
vào chế độ ruộng đất bất công, phi lý, chống lại lợi ích giai cấp nông dân của
anh.
Tại sao những mục tiêu cao đẹp từ các nghị quyết của
Đảng không thể trở thành hiện thực mà ngược lại? Những nhà khoa học và cán bộ
quản lý gắn bó với nông dân đã phát hiện những nguyên nhân chủ yếu nhưng không
được lắng nghe. Gần 20 năm, giáo sư Võ Tòng Xuân nhiều lần lặp đi lặp lại câu
hỏi “Bao giờ nông dân mới giàu?” Và ông trả lời, nông dân không thể thoát nghèo,
bởi đầu ra của hạt lúa bị Hiệp hội lương thực độc quyền thao túng. Giáo sư Đào
Thế Tuấn nói: “Nghịch cảnh thay nông dân từng là quân chủ lực của cách mạng
giải phóng dân tộc, cũng là người lặng lẽ âm thầm khởi xướng công cuộc đổi mới,
nhưng lại ít được hưởng lợi nhất sau đổi mới!”; và “nông dân thiếu chủ quyền về
đất đai, mất đất mà không có ai bênh vực”; và “Đáng lo thay, nông dân là bộ
phận yếu thế nhất trong xã hội, không có quyền mặc cả trên thị trường không
được tham gia quyết định giá cả nông sản, vì thiếu nghiệp đoàn nông dân” (báo
Nông Nghiệp Việt Nam xuân Tân Mão). Nguyên chủ tịch tỉnh An Giang, ông Nguyễn
Minh Nhị phân tích nguyên nhân các chỉ tiêu không đạt được, đã cho rằng:” Nói
những điều to tát như tạo nền kinh tế bền vững, tái cấu trúc, tăng GDP… không
bằng có những chủ trương, quyết sách, hành động sát thực tế để nông dân có đất
canh tác, có đời sống ấm no, sung túc bền vững”. Ông phân tích “Thời kháng
chiến chúng tôi, những cán bộ, đảng viên cùng với nông dân có chung một lợi
ích. Sau khi cầm quyền, chúng tôi với nông dân bắt đầu có sự phân chia, “tuy
một mà hai”. Sự phân chia dễ thấy là chúng tôi – tức chính quyền bắt đầu ra
lệnh, ngay như tổ chức Đảng, các đoàn thể cũng ra lệnh được. Nông dân từ chỗ là
chủ sở hữu đất, chủ sở hữu ruộng, sau khi cải tạo xã hội chủ nghĩa thì đất là
sở hữu nhà nước… Có độc lập rồì bỗng dưng mất hết hai cái quyền sống còn là
quyền sở hữu ruộng đất và quyền sản xuất… Rồi họ dắt díu nhau lên Sài Gòn, Bình
Dương làm công nhân, lại tiếp tục bơ vơ giữa các khu công nghiệp, vắt sức với
đồng lương bèo bọt...”. Mang nỗi niềm của người mắc nợ nông dân, ông đi Đài
Loan, Malaysia, Thái Lan để quan sát và ngạc nhiên kêu lên: “Nhìn cách họ tổ
chức sản xuất nông nghiệp mà phát thèm: Nhà nước, nhà nông, nhà doanh nghiệp,
nhà khoa học phối hợp rất chặt chẽ, trong đó nhà nông ở vị trí trung tâm, được
nhà nước và doanh nghiệp lo cho từ sản xuất tới tiêu thụ sản phẩm. Thái Lan có
công ty tổ chức sản xuất nông nghiệp lo cho cả đầu vào cả đầu ra. Chính phủ hỗ
trợ chính sách rất rõ ràng”(báo Pháp Luật TP HCM xuân Tân Mão). Tiến sĩ Đặng
Kim Sơn Viện trưởng Viện Nghiên cứu Nông nghiệp cho rằng “Nông dân, nông thôn
bị lấy đi quá lớn so với được trả lại”. Mới đây, trên báo Nông nghiệp Việt Nam,
nhà văn của nông dân Nguyễn Khắc Trường, tác giả “Mảnh đất lắm người nhiều ma”
nổi tiếng, có bài viết về tình trạng nông dân ngày nay. Bài viết có những điểm
rất đáng quan tâm: Nông dân xưa chất phác nền nếp lắm. Làng xóm xưa thanh bình
lắm. Nông thôn bây giờ chẳng những nghèo về vật chất mà còn nghèo tinh thần.
Nay không chỉ có trộm cướp mà còn có người nghiện hút, tình làng nghĩa xóm phai
nhạt. Cái gốc của nông dân là ruộng đất mà giờ người ta không còn yêu quý đất
nữa! (Thực ra họ không còn yêu đất chỉ vì đất không còn là của họ nữa mà là của
“toàn dân”!). Ông so sánh với vài nước xung quanh và cho rằng nông dân Trung
Quốc khổ hơn ta, nhà cửa họ lụp xụp hơn, mặt họ sầu não hơn. Nhưng nông dân
Thái Lan thì sướng hơn, giàu có hơn nông dân ta. Ông kết luận: “Nói theo nghĩa
nào đó nông dân chưa thực sự bước ra khỏi vũng bùn!”
Hơn nửa thế kỷ trước, nhà thơ cách mạng Nguyễn Đình
Thi đã tự hào viết câu thơ: “Nước Việt Nam từ máu lửa, Rũ bùn đứng dậy sáng
lòa!” Đất nước của hơn 90% nông dân ngày ấy sáng lòa, bởi họ đã rũ bùn đứng
dậy. Cớ sao sau 68 năm họ phải trở lại vũng bùn?!
4.
KHOẢNG CÁCH GIÀU NGHÈO TĂNG NHANH THỨ 2 CHÂU Á!
Báo
cáo chính trị ĐH 11: “Xây dựng xã hội dân chủ,
kỷ cương, đồng thuận, công bằng,văn minh.” Và ” Có chính sách và các giải pháp
phù hợp nhằm hạn chế phân hóa giàu nghèo, giảm chênh lệch mức sống giữa nông
thôn và thành thị.”
Tuy nhiên, sau Đại hội 11 khoảng cách giàu nghèo đã
tăng tốc. Hai giai cấp lớn của xã hội là công nhân và nông dân chính là nguồn
bổ sung cho số người nghèo đang phình to này.Theo Tổng cục Thông kê năm 2008
khoảng cách giàu nghèo là 8,9 lần; năm 2009 tăng lên 9,2 lần. Gần đây báo chí
phát hiện nhiều chuyện “lương khủng” ở các tập đoàn, công ty nhà nước. Vụ lương
khủng ở TP HCM khoảng cách thu nhập của cán bộ lãnh đạo và công nhân hơn 200
lần. Dư luận cho rằng vụ này chỉ là phần nổi của tảng băng chìm.
