Giáo sư Hồ Tuấn Hùng là tác giả của cuốn "Sinh bình Khảo"
("Khảo cứu về Cuộc đời Hồ Chí Minh") được xuất bản vào năm 2008, vốn
đã tốt nghiệp khoa Lịch sử của Trường Đại Học Quốc Lập Đài Loan. Ông sinh năm
1949 (có tài liệu nói là sinh năm 1948), tại Miêu Lật, Đồng La, Đài Loan, và
từng dạy học hơn 30 năm, đồng thời còn là viên chức cao cấp Giáo Dục Hành
Chính. Ông ta đã bỏ ra nhiều năm nghiên cứu, đối chiếu nhiều tư liệu khác nhau
để hoàn thành tác phẩm mà ông ta đã từng ôm ấp từ lâu mà nó cũng là nguyện vọng
của gia tộc được trọng giao lại cho ông ta, nhất là lời trăn trối sau cùng của
người cha của ông ta.
Như Giáo sư Hồ Tuấn Hùng đã bày tỏ trong phần mở
đầu, nơi trang 11, như sau: "Nội dung cuốn sách nầy hoàn toàn bảo
đảm tính khách quan và tính hợp lý với mục đích chỉ để làm rõ một tiên đề giả
thiết Hồ Chí Minh và Nguyễn Ái Quốc không phải là một người." Rất
nhiều lần, từ phần "Thay lời tựa," suốt trong cuốn sách, đây đó, đến
phần cuối cùng, tác giả luôn luôn khẳng định là: "Hồ Chí Minh sau
năm 1933 chính là Hồ Tập Chương đến từ Miêu Lật, Đồng La, Đài Loan, tuyệt đối không
phải là Nguyễn Ái Quốc." Và cũng như thế, rất nhiều lần ông ta
hoàn toàn khẳng định là việc làm nầy của ông ta không phải vì mục đích tìm kiếm
danh lợi mà chỉ muốn trả sự thật về cho lịch sử mặc dù nếu xét ra Hồ Chí
Minh chính là bác ruột của Giáo sư Hồ Tuấn Hùng.
A.
Về thân thế Hồ Tập Chương:
Nơi trang 53, tác giả Hồ Tuấn Hùng cho biết về thân
thế của nhân vật Hồ Tập Chương như sau:
- Sinh năm 1901 (Minh Trị năm thứ 34).
- Cha là Hồ Dần Lượng vốn là tú tài (sinh
đồ), mở nhà dạy học kiêm nghề bốc thuốc chữa bệnh cứu người. Dân địa phương
phục tài xưng là "Thánh nhân" và mẹ là Lý Thị.
- Là người con thứ 7 trong số 10 anh chị em (người
anh thứ 3 tên là Hồ Tập Phỉ, người em út là Hồ Tập Dưỡng).
- Tốt nghiệp Đại học Công nghiệp số 1 Đài Bắc vào
năm 1921 trong thời Nhật chiếm đóng Đài Loan.
- Trong khoảng thời gian 1922--1928, ông ta trở về
vùng Miêu Lật và mở xưởng nấu rượu và tiệm thuốc Bắc cùng người anh trưởng.
- Kết hôn vào năm 1926 với người địa phương tên là Lâm
Quế.
- Có đứa con gái đầu lòng tên là Hồ Tố Mai
vào năm 1928 và đứa con trai trưởng là Hồ Thự Quang vào năm 1930 (tính
đến năm 2013 là 83 tuổi).
- Tham gia "Tổ chức Lao động Thái Bình
Dương" của Cộng sản Quốc tế với bí danh là Hồ Quang vào năm 1929.
- Bị bắt ở Quảng Châu vào năm 1931 và được giải cứu.
- Từ năm 1932--1933, ông ta đến vùng núi Quảng Tây
khai thác quặng mỏ và qua Xiêm La hoạt động và mất liên lạc với gia đình.
Và khoảng thời gian quan trọng là thời kỳ sau năm
1933 được tác giả cho biết như sau:
- Khoảng cuối năm 1938 (tháng 11 và 12) làm thông
dịch cho quân đội Nhật.
- Khoảng đầu năm 1939, gia nhập Bát lộ Quân và từ đó
không liên lạc gì với gia đình.
B.
Nhận định sơ lược:
Cùng một mục đích "trả lại sự thật cho lịch
sử," Ngô Trọc Lưu vốn là người từng được vinh danh là "Người
cha của nền văn nghệ Đài Loan" vào năm 1946 (theo trang p51) cho xuất bản
cuốn sách bằng tiếng Nhật với tựa đề "Hồ Chí Minh" được chuyển
qua Trung văn là "Đứa con côi châu Á," từng nói: "Cần
phải xem việc lẩn tránh sự thật chính là xuyên tạc lịch sử."
