Thanh Phương – RFI
Thứ bảy 17 Tháng
Mười Một 2012
Sau bản « Nhận định về một số tình hình Việt Nam hiện nay » công bố tháng 5/2012, Uỷ ban Công lý và Hòa bình, thuộc Hội đồng Giám mục Việt Nam, vào đầu tháng này vừa công bố « Phúc trình về tình hình công lý, hòa bình và nhân quyền trong xã hội Việt Nam ». Phúc trình đề ngày 01/11/2012, gởi Hội đồng Giám mục Việt Nam, đưa ra những chỉ trích nặng nề hơn, đặc biệt là về tình trạng nhân quyền.
Vấn đề đầu tiên mà bản phúc trình nêu lên là những vụ xử án bất công, điển hình mới nhất là vụ xử phúc thẩm ba
thanh niên Công Giáo tại Vinh
Chu Mạnh Sơn, Trần Hữu Đức và Đậu Văn Dương ngày 29/09/2012 và vụ xử các blogger Điếu Cày, Anhbasaigon và Tạ Phong Tần ngày 24/09, tại Sài Gòn, với các bản án mà Uỷ ban Công lý và Hòa bình xem là « vô lý và đầy bất công ». Bản phúc trình ghi nhận : « Để che đậy nó, người ta đã cho mở phiên tòa xét xử công khai, nhưng lại không cho dân chúng tự do tham dự và ngay cả thân nhân của các bị cáo cũng bị ngăn chặn khi đến tòa án, thậm chí có những người còn bị tạm giữ hay bị khủng bố tinh thần ».
Trong bản phúc trình, Uỷ ban Công lý và Hòa bình cũng chỉ trích việc chính quyền chụp mũ những người tham gia các vụ khiếu kiện đông người về đất đai là « bị kích động của thế lực thù địch ». Bản phúc trình còn lên án án tình trạng dùng bạo lực để giải quyết các tranh chấp dân sự, cụ thể là việc sử dụng « côn đồ » để đàn áp các cá nhân lẫn các đám đông, từ đám tang riêng lẻ, đến các vụ khiếu kiện tập thể hay biểu tình.
Uỷ ban Công lý và Hòa bình đặc biệt lo ngại trước một thực tế là, trong khi chủ quyền đất nước đang bị đe dọa, phản ứng của chính quyền Việt Nam lại « quá yếu ớt, tạo cớ cho các lực lượng thù nghịch lấn tới ». Bản phúc trình viết : « Khó hiểu hơn nữa là việc chính quyền đã mạnh tay đàn áp các tổ chức và các cá nhân yêu nước phản đối hành động xâm lược trắng trợn của Trung Quốc. Thái độ lập lờ, thiếu nhất quán của các nhà lãnh đạo trong vấn đề phân định lãnh thổ vùng biên giới và bảo vệ chủ quyền ở Biển Đông đang gây bất bình trong dư luận. »
Bản phúc trình của Uỷ ban Công lý và Hòa bình được công bố chỉ vài ngày sau khi chính quyền kết án tù nặng nề hai nhạc sĩ Việt Khang và Trần Vũ Anh Bình, tác giả của những bài hát cổ vũ lòng yêu nước, phản đối những hành động xâm lấn của Trung Quốc ở Biển Đông. Đến đầu tháng 11, chính quyền Việt Nam thông báo khởi tố một sinh viên yêu nước, cô Nguyễn Phương Uyên, với tội danh « tuyên truyền chống Nhà nước ». Đức cha Nguyễn Thái Hợp, chủ tịch Uỷ ban Công lý và Hòa bình, cũng là một trong
những người đầu tiên ký kiến nghị gởi chủ tịch nước Trương Tấn Sang, yêu cầu trả tự do cho Phương Uyên.
Trong bản phúc trình, Uỷ ban Công lý và Hòa bình còn chỉ trích những vi phạm quyền tự do ngôn luận, tự do báo chí ở Việt Nam ở Việt Nam, cụ thể qua việc kiểm soát, cấm đoán, phá hoại các trang web, trang blog, nhất là việc bắt bớ, kết án các blogger.