Trong những năm kinh tế đất nước sa sút, số người
siêu giàu (có tài sản 30 triệu USD) vẫn cứ tăng nhanh: Năm 2010 có 100 người;
năm 2011 tăng lên 170 người nhanh thứ hai châu Á. Ngày 15-9-2013, nhiều tờ báo
đưa tin: Công ty tư vấn tài sản Wealth-X và Ngân hàng Thụy Sĩ UBS cho biết:
“Mặc cho nền kinh tế Việt Nam đang lâm vào khó khăn, số người siêu giàu của
nước này vẫn tăng gần 15% so với năm trước, từ 170 lên 195 người với tổng tài
sản 20 tỉ USD. Trong khi đó Việt Nam có khoảng 8,1 triệu dân nghèo đói phải tìm
đến cái chết để thoát khổ đau.”
Xin nêu hai trường hợp người nghèo đi tìm cái chết
mà nguồn tin trên đã nói đến:
Tháng 4-2012, chị Lê thị Ngọc Nhãn ở khóm 2, phường
1, TP Cà Mau, trước khi tự tử đã gửi cho Trung tá Diện bức thư, có đoạn: “Sau
khi cháu chết rồi, xin chú giúp cho các con của cháu được vào cô nhi viện. Cháu
xin đội ơn chú đời đời”.
Tháng 5-2013, chị Nguyễn thị Mỹ Nhân, 48 tuổi, ở xã
An Xuyên, TP Cà Mau, trước khi treo cổ, đã viết bức thư gửi chính quyền: “Xin
các cấp chính quyền thấu hiểu hoàn cảnh không có lối thoát của gia đình chúng
tôi hiện nay, đồng ý cấp sổ hộ nghèo cho chồng con tôi có thể sống những ngày
còn lại”.
Trong bài nói về xây dựng Đảng hồi tháng 2-2012,
Tổng bí thư Nguyễn Phú Trọng nói: “Bây giờ trong Đảng cũng có sự phân hóa giàu
nghèo, có người giàu lên rất nhanh, cuộc sống cách xa người lao động; liệu rồi
người giàu có nghĩ giống người nghèo không? Mai kia Đảng này là Đảng của ai? Có
còn giữ được bản chất là đảng cách mạng của giai cấp công nhân, của nhân dân
lao động, của dân tộc không?”.
Thưa Tổng bí thư, cứ nhìn tình cảnh của hai giai cấp
công nhân và nông dân và các chính sách làm cho họ bần cùng, chắc không khó tìm
câu trả lời!
5.
ĐẠO ĐỨC XÃ HỘI BĂNG HOẠI CHƯA TỪNG CÓ
ĐH
11 quyết định: “Xây dựng nền văn hóa tiên tiến đậm đà bản sắc dân
tộc; gia đình ấm no tiến bộ,hạnh phúc;con người phát triển toàn diện về trí
tuệ,đạo đức,thể chất, năng lực sáng tạo, ý thức công dân, tuân thủ pháp luật”
(Văn kiện trang 105).
Tuy nhiên ba năm qua đạo đức tiếp tục băng hoại ngày
càng dữ dội! Hàng ngày báo đưa tin chém giết, trộm cướp, cưỡng hiếp xảy ra khắp
mọi nơi. Người ta chém giết nhau chỉ vì những lý do lãng xẹt. Đáng lo nhất là
tình trạng con cháu đánh đập, chém giết cha mẹ ông bà, anh em, vợ chồng giết
nhau. “Đinh tặc” rải đinh đánh bẫy người đi xe gắn máy, để vá xe, bán lốp,vỏ xe
với giá cắt cổ. Thanh, thiếu niên ném đá lên tàu hỏa, lên ô tô như thú vui. Mới
đây một nhà phê bình có bài viết tựa đề “Người
Việt hung hãn”. Có những hiện tượng bất thường đang nãy sinh: Người ta “tự
xử”, bởi không còn tin khả năng quản lý của chính quyền, cũng không tin công lý
từ tòa án! Bắt được kẻ trộm chó, cả xóm ra tay tự xử bằng gậy gộc. Mới đây, xã
Vĩnh Thành, huyện Châu Thành, tỉnh An Giang vừa có “sáng kiến” lập rào làng,
làm bốn cổng để chống trộm!
Nhà văn Nguyễn Khải người đầu tiên phát hiện tệ nói
dối đang phát triển trong xã hội. Từ đó đến nay tình trạng nói dối bùng lên như
một đại dịch, lan tràn từ trong Đảng tới các cơ quan nhà nước, tổ chức kinh tế,
các đoàn thể, nay nhiễm vào trẻ con. Tại diễn đàn kinh tế mùa Thu đang diễn ra
ở Huế, nhiều tham luận nói về tệ báo cáo láo khiến không thể biết đúng “bệnh”:
nợ xấu bao nhiêu, thất nghiệp bao nhiêu, GDP của các tỉnh có tăng thực vậy
không. Một trung tâm xã hội học vừa công bố kết quả điều tra: Trẻ học cấp 1 có
tỉ lệ nói dối là 22%; trẻ ở cấp 2 có tỉ lệ nói dối 50%; cấp 3 là 64%; sinh viên
đại học là 80%! Có thể hình dung được, đội ngũ cán bộ tương lai sẽ vượt xa cha
anh về tài nói dối!
Có người giải thích đây là mặt trái của cơ chế thị
trường. Nên nhớ rằng, trước khi thực hiện cải tạo xã hội chủ nghĩa, đất nước ta
đã từng sống trong cơ chế thị trường.
Dân tộc ta nổi tiếng hiền hòa. Ông cha ta từng “lấy
đại nghĩa mà thắng hung tàn”, “lấy chí nhân mà thay cường bạo”. Thời hai cuộc
kháng chiến, nhà nhà đêm không cài cửa, ra ngõ gặp anh hùng. Một dân tộc như
vậy, nguyên nhân nào đã biến thành “ra ngõ gặp trộm cướp, giết chóc”?
Triết gia Immanuel Kant cho rằng “Tự do là cơ sở tồn
tại của quy luật luân lý, còn quy luật luân lý là cơ sở nhận thức của tự do”
(Phê phán lý tính thực hành (Đạo đức học), Bùi Văn Nam Sơn dịch và chú giải,
nxb Tri thức. chú thích ở trang 2-3). Có lẽ nên xem lại phương thức tổ chức
quản lý xã hội đang có những gì bất cập so với các nước văn minh?
6.
GIÁO DỤC TIẾP TỤC TỤT HẬU
ĐH
11 quyết định: “Phát triển giáo dục là quốc
sách hàng đầu.Đổi mới căn bản toàn diện nền giáo dục Việt Nam theo hướng chuẩn
hóa, hiện đại hóa, xã hội hóa, dân chủ hóa và hội nhập quốc tế, trong đó đổi
mới cơ chế quản lý giáo dục , phát triển đội ngũ giáo viên và cán bộ quản lý là
khâu then chốt” (Văn kiện trang 130, 131).