Nơi trang 51 cho biết thêm là "Trước đây, Ngô
Trọc Lưu và Hồ Tập Chương rất quen biết nhau, sau nầy ông cùng với em trai
Hồ Tập Chương là Hồ Tập Dưỡng, cháu rể Hồ Tập Chương là La Lộc Xuân có mối quan
hệ rất thân mật." Ông ta cũng thừa nhận là:
"Hồ
Chí Minh xuất thân là người thuộc sắc tộc Khách Gia (Hakka, người Việt gọi là
Hẹ) tại huyện Miêu Lật, địa khu Đồng La, Đài Loan" (trang 05).
Qua hàng loạt những sự kiện lịch sử liên quan đến
Nguyễn Ái Quốc, Hồ Chí Minh và Hồ Tập Chương, Giáo sư Hồ Tuấn Hùng đưa ra nhiều
bằng chứng và dẫn chứng hùng hồn cho kết quả thừa nhận của mình. Và qua đó, tập
thơ "Ngục trung Nhật Ký" ("Nhật ký trong Tù") vốn
gây nhiều tranh cãi về vấn đề ai là tác giả mà nhà cầm quyền Cộng sản Việt Nam
đã từng tung ra rất nhiều sách để ca tụng tác giả Hồ Chí Minh, được Giáo sư
chứng minh rất cụ thể qua từng ý nghĩa, cũng như nguồn gốc của chữ, cách chơi
chữ của một người lão luyện về Hán tự mà một Nguyễn Ái Quốc tức Nguyễn Tất
Thành không tài nào có thể có được một kiến thức sâu rộng về Trung văn đến như
thế vì không có đủ thời gian tu tập về chữ Hán trước đây hay nói đúng hơn là
trình độ Hán văn của Nguyễn Tất Thành chỉ là sơ cấp. Mặc dù sau nầy, Nguyễn Tất
Thành được Tăng Tuyết Minh, người vợ Quảng Châu đầu tiên của ông ta, dạy
thêm về tiếng Quảng nhưng đó cũng chỉ là văn nói hơn là văn viết.
Tiếng Tàu đơn âm cũng như tiếng Việt, nên học nói
rất dễ nhưng học viết lại là một vấn đề khác, mà học cách viết văn, thơ điêu
luyện lại càng rắc rối hơn. Cái cách điêu luyện đó, chỉ có những người bản xứ
mới hiểu thấu. Và đó là cách nhận định của Giáo sư với tư cách là người cùng
địa phương của tác giả "Ngục trung Nhật ký."
Trong khi đó, một Hồ Chí Minh sau năm 1933 đã cố
tình tung ra lai lịch "huyền thoại" hầu tự ca tụng và che lấp quá khứ
của chính mình trong cuốn sách đầu tay là "Những mẩu chuyện về đời
hoạt động của Hồ Chủ tịch" của tác giả Trần Dân Tiên (cũng
là Hồ Chí Minh) được xuất bản lần đầu tiên tại Trung Quốc năm 1948
và tại Paris năm 1949, và tiếp theo là một cuốn sách khác với nội dung và mục
đích như cuốn sách đầu tiên là cuốn "Vừa đi đường Vừa kể
chuyện" của tác giả T.Lan (cũng là Hồ Chí Minh) được
xuất bản lần đầu vào năm 1950 tại Trung Quốc và trên báo "Nhân
dân" của Hà Nội vào năm 1961.
Mặc dù trên khía cạnh chính trị, dường như tác giả
cũng có ít nhiều niềm tin vào những người Cộng sản, khi tin rằng Hồ Chí Minh có
khuynh hướng dân tộc hơn là Cộng sản và tin tưởng vào những gì mà Thủ tướng Võ
Văn Kiệt tuyên bố về vấn đề "hòa hợp hòa giải" mà không hề đá động gì
đến vấn đề cải tạo trừng phạt những quân nhân của Việt Nam Cộng hòa mà qua đó
chính là chủ ý của chế độ Cộng sản. Dường như đó là cách mà tác giả cố tình bảo
vệ, bào chữa cho Hồ Tập Chương (Hồ Chí Minh) là một người yêu dân tộc, không
hẳn là một tay mật vụ của Cộng sản Quốc tế sau nầy. Tác giả cũng quá ngây thơ
khi nghĩ rằng, một tay mật vụ Cộng sản Quốc tế khi muốn quay về với dân tộc thì
dễ dàng tuyên bố và thoát ra khỏi lưới mật vụ trừng phạt như trường hợp Hồ Chí
Minh, trong khi mạng tình báo Trung cộng lúc nào cũng cận kề trong và ngoài nội
bộ đảng Cộng sản Việt Nam.
C.
Nhận định chi tiết:
Nhằm bổ sung thêm tư liệu "Sinh bình Khảo"
của tác giả hầu làm sáng tỏ vấn đề ai là Nguyễn Ái Quốc, Hồ Tập Chương, và Hồ
Chí Minh; Qua những tài liệu dồi dào hôm nay, người ta có thể ngẫm nghĩ, tự
hỏi, và so sánh để tìm ra một lý lẽ thích hợp nhất. Mặc dù nhà cầm quyền Cộng
sản Việt Nam tìm mọi cách giấu kín sự thật đến khi họ khó lòng có thể chối bỏ
thì tìm cách bào chữa cho hành động của họ hoặc "im lặng" phớt lơ,
xem như việc đã rồi (đó là cách mà họ hay sử dụng nhất). Và không những thế, họ
xem đó là một thành công về tuyên truyền dù phải xem thường lịch sử, hay phải
sửa đổi, thậm chí nếu cần thì xóa bỏ luôn phần đó.
I.
Về thể hình:
Về vấn đề nhận diện thể chất của Nguyễn Ái Quốc và
Hồ Tập Chương, tác giả có nhắc đến vấn đề vành tai trái có vết sẹo của Hồ Tập
Chương mà người ta có thể dễ dàng nhận ra trong những bức hình của Hồ Chí Minh
sau nầy:
Hình 01
Hình 02
Hình 03
Hình
01: Nguyễn Ái Quốc vào năm 1919 (theo ghi chú dưới
hình).
Hình
02: Bức hình nầy theo Giáo sư Hồ Tuấn Hùng có nhiều
nghi ngờ. Quả thật, nếu so với hình số 1, nó rất thiếu tự nhiên như là cái đầu
được cắm vào (càm nhọn hơn, quay hàm chạy một đường thẳng --lộ hẳn bên ngoài
vành khăn, đôi chân mày được tô đậm hơn, hàm răng lộ ra, hai vành mũi nhỏ lại,
vần trán cũng bị thu hẹp)
Hình
03: Bức hình nầy theo Giáo sư chính là Hồ Tập Chương
lúc còn trẻ. Từ bức hình số 02, vốn bị sữa lại sao cho khuôn mặt ốm đi, qua
cách vẽ lại quay hàm, để sao cho có nét gần giống bức hình số 03 nầy. Tuy
nhiên, nếu nhìn vành tai trái sẽ thấy sự khác biệt: hình số 03 có trái tai to
hơn, và vành tai tròn, rộng hơn.
Hình 04
Hình 05
Hình 06
Hình
04: Nguyễn Ái Quốc tại Đại hội toàn quốc Đảng Xã hội
Pháp ở thành phố Tour, Pháp vào tháng 12/1920. Bức hình số 03, phần nhiều có
nét như bức hình số 05, được xem như là Nguyễn Ái Quốc
Hình
05: Nguyễn Ái Quốc là đại biểu Bán đảo Đông Dương tại
Đại hội Cộng sản Pháp ở Marseilles vào năm 1921
Hình
06: Dù được cho là hình của Nguyễn Ái Quốc vào năm
1921, nhưng xét ra không có nét của hai bức hình số 04 và 05 vì chân mày trái
cong gãy về phía cuối, trong khi bên phải nhô cao hơn (tương tự hình số 03).
Phần lớn có nét của hình số 01 là Hồ Tập Chương với cái miệng hơi nhọn nhưng
không rộng quá so với hình số 04 và 05.
Hình 07
Hình 08
Hình 09
Hình
07: (Sau đại hội ở Moscow, Nguyễn Ái Quốc (theo tác
giả nhìn nhận) vào năm 1925, lúc về Quảng Châu tham gia cách mạng Trung Quốc,
đồng thời lo xây dựng phong trào cách mạng Việt Nam). Tuy nhiên, nếu so sánh
với bức hình số 08, cho thấy phần lớn có nét giống nhau, nhưng bức hình nầy
dường như không có nét nào của người dân quê miền Bắc, vùng Nghệ Tỉnh. Dường
như đây lại là một bức hình được chỉnh sữa từ bức hình số 08.
Hình
08: (Nguyễn Ái Quốc??? trong thời gian bị tù ở Hương
Cảng được Luật sư Francis (Frank) Henry Loseby biện hộ và bảo vệ cho chuyến
trốn thoát đến Moscow vào khoảng năm 1932). Bức hình nầy có nét chân mày trái
cong gãy của bức hình số 06, và càm nhọn vì vậy khó chấp nhận là hình của
Nguyễn Ái Quốc mà là hình của Hồ Tập Chương cũng bị bắt trong khoảng thời gian
nầy.