Cách đây 20 năm nền giáo dục Việt Nam đã được nhận
diện những điểm không bình thường: Trường chuyên, lớp chọn; thi cử phức tạp;
nhồi nhét, không chú trọng rèn luyện tư duy sáng tạo; học thuộc lòng các bài
mẫu; dạy thêm học thêm lu bù; sách giáo khoa in lại liên tục, nhưng nội dung
không đổi mới; chất lượng giáo viên mỗi năm thêm sa sút; lương giáo viên không
đủ sống... Có nhiều cấp ủy Đảng chỉ thị ngành giáo dục phải soạn giáo án tuyên
truyền chủ trương chính sách: đưa vào chương trình phổ thông 13 luật thuế, luật
phòng chống tham nhũng...
Nhiều cuộc hội thảo huy động trí tuệ các nhà giáo
dục góp ý xây dựng. Nhiều nhà giáo dục giàu tâm huyết và trí tuệ như Hoàng Tụy,
Hồ Ngọc Đại, Văn Như Cương… phân tích mổ xẻ ung nhọt của ngành giáo dục, đề
xuất nhiều kiến nghị như: Khuyến khích sáng tạo; coi trọng óc tưởng tượng; công
bằng , dân chủ trong giáo dục; tôn trọng cá tính học sinh; Bắt buộc cấp tiểu
học, tiến tới trung học và mở cửa đại học; chú trọng bồi dưỡng nhân tài… Tuy
nhiên giáo dục cứ như cỗ xe tụt dốc! Dù cho được tăng tỉ lệ đầu tư, nhưng hiệu
quả thì xuống thấp. Chất lượng Đại học Việt Nam không được quốc tế công nhận.
Càng ngày càng có nhiều bậc cha mẹ cố tìm cách cho
con đi học ở nước ngoài, ban đầu chỉ đi học cấp đại học, nay đưa đi học nước
ngoài ngay từ cấp phổ thông. Xã hội đã quen với cụm từ “tị nạn giáo dục” nói về
tình trạng này.
Nguyên Bộ trưởng Trần Hồng Quân nói: “Nền giáo dục
hiện nay có nhiều lỗi hệ thống”. Giáo sư Văn Như Cương nói: “Tính dối trá tràn
ngập nền giáo dục”…
Mới đây, Diễn đàn Kinh tế thế giới công bố bản báo
cáo “Năng lực cạnh tranh toàn cầu 2013-2014” thực hiện ở 148 nước. Kết quả xếp
hạng các hạng mục lớn của báo cáo cho thấy: Về chất lượng giáo dục phổ thông và
đại học Việt Nam đều thua kém các nước trong khu vực Châu Á. Ở bậc tiểu học
Việt Nam có tỉ lệ đi học cao nhưng chất lượng giáo dục thua kém nhiều nước
trong khối ASEAN. Theo ông Trịnh Ngọc Thạch, phó chủ nhiệm Ủy ban Văn hóa, Giáo
dục Thanh niên, Thiếu niên và Nhi đồng của Quốc hội thì đưa trẻ đến trường
nhiều chưa nói lên được chất lượng tốt. Nói chất lượng phải tính mấy yếu tố:
Thứ nhất là chương trình có tốt không. Thứ hai là giáo viên có tốt không. Thứ
ba là cơ sở vật chất có tốt không. Cả ba cái này chúng ta đều yếu. Bà Nguyễn
Thị Bình nguyên phó chủ tịch nước, nguyên Bộ trưởng Giáo dục năm 1976 nói: “Các
tổ chức quốc tế đều đánh giá, trong chiến tranh, Việt Nam là tấm gương về giáo
dục.Song bây giờ giáo dục Việt Nam hầu như xếp hạng chót. Có tổ chức còn đánh
giá giáo dục Việt Nam kém hơn cả Campuchia, Lào.”
Có hai vấn đề cốt lõi: Một là, mấy chục năm qua,
thầy giáo không chỉ bị đãi ngộ vật chất quá thấp kém mà quan trọng hơn, trong
một xã hội chính trị hóa, người thầy không còn được coi trọng như trong xã hội
dân sự trước kia. Nấc thang giá trị của thầy giáo ở dưới các cán bộ Đảng và tất
cả các cán bộ đoàn thể. Hai là nền giáo dục Việt Nam bị chính trị hóa sâu sắc,
bị chỉ đạo bởi ý thức hệ, nhằm đào tạo ra những công cụ trung thành phục vụ chế
độ. Giáo điều, triệt tiêu tự do tư tưởng, cắt cánh tưởng tượng sáng tạo, không
tôn trọng cá tính... đều xuất phát từ đó. Sản phẩm của một nền giáo dục như vậy
sẽ không thể hội nhập được với nhân loại hiện đại và chắc cũng không thể là
nguyên khí quốc gia trong sự nghiệp hiện đại hóa. Trong thời đại toàn cầu hóa,
dù quan tâm đến thực tế đất nước, nhưng không nên tạo ra một nền giáo dục dị
biệt với thế giới. Giáo dục phải tuân theo các giá trị phổ quát của nhân loại,
tự do dân chủ, bình đẳng. Những nước đi sau như chúng ta rất cần tham khảo, học
theo các nền giáo dục tiên tiến.
7.
“Vì sao công tác xây dƯng Đảng đưỢc TƯ rất coi trỌng, đã có nhiều Nghị
quyẾt, ChỈ thị rẤt đúng, rÂt hay, nhiỀu cuỘc vẬn đỘng sâu rỘng, nhưng kẾt quẢ
vẪn chưa đẠt yêu cẦu?... VưỚng mẮc chính là Ở chỖ nào?” (TBT Nguyễn Phú TrỌng).
Cương
lĩnh: “Để đảm đương được vai trò lãnh đạo, Đảng phải vững
mạnh về chính trị, tư tưởng và tổ chức, thường xuyên tự đổi mới, tự chỉnh đốn,
ra sức nâng cao trình độ trí tuệ, bản lĩnh chính trị phẩm chất, đạo đức và năng
lực lãnh đạo”.
Chiến
lược phát triển kinh tế, xã hội 2011-2020, Chương V, mục 3:”Thực hiện kiên trì, kiên quyết, có hiệu quả cuộc đấu tranh phòng, chống
tham nhũng, lãng phí là nhiệm vụ rất quan trọng, vừa cấp bách vừa lâu dài của
công tác xây dựng Đảng”.
Sau một năm, ngày 26-12-2011, Hội nghị TƯ 4 nhận
định: bình, tự phê bình “Tình trạng suy thoái về tư tưởng chính trị, đạo đức,
lối sống, tệ tham nhũng,lảng phí, hư hỏng trong một bô phận không nhỏ cán bộ,
đảng viên, kể cả ở cấp cao, chưa được đẩy lùi mà thậm chí ngày càng có chiều
hướng nghiêm trọng hơn, làm xói mòn niềm tin đối với Đảng”. Hội nghị TƯ 4 đề ra
“những việc cần và có thể làm ngay” là tiến hành trong toàn Đảng tự giác, gương
mẫu kiểm điểm, phê bình, tự phê bình”.