Hình
09: (Nguyễn Ái Quốc vào năm 1930 trong nhà triển lãm ở
Việt Nam. Bức ảnh truyền thần của của Nguyễn Sinh Huy, thân phụ Nguyễn Ái
Quốc). Cái miệng rộng ngang và nhất là cái mũi hơi to mang nét đặc trưng của
người Nghệ Tỉnh hơn, cũng như chiếc càm khá rộng, có khả năng đúng là hình của
Nguyễn Ái Quốc đang mang bệnh lao nặng làm gầy ốm khuôn mặt nhiều trong khoảng
thời gian trước vào sau ngày lao tù.
Hình 08b
Hình 10
Hình 11
Hình
08b: Bức hình trong nghi vấn nầy lại có nhiều nét giống
với bức hình số 10 (tái xuất hiện trong một khoảng thời gian mất tích) và bức
hình số 11 (lúc nầy tự xưng là Hồ Chí Minh). Từ chân mày trái cong gãy đến vành
tai phải nhọn đầu trong khi vành tai phải cong tròn khác với bức hình số 09 ở
trên.
Hình
10: Ảnh Hồ Chí Minh năm 1934 tại Mạc Tư Khoa trong "Truyện
Hồ Chí Minh" của William J. Duiker. (Theo Giáo sư Hồ Tuấn Hùng, đây
là Hồ Tập Chương). Như vậy, chứng minh ngược lại là bức hình số 08 cũng là
Hồ Tập Chương.
Hình
11: Tấm ảnh Hồ Chí Minh nầy do Andred Roth chụp đăng
trong "Tân Việt Nam" vào năm 1946 tại Việt Bắc. Và từ đây trở
về sau, nhân vật chính trong đảng Cộng sản Việt Nam đã thay thế hoàn toàn một
Nguyễn Ái Quốc, là Hồ Tập Chương.
Hình 11b
Hình 12
Hình
11b: Bức hình Hồ Tập Chương (tức Hồ Chí Minh) nầy có
những nguồn tin khác cho là vào năm 1944 ở Việt Bắc (không phải là 1946).
Hình
12: Theo vi.wikipedia, bức hình Hồ Chí Minh nầy vào
năm 1946, sau khi cướp lấy chính quyền của Thủ tướng Trần Trọng Kim.
Hình 13
Hình 14
Hình
13: Bức hình Hồ Tập Chương vào năm 1954, trong thời kỳ
thảm sát đẫm máu nhất của công cuộc Cải cách Ruộng đất và bắt đầu cuộc ly hương
của những người dân miền Bắc vào Nam theo ký kết hiệp ước giữa hai miền.
Hình
14: Bức hình Hồ Tập Chương vào năm 1957, trong thời kỳ
chuẩn bị ráo riết những cuộc vận chuyển vũ khí do Liên Xô và Trung cộng cung
cấp bằng những con tàu "không số" do Trung cộng chế biến, và bằng
những đường rừng núi của "Đường mòn Hồ Chí Minh" để tiến hành cuộc
xâm lược miền Nam Việt Nam lâu dài qua chiêu bài "thống nhất đất
nước." Có lẽ, Hồ Tập Chương chỉ được huấn luyện để làm cách mạng Cộng sản
hơn là có sự hiểu biết về làm cách nào phát triển đất nước, nên con đường phải
đi là quyết chiếm cho bằng được miền Nam Việt Nam sau Hiệp định Phân chia
Genève 1954 để khỏa lấp nền kinh tế đang suy bại khủng khiếp sau công cuộc Cải
cách Ruộng đất.
Hình 15
Hình
15: (Ghi chú trong bức hình: "Chủ tịch Hồ Chí
Minh thăm viện "Cải lão hoàn đồng" ở Rumani, tháng 8/1957").
Đây là bằng chứng cho thấy Hồ Tập Chương thường đi ngoại quốc để sửa chữa da
mặt, tiêm thuốc căng da.
Hình 16
Hình 17
Hình
16 và 17: Trong cuộc phỏng vấn của một nữ phóng viên Pháp
với Hồ Chí Minh vào tháng 6/1964, hai hình ành 16 và 17 có nét rất nhiều của
một Hồ Tập Chương, đặc biệt là vành tai trái nhọn và vết cắt bên vành tai phải
trên cao --mà lúc trước mật vụ Pháp có thể lầm tưởng giữa giữa Hồ Tập Chương và
Nguyễn Ái Quốc vì lúc bắt Nguyễn Ái Quốc lại có giấy tờ của Hồ Tập Chương trong
phòng-- mặc dù gương mặt bấy giờ dường như được tiêm thêm thuốc căng da làm cho
no đầy hơn.
Hình 18
Hình 19
Hình 20
Hình
18: Bức hình tuyên truyền lãnh tụ Hồ Chí Minh vào
khoảng tháng 9/1963 được tô vẽ thêm từ tóc, chân mày, râu, màu sắc v.v. để trở
thành một nhãn hiệu cầu chứng cho đảng Cộng sản Việt Nam. (theo vi.wikipedia,
là do nhiếp ảnh gia Lục Văn Tuấn (陸文駿) của "Quảng Đông họa báo")
Hình
19: Bức hình Hồ Tập Chương vào năm 1966
Hình
20: Bức hình Hồ Tập Chương trong sân sau biệt thự Bắc
Bộ Phủ vào năm 1969
II.
Về bút tích:
Điều trước tiên phải nhắc đến là lá thư xin được học
trường Pháp vào năm 1911 của Nguyễn Ái Quốc trong thời gian theo con tàu buôn Amiral
Latouche-Tréville của Pháp làm việc lặt vặt trên đó để được ra nước ngoài.
Hình 01
ttp:https://blogger.googleusercontent.com/img/b/R29vZ2xl/AVvXsEgpnX2NkTkpfunMLDwVnjm55rfdOHCOtPEx5lAJ5k0gtEUq_IwMgbB4FKRjS-v45YKEA08pQoXxkahjGyvi3ziBPSdfI0Z175-WofN-13VVFZ-8gO4PVW9_bSRdifzY2nGCjOrhXdUj-dbU/s640/HCM-buttich1.png
Hình
01: Cho thấy nét chữ rất cứng và đều đặn, cũng như
những chữ nét chữ hoa đầu câu chứng tỏ là một người tài hoa --mặc dù vẫn bị lỗi
đôi chút về ngữ Pháp và văn phạm. Vấn đề đặt ra là đó có phải là nét chữ thực
sự của Nguyễn Ái Quốc hay anh ta nhờ một ai đó có trình độ hơn trên tàu, viết
dùm lá thư? Vì nên nhớ rằng, Nguyễn Tất Thành (tức là Nguyễn Ái Quốc sau nầy)
trải qua không nhiều thời gian để làm quen, nắn nót những mẫu tự La-tinh mà từ
lúc bắt đầu đi học là tiếng Hán từ năm 9 tuổi đến 14 tuổi dù chỉ là trong giai
đoạn sơ cấp dù có được kèm thêm một ít tiếng Pháp trong những năm về sau trước
khi chính thức được xin vào trường Quốc tự Giám, Huế, nhờ danh vị đỗ đạt của
người cha, Nguyễn Sinh Sắc, nhưng Nguyễn Tất Thành chưa hẳn là một học sinh
thực thụ vì chưa đủ trình độ Pháp ngữ.
Điều đáng chú ý nữa là chữ "Nguyễn"
lại viết là "Nguyển" và chữ "quốc ngữ"
viết là "quấc ngử"
Hình 02
Hình
02: Đây là bút tích của một thành viên Nguyễn Ái Quốc
khác trong nhóm 5 người. Có người cho rằng, có thể là bút tích của Nguyễn An
Ninh, người anh đỡ đầu của Nguyễn Tất Thành khi vừa đặt chân lên đất Pháp, cũng
là người bị Cộng sản sát hại khi trở về Việt Nam sau nầy. Nhưng xét ra, trong
nhóm chỉ có 2 người chưa làm quen nhiều với mẫu tự La-tinh là cụ Phan Chu Trinh
và Nguyễn Tất Thành. Trong lối hành văn xưa, kiến thức về tình hình chính trị,
và chữ "Nguyễn Ái Quấc" có thể là bút tích của cụ Phan nhiều
hơn (ngày xưa chữ "quấc" dùng cho chữ "quốc" như chữ "quấc
hồn" trong bài trên. Mặc dù nét chữ rất yếu, nhưng không sai chính tả
của tiếng Việt.
Hình 03
Hình 04
Hình 01b
Hình
03: Bức thư ngắn vốn được gởi cho một người bạn nào đó
trong nước Pháp - ám chỉ bằng chữ "đồng bào" - nhằm cảm ơn cho việc
nhận được bộ sách Tây Du Ký vào năm 1922, chưa hẳn có khả năng là bút tích của
Nguyễn Tất Thành vì chữ ký rất khác và có vẻ được dùng thường xuyên qua nét
cong tự nhiên.
Hình
04: Có nhiều khả năng chính là bút tích của Nguyễn Tất
Thành vào năm 1923 dưới bí danh là Nguyễn Ái Quốc, gởi thư đi để thanh toàn
tiền ai đó đặt mua báo "Người cùng Khổ" ("Le
Paria") mà anh ta đang hoạt động trong ban biên tập. Điều đáng chú ý
là mẫu tự "d" (như trong chữ "du" tiếng Pháp) được viết
theo kiểu Tây phương hơn là cách viết bình thường mà trong bức thư xin đi học
không có dùng, và cách viết chữ hoa cũng khác biệt.