Sau gần hai năm thực hiện nghị quyết TƯ 4, tình hình
tham nhũng không giảm mà đang tăng lên và diễn biến rất phức tạp, đáng lo ngại:
- Ngày 5-12- 2012 Tổ chức Minh bạch Quốc tế
(Transparency International) xếp Việt Nam về kết quả chống tham nhũng tụt 11
bậc, xuống 123/182 nước.
- Từ tháng 9-2012 đến 3-2013 Tổ chức Minh bạch quốc
tế tổ chức khảo sát và kết luận: 55% người dân Việt Nam cho rằng tham nhũng
đang tăng, tham nhũng nghiêm trọng xảy ra ở các cơ quan chức năng, ở lĩnh vực
đất đai. Điều đáng lo là chỉ có 38% người dân Việt Nam nói mình dám tố cáo tham
nhũng, tỉ lệ thấp nhất so với người dân trong khu vực ASEAN (bình quân là 63%).
Tại sao vậy? Rất dễ hiểu thôi, xin kể 2 vụ việc trong hằng trăm vụ việc như
thế: Theo báo Người Cao tuổi: Ở Ninh Bình có ông cựu chiến binh Đinh Văn
Phiêu tố giác ông Ủy viên TƯ, Bí thư tỉnh Ninh Bình Đinh văn Hùng, tham nhũng,
buôn trống đồng. Lập tức ông bị bắt đưa ra tòa xử 5 năm tù giam vì tội vu
khống. Ông Lê Đăng đảng viên 60 tuổi Đảng tố cáo Thành phố Biên Hòa làm trái
Quyết định 227 của Thủ tướng về quy hoạch, lập tức ông bị khai trừ Đảng. Người
dân thường cứ nhìn vào đó mà liệu giữ mình!
- Mới đây các cơ quan thanh tra Việt Nam khảo sát
cho biết có 70% doanh nghiệp chủ động đưa hối lộ, trong 20 vụ tham nhũng lớn
nhất thì 50% xảy ra ở doanh nghiệp nhà nước.
- Ngày 18-9-2013, trong cuộc họp UBTV Quốc hội, chủ
tịch Nguyễn Sinh Hùng nói “Không tham nhũng lấy tiền đâu mà chạy chức?”, và ông
đặt câu hỏi gây chấn động dư luận xã hội: “Có tham nhũng trong lực lượng chống
tham nhũng không?”
Cuộc họp cho rằng rất cấp thiết phải trả lời câu
hỏi: Vì sao tham nhũng không giảm mà cứ tiếp tục tăng?
Tại Hội nghị TƯ 5, TBT Nguyễn Phú Trọng đặt ra một
loạt câu hỏi để tìm câu trả lời: “Phải chăng do các cấp ủy, chính quyền và
người đứng đầu chưa phát huy đầy đủ ý thức và bản lĩnh chính trị, tinh thần
trách nhiệm trong chỉ đạo và tổ chức thực hiện? Do sức chiến đấu của nhiều tổ
chức Đảng quá yếu? Do sự kém tu dưỡng rén luyện của của một bộ phận cán bộ,
đảng viên, công chức, viên chức? Do chưa phát huy mạnh mẽ vai trò giám sát của
nhân dân, của công luận? Do những bất cập trong việc ban hành, thực thi các văn
bản quy phạm pháp luật? Do mô hình tổ chức và hoạt động của Ban chỉ đạo phòng
chống tham nhũng chưa phù hợp? Do sự yếu kém, tiêu cực trong công tác phát hiện
và xử lý các vụ tham nhũng lãng phí?”
Các câu hỏi của TBT Nguyễn Phú Trọng đều chính xác,
tuy nhiên chưa phải là câu hỏi chủ yếu nhất cần phải đặt ra. Tại Hội nghị TƯ 4,
TBT Nguyễn Phú Trọng nói: “Đặc biệt, có một câu hỏi lớn, rất day dứt, trăn trở
lâu nay, cần được trả lời cặn kẽ là: “Vì sao công tác xây dựng Đảng được Trung
ương rất coi trọng, đã có nhiều nghị quyết, chỉ thị rất đúng, rất hay, nhiều
cuộc vận động sâu rộng, nhưng kết quả vẫn chưa đạt yêu cầu?.....Vướng mắc chính
là ở chỗ nào?”
Đây mới thực là câu hỏi rất lớn, do đó chúng tôi cho
rằng phải tìm câu trả lời theo cách mà TBT Nguyễn Phú Trọng nhiều lần nhấn mạnh
là phải “đột phá”!
Xin thưa với Tổng bí thư: Có thể đoan chắc rằng,
trong lịch sử không có một đường lối, chính sách nào rất đúng, rất hay lại được
vận động sâu rộng mà đi tới thất bại cả! Hay, đúng thì phải sát thực tế, tạo ra
được thiên thời, địa lợi, nhân hòa. Bất cứ giải pháp nào đưa tới thất bại, hơn
nữa lại là thất bại rất nhiều lần, kéo dài hàng chục năm thì cần phải thực sự
cầu thị, để nhận thức rằng đó là một giải pháp sai!
Nhà nước ta đã ký kết tham gia Công ước Liên Hiệp
Quốc về chống tham nhũng từ 1-7-2009. Công ước này là tập trung trí tuệ và kinh
nghiệm của nhiều quốc gia tiên tiến đúc kết nên. Trong đó, không có kinh nghiệm
nào chống tham nhũng thành công từ tự phê bình, phê bình cả!
Công ước này đặt 2 điều đầu tiên cho chính sách và
thực tiễn chống tham nhũng là:
(1) “Thúc đẩy sự tham gia của xã hội và thể hiện các
nguyên tắc của chế độ pháp quyền”.
(2) Về “cơ quan phòng chống tham nhũng” thì điều đầu
tiên là có “sự độc lập cần thiết” để “thực hiện chức năng của mình một cách
hiệu quả và không chịu bất kỳ sự ảnh hưởng trái pháp luật nào”.
Tiếc thay cả hai vấn đề quan trọng nhất của Công ước
này, đều không được Việt Nam vận dụng!
Câu hỏi của Chủ tịch Nguyễn Sinh Hùng sẽ được trả
lời không khó khăn nếu tổ chức Đảng và cơ quan Nhà nước đều phải đặt dưới pháp
luật.
Trước khi kiến nghị các giải pháp khắc phục tình
trạng khủng hoảng toàn diện kể trên, xin trích dẫn ý kiến của Engels đại diện
cho K.Marx viết lời tựa bản Tuyên ngôn tiếng Đức năm 1883: “Trong mỗi
thời đại lịch sử, sản xuất kinh tế và cơ cấu xã hội ̶̶ cơ cấu này tất yếu phải do sản xuất kinh tế mà ra – cả hai cái đó cấu thành cơ sở của lịch sử chính trị và lịch sử tư tưởng của thời đại ấy”.
Nền sản xuất kinh tế đa thành phần phát triển đã làm cho chiếc áo toàn trị quá
chật, đòi hỏi phải thay bằng chiếc áo dân chủ.