Hình 05
Hình 06
Hình
05: Bức thư kêu gọi toàn quốc kháng chiến của Hồ Chí
Minh vào năm 1946, cho thấy cách viết rất khác biệt cũng như cách dùng chữ Việt
rất lạ như chữ "gi" hoặc "d" viết là "z" (thí dụ:
"giờ" viết là "zờ"; "dân" viết là
"zân"), chữ "ph" viết là "f" (thí dụ:
"phải" viết là "fải") và đây đó có khá nhiều lỗi chính tả
của tiếng Việt như thể là do một người không thuần túy là gốc Việt. Từ đó có
thể hiểu, chính là bút tích của Hồ Tập Chương, một người quen dùng Hán tự, cũng
như cách cầm bút khác biệt hơn khi dùng mẫu tự La-tinh nên nét viết yếu hơn
nhiều như trường hợp của cụ Phan.
Hình
06: Bức thư ngắn nầy lại có nét viết cứng hơn nhiều,
khác xa hình 05, vào năm 1948. Chữ ký cũng khác dù chỉ cách khoảng 2 năm. Mặc
dù vẫn dùng cách viết lạ của hình 05 ("gi" viết là "z,"
v.v.), một vài nét khác biệt rõ hơn (như mẫu tự "v). Điều đáng chú ý là
nét cuối của mẫu tự thường được kéo dài lên cao (như mẫu tự "n,"
"m" v.v.) mà trong hình 05 không có. Cho thấy là không phải cùng một
người viết ra.
Hình 07
Hình 08
Hình
07: Bút tích nầy được cho là của Hồ Chí Minh ghi lại
cảm tưởng trong sổ vàng ở điện Kremli trong chuyến thăm Liên Xô vào năm 1955.
Cho thấy có nhiều nét gần gũi với hình 05 và 08 hơn là hình 06. Không có những
nét cuối đẩy lên cao. Trong phong cách là chủ tịch một nước ghi lại trong sổ
vàng nước ngoài thì không bao giờ có chuyện cố tình viết dối (như trường hợp
trong hình 05 hoặc 08) để bào chữa cho nét chữ yếu kém, thiếu đều đặn của mình.
Điều nầy càng chứng tỏ rằng vì người viết không thuần là người Việt vốn quen sử
dụng chữ Việt Nam. Có nghĩa là Hồ Chí Minh chính là Hồ Tập Chương.
Hình
08: Bức thư nầy vào năm 1964 là một chứng minh khác về
thân thế Hồ Chí Minh khi nó được viết để cảm ơn kiều bào Lê Đình Cao trước khi
trở về miền Bắc đã gởi đi 92 chiếc xe đạp để biếu nhà cầm quyền, cũng như chi
phí để xây ngôi trường 4 lớp học.
Hình 09
Hình 10
Hình
09: Bút tích bằng Hán tự của Hồ Chí Minh có vẻ điêu
luyện nhiều hơn so với bút tích Việt ngữ
Hình
10: Ngay cả khi đọc sách, Hồ Chí Minh cũng dùng Hán tự
để ghi chú. Điều nầy có thể hiểu qua cách cầm bút "trên cao" để dễ
dàng vẽ nét Hán tự hơn là dùng để gò nét viết tiếng Việt.
C.
Về câu hát Trung Quốc:
Trong khoảng thời gian trở bệnh của Hồ Chí Minh vào
năm 1969, một phần nào do ảnh hưởng của cuộc Tổng tấn công Tết Mậu Thân 1968 bị
thiệt hại nhiều về quân số và vũ khí nhưng hoàn toàn thất bại nặng nề, sau nhiều
lần qua Trung cộng để chạy chữa vẫn không bình phục. Phái đoàn Bác sĩ của Trung
cộng được cử qua Hà Nội để giúp đỡ, nhưng đến sáng ngày 2/9/1969, Hồ Chí Minh
trút hơi thở cuối cùng.
Theo bài viết "Ba
lần Bác cười Trước lúc Đi xa" được đăng trên trang mạng
qdnd.vn của nhà nước vào ngày 25/01/2010, do Nguyễn Hòa dịch lại từ bài viết
của Vương Tinh Minh, là y tá trưởng Bệnh viện Bắc Kinh, thành viên Tổ bác
sĩ Trung Quốc sang Việt Nam chữa bệnh cho Bác Hồ, vào tháng 8/1969,
trong đó có đoạn:
"Chiều hôm đó sức khỏe của Bác đã có chuyển
biến tốt lên một chút, Bác nói muốn nghe một câu hát Trung Quốc. Các
đồng chí đề nghị tôi hát. Tôi nói thật là hát cũng không tốt lắm, nhưng để vui
lòng Bác, vì tình hữu nghị Trung-Việt, tôi đã hát một bài hát mà nhiều người
thuộc và hát được, bài hát có nội dung chính là ra khơi xa phải vững tay
chèo."
Tại sao Hồ Chí Minh là người Việt Nam lại muốn nghe
"một câu hát Trung Quốc"? Điều nầy càng chứng tỏ rằng Hồ Chí Minh
thực chất hoàn toàn không phải là người có gốc Việt dù đã ở miền Bắc Việt Nam
hoạt động rất lâu. Chỉ được giải thích một cách thỏa đáng trừ khi Hồ Chí Minh
chính là Hồ Tập Chương.
Trong khi đó, nhà cầm quyền Cộng sản Việt Nam, một
lần nữa, ra sức tuyên truyền, thêu dệt thêm câu chuyện tưởng tượng để gây xúc
động những người dễ tin, những người từng được nhồi sọ về tư tưởng tôn sùng
tuyệt đối nhằm khỏa lấp tất cả sự thật trước mắt, hiển hiện trước họ. Một thí
dụ điển hình là bài viết "Tình
yêu Bác Hồ dành cho những Khúc dân Ca" trên trang mạng
lamdong.gov của Phạm Huỳnh Hoa (tự xưng là người sưu tầm, nhưng không biết ai
là tác giả) kể lại một câu chuyện "xạo," không đúng như Vương Tinh
Minh thuật lại. Và đồng hợp ca tuyên truyền "xạo" thêm là bài hát "Lời
Bác dặn Trước lúc Đi xa" của Trần Hoàn bắt đầu bằng câu: "Chuyện
kể rằng trước lúc Người ra đi. Bác muốn nghe một câu hò xứ Huế"
nhưng không có ai quanh đó, nên "Bác muốn nghe một câu hò xứ Nghệ"
mãi đến lần thứ ba "Ôi may sao, bỗng có em gái nhỏ, bước vào gần
Bác." Chính bài hát nầy dựa trên là nội dung tuyên truyền
"xạo" của bài viết nói trên trong mục đích tiếp tục đánh lừa công
chúng Việt Nam cho đến nay.
Cũng như ngày Hồ Chí Minh (Hồ Tập Chương) mất cũng
từng được nhà cầm quyền Cộng sản miền Bắc lúc bấy giờ tuyên bố trước thế giới
là ngày 3/09/1969 thay vì là ngày 2/09. Một thí dụ điển hình là trên trang mạng
biography.com trong phần "Ho Chi-Minh"
vẫn còn bị lầm lẫn khi ghi nhận ngày mất của ông ta là 3/09/1969: "He
declared Vietnam’s independence in 1945 and became the first president of the
republic in 1954. He died on September 3, 1969, in Hanoi, Vietnam."
[Ông ta tuyên bố nền độc lập của Việt Nam vào năm 1945 và trở thành vị Chủ
tịch đầu tiên của nền Cộng hòa vào năm 1954. Ông ta mất vào ngày 3 tháng
Chín năm 1969, ở Hà Nội, Việt Nam.]
Và nơi trang 171, về "Di chúc" của
Hồ Chí Minh có đoạn: "... phòng khi tôi sẽ đi gặp cụ Các Mác, cụ
Lênin và các vị cách mạng đàn anh khác..." Có phải chăng câu
"các vị cách mạng đàn anh khác" là ẩn ý của Hồ Tập Chương muốn trở về
cùng với mẫu quốc, Chủ tịch Mao, của ông ta? Mà đáng lý ra, một Hồ Chí Minh gốc
Việt sẽ không nghĩ như thế, vì ông ta dù sao cũng không thể nào không biết đến
tổ tiên, dòng họ của mình, là điều tối thiểu, hoặc dòng giống Việt Nam. Dù mang
nặng tinh thần Cộng sản Quốc tế đến như thế nào, Hồ Tập Chương vẫn yêu mến dân
tộc của riêng mình hơn. Đó là điều hiển nhiên mà một Hồ Chí Minh, hay bất kỳ
nhân vật Cộng sản nào cũng thừa biết rằng không ai không yêu dân tộc mình
hơn bằng chính giống nòi mình. Vì đó là cứu cánh của cuộc sống mình mà
trong đó chứa đầy những thâm tình, thân thuộc.
D.
Thay lời kết:
Người ta thường nghĩ rằng chỉ có người ngoại tộc mới
ra tay tàn ác với người bản xứ. Điều nầy quả không sai. Và càng đúng hơn khi ý
niệm đó được thúc đẩy mạnh bạo hơn bởi chủ thuyết Cộng sản: phân biệt giai cấp.
Và mục đích phân biệt giai cấp là nhằm tiêu diệt hoàn toàn giai cấp có kiến
thức nhưng bất phục Cộng sản. Mặc dù những người Cộng sản luôn hô hào thế giới
đại đồng vô sản, vô giai cấp, nhưng ngược lại, họ luôn luôn gây sự phân biệt
giai cấp tiềm tàn trong mọi lãnh vực nhằm mục đích thao túng quyền lực độc tài
nắm giữ được tất cả mọi người.