B. KIẾN NGHỊ CÁC GIẢI PHÁP
1. Đại hội 6 chủ trương “Đổi mới toàn diện bắt đầu từ đổi mới kinh tế”. Đại hội 11 quyết định: “KIÊN TRÌ VÀ QUYẾT LIỆT THỰC HIỆN ĐỔI MỚI. ĐỔI MỚI CHÍNH TRỊ PHẢI ĐỒNG BỘ VỚI ĐỔI MỚI KINH TẾ”…
Thật đáng tiếc là cho đến nay thể chế, hệ thống
chính trị nước ta hầu như vẫn giữ y nguyên khuôn mẫu của chủ nghĩa xã hội kiểu
xô viết. Nền móng tự do dân chủ đã có từ Tuyên ngôn độc lập và Hiến pháp 1946
đã không được thực hiện, phát huy. Các quyền tự do cơ bản như tự do báo chí, tự
do ngôn luận, tự do hội họp và lập hội, tự do biểu tình đều khất “nợ” nhân dân
suốt 68 năm! Đại hội 6 đã trả lại cho nhân dân quyền tự do kinh tế bị tước mất
sau cải tạo xã hội chủ nghĩa. Nhờ đó mà người Việt Nam năng động sáng tạo hẳn
lên, vượt qua đói nghèo, đạt được mức sống trung bình thấp. Tuy nhiên do chưa
được đổi mới chính trị, nhân dân chưa có quyền tự do xây dựng một nhà nước pháp
quyền thể chế hóa các quyền tự do. Không có nhà nước pháp quyền đúng nghĩa thì
tự do kinh tế không được bảo trợ về pháp lý, bị vướng mắc bởi thể chế chính trị
lạc hậu thao túng , chi phối, làm suy giảm năng lực phát triển. Tình trạng ốm
yếu của nền kinh tế Việt Nam là vì vậy. Không có tự do chính trị cũng hạn chế
tự do văn hóa, không thể tiếp thu được tinh hoa văn hóa của nhân loại, thậm chí
không phân biệt thuần phong mỹ tục với hũ tục. Nhiều cán bộ chính trị tự cho
mình quyền kiểm duyệt, cấm đoán tác phẩm của các nghệ sĩ bậc thầy. Thiếu tự do
chính trị là nguyên nhân gây hạn chế đồng thuận, chia rẽ dân tộc, bất ổn xã
hội. Tình trạng khủng hoảng toàn diện của đất nước là báo động đỏ cho sự chậm
trễ đổỉ mới chính trị.
Có người lo ngại đổi mới chính trị sẽ gây ra nguy cơ
bất ổn xã hội, đe dọa quyền lãnh đạo của Đảng cộng sản, nói như vậy là không
tin nhân dân, hoặc coi nhân dân là “thần dân”. Đổi mới chính trị chính là tin
nhân dân, tôn trọng nhân dân, cùng nhân dân thảo luận, lựa chọn, xây dựng một
thể chế thực sự của dân, do dân, vì dân, điều mà Đảng cộng sản thường nêu lên
như tâm nguyện cao cả nhất từ những ngày đầu cách mạng. Đổi mới chính trị sẽ
loại bỏ được nguyên nhân đã làm cho các nghị quyết của Đảng suốt nhiều nhiệm kỳ
cứ phải lặp đi lắp lại:” Quyền làm chủ của nhân dân ở một số nơi một vài lĩnh
vực còn bị vi phạm. Việc thực hành dân chủ còn mang tính hình thức” (Văn kiện
ĐH 11, trang 171). Được như vậy thì uy tín của Đảng, tình trạng nhân dân mất
niềm tin vào Đảng sẽ được ngăn chặn.
2. KHÔNG NÊN THÔNG QUA DỰ THẢO HÍÊN PHÁP NẾU CHƯA ĐẠT YÊU CẦU ĐỔI MỚI CHÍNH TRỊ!
Sửa đổi Hiến pháp 1992 chính là cơ hội vàng để đổi
mới chính trị! Do đó, không nên tùy tiện phủ quyết những ý kiến không hợp với
quan điểm bảo thủ, giáo điều mà cần tổ chức tranh luận công khai trên mọi cơ
quan truyền thông.
Kiến nghị 72 nhằm xây dựng bản Hiến pháp bảo đảm
toàn vẹn lãnh thổ, phát triển bền vững đất nước, mang lại tự do, hạnh phúc cho
các thế hệ hiện tại và tương lai, gồm 7 điểm quan trọng:
1- Lời nói đầu phải làm rõ mục tiêu đảm bảo an toàn,
tự do hạnh phúc cho mọi người dân, hạn chế sự lạm quyền, hướng đến hạnh phúc
của các thế hệ tương lai. Quyền lập hiến phải thuộc về nhân dân. Cần nhấn mạnh
nguyên tắc chủ quyền nhân dân, tôn trọng ý chí dân tộc. Do đó không nên định
trước vai trò lãnh đạo nhà nước và xã hội cho một tổ chức chính trị. Chủ thể
nào lãnh đạo xã hội sẽ do nhân dân tin cậy bầu chọn.
2 - Mục đích thành lập Nhà nước là để bảo vệ các
quyền đương nhiên của con người. Dự thảo có nhiều điểm không phù hợp với các
chuẩn mực phổ quát ở các Công ước Liên Hiệp Quốc mà nhà nước ta đã gia nhập.
Cụm từ “theo quy định của pháp luật” lâu nay mở đường cho việc nhân danh Hiến
pháp đàn áp công dân , cần phải khắc phục.Do đó, Hiến pháp nên quy định thành
lập một Ủy ban quốc gia về quyền con người.
3 - Cần công nhận quyền sở hữu tư nhân, tập thể,
cộng đồng đối với đất đai, để chống tham nhũng, lộng quyền, móc ngoặc giữa cán
bộ nhà nước và doanh nhân gây thiệt hại cho nhân dân, đặc biệt là nông dân, gây
bất ổn xã hội.
4 - Thực hiện nhà nước pháp quyền, tam quyền phân
lập.
5 - Lực lượng vũ trang trung thành với Tổ quốc và
nhân dân, nhằm bảo vệ toàn vẹn lãnh thổ quốc gia, yên bình cho nhân dân. Đó
cũng chính là mục tiêu chính trị của Đảng cộng sản đặt ra cho mình từ khi thành
lập. Đảng cộng sản là một thành phần trong nhân dân, không nên quy định lực
lượng vũ trang trung thành với Đảng cộng sản.
6 - Bảo đảm quyền phúc quyết Hiến pháp của nhân dân.
7 - Thời gian lấy ý kiến toàn dân đến kéo dài hết
năm 2013, khuyến khích việc tham khảo, so sánh, thảo luận công khai để xây dựng
bản Hiến pháp phù hợp nhất cho quốc gia.