Điều nầy được chứng minh qua nhân vật Hồ Chí Minh,
một Hồ Tập Chương luôn đặt vấn đề dân tộc của riêng mình trên hết nên ông ta
dấn thân mình thực hiện cho bằng được mục đích lợi ích lâu dài cho riêng dân
tộc mình là Trung Quốc, mặc dù ông ta là người Đài Loan nhưng vẫn hướng lòng về
một Trung Quốc Cộng sản hơn. Ông ta không những thảm sát không nương tay những
người đồng chí thân thiết của Hồ Chủ tịch trong công cuộc Cải cách Ruộng đất,
kéo dài chiến tranh Bắc-Nam Việt Nam mà không cần thương tiếc sinh linh. Tất cả
không ngoài mục đích cuối cùng là dâng lên mẫu quốc một nước An Nam thuần phục
và cũng là một nước có nhiều đại thù trong lịch sử với Trung quốc.
Hồ Tập Chương đã thực sự thành công trọn vẹn vai trò
được giao phó bởi Trung cộng. Ông ta đáng là một vị anh hùng, chỉ đứng sau họ
Mao, trong phần ghi công vinh danh. Và có lẽ, đã đến lúc Trung cộng cần phải
tuyên bố công trạng của Hồ Chí Minh và cũng không nhất thiết trả về sự thật của
lịch sử. Vì lịch sử có được chính là do mỗi người dân đương thời góp phần tạo
nên trong cuộc sống hàng ngày dù là vô tình hay hữu ý. Những kẻ hèn nhát không
dám nhìn sâu vào gương lịch sử là những kẻ luôn chối biến vai trò của mình để
đùn lại cho kẻ khác, luôn luôn nói rằng: "Hãy để cho lịch sử phán xét.
Việc nầy chẳng dính dáng đến tôi." Đây chính là một thái độ của kẻ
"thất phu" dù là người có văn hóa cao. Vì theo như câu nói đó, vậy
cái gì là lịch sử? Lịch sử dân tộc được tạo nên từ hòn đá, cây cỏ? Và hôm nay,
người đang sống trong xã hội, sẽ không trở thành lịch sử? Lịch sử là một cái gì
quái dị, cấm kỵ trong chế độ Cộng sản đến nỗi người đương thời nghe nói đến là
phải chối bỏ ngay mình đang là một thành phần cũng tạo nên nó? Nói như trên, có
nghĩa là tổ tiên của anh ta không có mặt trong lịch sử, và hôm nay anh ta cũng
muốn biến mất luôn khỏi nó sau nầy!
Cũng như nơi trang 181, tác giả ghi lại lời nói của
một du học sinh Việt Nam có trình độ đại học ở Đài Loan khi được hỏi cảm nghĩ
thế nào về tin tức Hồ Chí Minh chính là Hồ Tập Chương: "... Còn
chuyện Hồ Chí Minh là người Trung Quốc hay Đài Loan hãy để cho lịch sử phán
xét. Đối với tuổi trẻ chúng tôi việc nầy không phải là quan trọng. Mong muốn
của chúng tôi là đất nước phát triển, tiền đồ tươi sáng trong tương lai."
Anh chàng đó chỉ thấy cái "tiền đồ" mà không nghĩ rằng cài "tiền
đồ" tự nó cũng sẽ trở thành "lịch sử." Anh ta không dám nhìn
nhận lịch sử giống như một người xây nhà không dám nện mạnh cho nền đất cứng
hơn vì e ngại khoảnh đất đó sẽ bị lún xuống. Nhưng sau khi xây dựng căn nhà
trên nền đất "mềm" đó, anh ta có bảo đảm được cái "tiền đồ"
tươi sáng nào đó không? Hay bất chợt, nó sẽ chôn vùi chính anh ta trong lúc còn
"mê ngủ" theo cái "tiền đồ" hắc ám đó. Hay nên nói thẳng
hơn là anh ta cố gắng học để mong chiếm lấy một địa vị nào đó trong xã hội vì
cái "tiền đồ tươi sáng của chính mình" hơn là mượn câu
nói thuộc lòng là "xây dựng đất nước" mà chẳng cần biết nền móng vững
chắc hay không. Anh ta chính là một kẻ thời cơ mà thời đại nào cũng không
thiếu!
Cuối cùng, xin mượn câu viết của tác giả Hồ Tuấn
Hùng để đúc kết: "Bỏ đi những phán xét của công chúng về ảnh hưởng
của Hồ Chí Minh với nhân dân Việt Nam mới chính là cố chấp, làm tổn hại đến
danh dự dân tộc và sự tôn nghiêm của ông ta."
No comments:
Post a Comment