Bản Kiến nghị 72 đã được 15 đại diện trình lên Ban
soạn thảo Hiến pháp của Quốc hội. Hơn 14000 người ký tên hưởng ứng, trong đó có
hàng trăm giáo sư trong, ngoài nước, hàng trăm đảng viên lão thành, cựu chiến
binh. Thế nhưng , 700 tờ báo và cả hệ thông truyền hình phát thanh không đưa
tin, không tranh luận công khai sòng phẳng. Tất cả cơ quan truyền thông nhà
nước đơn phương bóp méo, xuyên tạc, phê phán, nhưng không nêu đích danh Kiến
nghị 72 mà coi đó là lập luận của một “lực lượng thù địch” vô hình, một “bọn
xấu” không có địa chỉ! Thật đáng tiếc, cách làm không minh bạch như vậy lại có
thể xảy ra ở một đất nước đã ký kết các Công ước của Liên Hiệp Quốc, đã từng là
ủy viên không thường trực của Hội đồng Bảo an!
Một số người cho rằng việc góp ý không có vùng cấm,
nhưng không được lợi dụng góp ý để vi phạm những vấn đề thuộc về nguyên tắc cơ
bản! Xin hỏi những điều gì được gọi là “nguyên tắc cơ bản”? Quyền lãnh đạo của
Đảng chăng? Hay “tam quyền phân lập” chăng? Không đúng! Nguyên tắc cơ bản phải
là đảm bảo thực hiện cho được mục tiêu “của dân, do dân, vì dân” và tất cả phải
thượng tôn pháp luật. Do đó, nếu chưa thống nhất được thì nên dừng lại không
nên vội vàng thông qua bản dự thảo Hiến pháp còn quá nhiều bất cập, nên có thêm
thời gian và không gian dân chủ để thảo luận. Bởi vì nếu vội vàng ban hành bản
Hiến pháp không đạt các tiêu chuẩn tự do dân chủ phổ quát cũng tức là chưa đạt
yêu cầu “đổi mới chính trị phải đồng bộ với đổi mới kinh tế” mà ĐH 11 đã đề ra
và hậu quả không mong muốn sẽ xảy ra cho dân tộc, cũng tức là cho Đảng cộng
sản.
3. ĐIỀU 4, GỢI NHỚ “TRƯỚC MẶT QUẦN CHÚNG, KHÔNG PHẢI TA CỨ VIẾT LÊN TRÁN HAI CHỮ CỘNG SẢN MÀ ĐƯỢC HỌ YÊU MẾN” ( HỒ CHÍ MINH).
Đất nước, nhân dân đòi hỏi ĐẢNG TỪ BỎ HÌNH THỨC ĐẢNG
TRỊ TRỞ THÀNH ĐẢNG CẦM QUYỀN TRONG NHÀ NƯỚC PHÁP QUYỀN, CỦA DÂN, DO DÂN, VÌ
DÂN. Phải thực hiện “bao nhiêu quyền hạn đều của dân” như Hồ Chí Minh đã hứa
hẹn, chấm dứt tình trạng đã kéo dài mấy chục năm nay mà nguyên UV BCT Nguyễn
Văn An đã thẳng thắn và trung thực nhận định: “Bộ Chính trị là vua tập thể”.
Không nên tiếp tục làm cho khẩu hiệu thiêng liêng “tất cả quyền lực nhà nước
thuộc về nhân dân” để rồi Đảng “là lực lượng lãnh đạo nhà nước” nên cuối cùng
quyền lực nhà nước thuộc về Đảng! Trong dân gian đã lưu truyền công khai những
thành ngữ “Đảng cử dân bầu”, “mười năm phấn đấu, không bằng cơ cấu một giờ”…
thật là phản cảm.
Chúng ta đang hội nhập toàn cầu, Hiến pháp của các
nước văn minh không ghi quyền lãnh đạo của một đảng chính trị. Nước ta, từ
những ngày cách mạng còn trứng nước, Đảng chỉ có 5000 đảng viên, Hiến pháp 1946
không ghi vai trò lãnh đạo của Đảng, nhưng nhân dân vẫn theo Đảng, vì Đảng có
đường lối giành độc lập, tự do. Việc đưa sự độc quyền lãnh đạo của Đảng vào
Điều 4 Hiến pháp đã gây rất nhiều tranh cãi. Nhiều đảng viên cộng sản từng giữ
cương vị ủy viên Trung ương, Bộ trưởng cũng không đồng tình. Xin đừng vu cho họ
tội chống Đảng, hoặc suy thoái chính trị. Tại sao họ lại chống lại Đảng mà họ
đã bỏ gần hết cả đời phục vụ chứ? Bản thân tôi, một đảng viên 55 tuổi đảng, tôi
cảm thấy Điều 4 là sự xúc phạm lòng tự trọng, tự hào của mình là một đảng viên.
Từ khi vào Đảng, các đảng viên từng tâm niệm “phải yêu dân kính dân thì dân mới
kính ta, yêu ta” và “Trước mặt quần chúng, không phải ta cứ viết lên trán chữ
cộng sản mà được họ yêu mến.”(Hồ Chí Minh, ST,1985, T5, trang 184). Hiểu theo ý
nghĩa của câu ấy thì việc ghi Điều 4 vào Hiến pháp không phải là ghi hai chữ
cộng sản lên trán của Đảng mà chính là ghi lên trán của dân tộc! Liệu cách áp
đặt như vậy có được nhân dân yêu mến hay không?
4. THẾ NÀO LÀ MỘT NHÀ NƯỚC PHÁP QUYỀN? TẠI SAO LẠI KHÔNG CHẤP NHẬN TAM QUYỀN PHÂN LẬP?
Lý do để các nhà lý luận của Đảng không đồng ý tam
quyền phân lập là cho rằng đó là “dân chủ phương Tây”! Khổ quá! Các vị tìm đâu
ra thứ dân chủ phương Đông chứ? Nhà sáng lập “tam dân chủ nghĩa” Tôn Trung Sơn
nói hẳn rằng, dân chủ dân quyền thì phải học phương Tây, bởi vì phương Đông và
Trung Quốc suốt 4000 năm lịch sử chìm đắm trong quân quyền. Đã có nhiều nước
phương Đông thực hiện nhà nước tam quyền phân lập như Nhật, Hàn quốc…nâng cao
quyền dân, hạn chế được tham nhũng, đất nước phát triển rất nhanh. Chính các nước
này đang chìa tay giúp đỡ ta. Ta cứ công kích tam quyền phân lập là theo Tây,
không sợ mất lòng những người giúp đỡ mình sao?
Tiến sĩ Hồ Bá Thâm trong bài viết “Dân chủ hóa, phân
quyền hóa cơ cấu hệ thống quyền lực Nhà nước theo tư duy pháp quyền biện chứng”
đăng trên tạp chí Nghiên cứu Lập pháp từ năm 2009, đã cảnh báo tệ nạn
tham nhũng, cửa quyền, quan liêu phát triển là do thiếu cơ chế giám sát, kiềm
chế quyền lực, “đó là lỗ hổng và yếu kém nhất trong hệ thống tam quyền của nhà
nước, phải được khắc phục sớm bằng cả nhận thức và thể chế”. Ông cũng băn khoăn
khi “việc thực hiện ba quyền đặt dưới sự lãnh đạo của Đảng”. Ông cho rằng lẽ ra
sự lãnh đạo của Đảng là ở đường lối và đưa ra quan điểm lớn “Phải làm thế nào
để thực hiện cho được quyền tư pháp độc lập, thượng tôn pháp luật, không chấp
nhận bất cứ sự chi phối nào ngoài pháp luật”. Đến nay, dự thảo Hiến pháp sửa
đổi cũng gần như cũ: “Tất cả quyền lực nhà nước thuộc về nhân dân…. do Đảng
cộng sản VN lãnh đạo. Quyền lực nhà nước là thống nhất; có sự phân công, phối
hợp và kiểm soát giữa các cơ quan trong việc thực hiện các quyền lập pháp, hành
pháp, tư pháp”. Tiến sĩ Nguyễn Đăng Hưng có một thắc mắc rất có lý “đã thống
nhất sao lại còn phân công?” Vừa qua, một báo cáo viên của Ban Tuyên huấn Trung
ương xuống giảng giải ở Đảng bộ phường Tân Kiểng, quận 7, TP HCM đã giải thích:
Quyền lực nhà nước thuộc về nhân dân mà nhân dân là một khối thống nhất, do đó
không thể chia cắt, không thể phân lập! Tại sao các nhà lý luận của Đảng không
chịu hiểu rằng, nhà nước là công cụ để phục vụ nhân dân, do đó nhân dân muốn
phân chia nó thế nào để phục vụ mình tốt hơn là quyền của nhân dân chứ?
Tại sao các chế độ dân chủ tìm đến nhà nước pháp
quyền, tam quyền phân lập? Xin trích dẫn ra đây ý kiến của hai bậc hiền triết
của nhân loại:
Từ thời cổ đại Platon quan sát các nhà nước và đi
đến nhận định: “Tôi nhìn thấy sự sụp đổ nhanh chóng của Nhà nước ở nơi nào pháp
luật không có hiệu lực và nằm dưới quyền của một ai đó.Còn nơi nào pháp luật
đứng trên các nhà cầm quyền và các nhà cầm quyền chỉ là nô lệ của pháp luật thì
ở đó tôi nhìn thấy có sự cứu thoát của nhà nước”. Học trò xuất sắc của ông là
Aristote, người được Karl Marx coi là nhà tư tưởng vĩ đại nhất thời cổ đại, đã
cụ thể hóa tư tưởng của thày mình, cho rằng quyền lực nhà nước phải được chia
làm ba lĩnh vực: Lập pháp, hành pháp, tư pháp. Suốt hơn 2000 năm sau đó những
đầu óc vĩ đại của nhân loại không ngừng khám phá, bổ sung, cụ thể hóa tư tưởng
phân quyền. Trong đó J. Locke và Montesquieu được đánh giá đã ghi hai cột mốc
lớn nhất. Cho đến nay đã có hàng trăm quốc gia dân chủ, giàu mạnh tổ chức nhà
nước theo tam quyền phân lập, dù hình thức có đôi chỗ khác nhau, nhưng điều cơ
bản, phổ quát là không đổi.
Montesquieu cho rằng: “Khi mà quyền Lập pháp và Hành
pháp nhập lại trong tay một người hay một Viện nguyên lão thì sẽ không còn gì
là tự do nữa, người ta sợ rằng chính ông ấy hoặc Viện ấy chỉ đặt ra luật độc
tài để thi hành một cách độc tài. Cũng không có gì là tự do nếu như quyền Tư
pháp không tách rời quyền Hành pháp và Lập pháp. Nếu quyền Tư pháp được nhập
với quyền Lập pháp thì người ta sẽ độc đoán với quyền sống và quyền tự do của
công dân. Quan tòa cũng sẽ là người đặt ra luật. Nếu quyền Tư pháp nhập với
quyền Hành pháp thì quan tòa có sức mạnh của kẻ đàn áp. Nếu một người hay một
tổ chức của quan chức hay của quý tộc, hoặc của dân chúng năm luôn cả ba quyền
lực nói trên thì tất cả sẽ mất hết”. Ông đặc biệt nhấn mạnh quyền Tư pháp phải
nhất thiết tách ra, độc lập với hai quyền kia.
Ngày nay, nhân loại đánh giá một nhà nước dân chủ
văn minh khi thực hiện tốt các tiêu chí:
Xã hội được tự do khi nhà nước bị kiểm soát bởi luật
pháp mà mục đích là để bảo vệ các quyền con người.
Xã hội được quản lý bởi một chính phủ của luật pháp.
Một cá nhân có thể làm bất cứ điều gì luật pháp không cấm, còn quan chức nhà
nước chỉ được làm những gì luật pháp cho phép.
Đối chiếu những ý kiến ở trên, soi rọi vào cách tổ
chức nhà nước của ta , sẽ không quá khó khăn để hiểu vì sao nhà nước chúng ta
chưa thể có tư pháp độc lập, nạn quan liêu, tham nhũng lan tràn không sao ngăn
nỗi. Những ý kiến chống lại Tam quyền phân lập cho rằng nó sẽ làm cho Đảng mất
quyền lãnh đạo. Thật là sai lầm! ĐH 11 cho rằng: “Đảng lãnh đạo bằng cương
lĩnh, chiến lược ,các định hướng chính sách và chủ trương lớn, bằng công tác
tuyên truyền, vận động, thuyết phục, bằng hành động gương mẫu của đảng
viên”(Văn kiện,trang 88). Nhà nước tam quyền phân lập chỉ buộc Đảng, cũng như
Nhà nước phải đặt mình ở dưới Hiến pháp và pháp luật. Tư pháp độc lập của nhà
nước pháp quyền có thể gọi người vi phạm pháp luật bất cứ đó là ai phải trả lời
trước tòa án. Một phó thường dân cũng như ông tổng bí thư đều bình đẳng trước
pháp luật. Có người ví von việc khó chấp nhận điều này là “Không ai lấy đá tự
ghè vào chân mình”.Nhưng đó chính là cách duy nhất giúp cho Đảng thoát khỏi
tham nhũng, quan liêu như hiện nay, để có thể lấy lại niềm tin của nhân dân
đang sút giảm nghiêm trọng.
5. XÂY DỰNG XÃ HỘI DÂN SỰ ĐÚNG NGHĨA
Khái niệm xã hội dân sự có từ thời cổ Hy Lạp, nó chỉ
một phạm trù rộng lớn của đời sống xã hội bao gồm gia đình, tôn giáo, giáo dục,
văn hóa, nghệ thuật…Đến thời khai sáng, các nhà tư tưởng đề cao quyền tự do cá
nhân trong xã hội dân sự, độc lập với nhà nước, coi xã hội có trước nhà nước,
nhà nước không được lấn át xã hội dân sự. Một nhà nước được coi là văn minh,
hợp pháp khi nào được thành lập bởi sự thỏa thuận của tất cả các cá nhân trong
xã hội dân sự, điều đó được xác lập bằng một Hiến pháp dân chủ. Sự phân chia
giữa nhà nước và xã hội dân sự được coi là đặc trưng của một thể chế chính trị
thực sự dân chủ.
Trong các chế độ quân chủ, độc tài, xã hội dân sự dù bị đàn áp vẫn tồn tại, đấu tranh bảo vệ các quyền tự do của người dân bị xâm phạm. Quá trình dân chủ hóa là quá trình phát triển của xã hội dân sự từ non yếu đến mạnh mẽ. Có thể có xã hội dân sự chưa thật hoàn thiện trong một chế độ độc tài, nhưng không thể có chế độ dân chủ mà lại không có xã hội dân sự. Hàn quốc, Đài Loan, Thái Lan, Philippine, Indonexia và mới đây là Myanmar đều đi từ độc tài đến dân chủ, xã hội dân sự từ non yếu phát triển và hoàn chỉnh nhanh chóng.
Trong các chế độ quân chủ, độc tài, xã hội dân sự dù bị đàn áp vẫn tồn tại, đấu tranh bảo vệ các quyền tự do của người dân bị xâm phạm. Quá trình dân chủ hóa là quá trình phát triển của xã hội dân sự từ non yếu đến mạnh mẽ. Có thể có xã hội dân sự chưa thật hoàn thiện trong một chế độ độc tài, nhưng không thể có chế độ dân chủ mà lại không có xã hội dân sự. Hàn quốc, Đài Loan, Thái Lan, Philippine, Indonexia và mới đây là Myanmar đều đi từ độc tài đến dân chủ, xã hội dân sự từ non yếu phát triển và hoàn chỉnh nhanh chóng.
Trong thể chế theo mô hình xã hội chủ nghĩa xô viết,
tất cả đều Nhà nước hóa, từ đời sống kinh tế, chính trị, văn hóa, cái công cộng
xóa bỏ cái riêng tư. Nhân dân chỉ còn sở hữu tập thể đối với tư liệu sản xuất,
ngay sức lao động và quyền bán sức lao động của mình cũng không còn, gia đình,
tín ngưỡng cũng mất tính độc lập. Xã hội dân sự nhường chỗ cho xã hội toàn trị.
Tất cả các hội đoàn đều do người của cấp ủy Đảng cử ra làm chủ tịch, thậm chí
cả Đoàn chủ tịch, Ban Thường vụ đều là đảng viên. Tất cả các hội đoàn lấy nghị
quyết của Đảng làm chuẩn để soạn thảo nghị quyết của mình. Nông dân đi khiếu
kiện không có thể dựa vào Hội nông dân; Công nhân đình công không thể yêu cầu
công đoàn lãnh đạo. Báo chí là tiếng nói của một hội đoàn nào đó, không phải
tiếng nói của một con người tự do.
Đổi mới kinh tế mở ra một nửa cánh cửa của xã hội
dân sự. Tuy nhiên các quyền tự do về tinh thần, tự do hội họp, lập hội, biểu
tình, tự do tư tưởng, ngôn luận, báo chí, tự do sáng tạo nghệ thuật… vẫn chưa
được thực hiện theo các giá trị phổ quát của nhân loại đã được ghi nhận trong
các Công ước của Liên Hiệp Quốc và đã được Nhà nước Việt Nam cam kết gia nhập.
Nhiều cán bộ cao cấp vẫn còn ngộ nhận: Cho rằng nước ta đã có hàng trăm hội
đoàn cớ sao cứ bảo chưa có tự do hội họp và lập hội? Đã có hơn 700 tờ báo, tỉnh
nào cũng có đài phát thanh, truyền hình cớ sao cứ kêu không có tự do báo chí,
tự do ngôn luận? Xin các vị đọc lại ý kiến của Nguyễn Ái Quốc về vấn đề này.
Trong “Bản yêu sách của nhân dân An Nam” do Nguyễn Ái Quốc gửi tới Hội nghị
Versaille tháng 1-1919 có 8 điều, điều 3 là: “Tự do báo chí và tự do ngôn
luận”; Điều 4 là “Tự do lập hội và hội họp”. Trong quyển “Đây công lý của thực dân
Pháp ở Đông Dương”, Nguyễn Ái Quốc viết những năm 1921-1926 có đoạn: “Mãi tới
bây giờ chưa có một người Việt Nam nào được phép xuất bản một tờ báo nào cả.
Tôi gọi tờ báo tức là một tờ báo về chính trị, về kinh tế, hay văn học như đã
thấy ở châu Âu và các nước châu Á khác, chứ không phải một tờ báo do chính
quyền lập ra” (Hồ Chủ tịch với báo chí, Hội nhà báo TP HCM, 1980, trang 9). Như
vậy, khi nói về các quyền tự do, Hồ Chí Minh cho rằng đó phải là tự do của mỗi
con người. Đến năm 1938, báo Dân chúng của Đảng cộng sản xuất bản không
xin phép và được nhà nước thực dân Pháp chấp nhận. Trong chế độ thuộc địa hà
khắc, xã hội dân sự Việt Nam vẫn len lỏi nảy nở. Từ năm 1920 đã có công hội của
Tôn Đức Thắng. Từ năm 1930 đã có các Đảng chính trị như Quốc dân Đảng, Đảng
cộng sản Việt Nam và các hội đoàn như Hội Ái hữu, Hướng đạo; từ năm 1934 có Tự
lực văn đoàn một hội đoàn hiện đại tạo ảnh hưởng rất lớn lao về văn học và xã
hội; 1937 có Hội truyền bá quốc ngữ… Trừ hai đảng chính trị, các hội đoàn đều
công khai hoạt động. Chẳng lẽ nhà nước Việt Nam cảnh giác đối với nhân dân đã
trải qua 68 năm làm cách mạng của mình hơn cả bọn thực dân Pháp! Chúng ta hãy
nhìn ra thế giới văn minh, nhìn gần hơn là các nước quanh vùng để thương cho
dân mình và mau chóng thực hiện các quyền tự do đã bị treo suốt 68 năm.
Xã hội dân sự bao trùm tất cả các mặt của đời sống
xã hội cho nên nó vô cùng quan trọng. Thời đại toàn cầu hóa cho thấy con đường
văn minh của nhân loại có những điểm chung giống nhau trong sự vận dụng các giá
trị phổ quát, hình thành mô hình xã hội tiến bộ, phát triển, gồm có “ bộ ba”
không thể thiếu một, đó là: xã hội dân sự, kinh tế thị trường và nhà nước pháp
quyền.
Tống
Văn Công
Ngày 30 -9-2013
Tác giả gởi cho viet-studies ngày 30-9-13
viện thẩm mỹ anh thư
ReplyDeletevien tham my anh thu
thẩm mỹ anh thư
tham my vien anh thu o dau
dieu khac chan may
dieu khac chan may dep
hoc dieu khac chan may
dạy điêu khắc chân mày
dieu khac chan may nam
khoa hoc dieu khac chan may