Về tự do tôn giáo, bản phúc trình ghi nhận : « Mặc dù hiến pháp, luật, pháp lệnh, nghị định và thông tư đã quy định về tự do tôn giáo, tự do tín ngưỡng, nhưng việc thực hiện các quy định trên tại nhiều địa phương lại rất tùy tiện. Chính vì vậy, ở một số nơi, việc cử hành các lễ nghi tôn giáo và thiết lập các điểm sinh hoạt tôn giáo ngoài cơ sở thờ tự rất nhiêu khê và tùy thuộc nhiều vào cảm tính của giới chức chính quyền địa phương. »
Điểm bao trùm lên xã hội Việt Nam hiện nay, theo Uỷ ban Công lý và hòa bình, đó là phẩm giá con người bị chà đạp và xúc phạm nặng nề. Bản phúc trình viết : « Trong xã hội Việt Nam hôm nay, con người dễ bị tha hóa trở thành công cụ, hay bị coi là công cụ để phục vụ các mục tiêu chính trị, kinh tế hơn là một nhân vị, chủ thể của các thực tại xã hội ». Lý do, theo Uỷ ban Công lý và Hòa bình, đó là nền giáo dục Việt Nam hiện nay « không những lạc hậu, mà còn lạc hướng, chạy theo hình thức và phô trương thành tích nhằm tạo ra những con người chỉ có khả năng phục vụ cho những mục tiêu chính trị chứ không nhằm đào tạo con người có nhân cách, phát triển tâm và trí toàn diện. »
-------------------------------
PHỤ LỤC
:
Hội Đồng Giám Mục
Việt Nam – Ủy Ban Công Lý và Hòa
Bình
Posted
by jpham on Tháng 11 5th, 2012
Kính Gửi:
Đức Cha Chủ tịch HĐGMVN
Đức Hồng Y và quý Đức Cha
Để đáp ứng lời mời gọi của Thư Mục Vụ Năm Đức Tin, Ủy Ban
Công lý và Hòa bình xin phúc trình cùng Đức Hồng Y và quí Đức Cha một số tình
hình xã hội Việt Nam hiện nay đang được dư luận quan tâm. Xin giản lược vào mấy
nét tiêu biểu dưới đây:
1. Án xử bất công
Trong bản Nhận Định công bố ngày 15/05/2012, Ủy Ban
CL&HB đã nhận xét: “Việc áp dụng luật pháp chưa nghiêm minh và tùy tiện (…)
đã dẫn đến những oan sai và đôi khi đẩy người dân đến bước đường cùng. Bộ luật
tố tụng hình sự đã quy định các thủ tục bắt người; vậy mà trong một số trường
hợp, vẫn có các công dân bị bắt sai trái với các quy định của bộ luật ấy, cũng
như với các tuyên ngôn và công ước quốc tế mà Việt Nam đã tham gia.”
Tình hình đó chưa thay đổi, thậm chí còn diễn ra xấu hơn.
Điển hình là vụ xét xử ba thanh niên Công Giáo tại Vinh ngày 29/09/2012 và vụ
xử các Bloggers ngày 24/9, tại TP. HCM với các bản án vô lý và đầy bất công. Để
che đậy nó, người ta đã cho mở phiên tòa xét xử công khai, nhưng lại không cho
dân chúng tự do tham dự và ngay cả thân nhân của các bị cáo cũng bị ngăn chặn
khi đến tòa án, thậm chí có những người còn bị tạm giữ hay bị khủng bố tinh
thần.
Bên cạnh đó, những vụ khiếu kiện đông người về đất đai
ngày càng gia tăng hoặc kéo dài. Điều đó chứng tỏ cách giải quyết của chính
quyền các cấp không thỏa đáng, có thể vì thiếu thiện chí giải quyết vấn đề đúng
pháp luật và lẽ phải hay vì bênh vực quyền lợi của các nhà đầu tư và các nhóm
đặc quyền. Để biện minh cho cách giải quyết này người ta thường chụp lên đầu
những người phản kháng cái mũ “bị kích động của thế lực thù địch”.
2. Dùng bạo lực để giải quyết các tranh chấp dân sự
Bạo lực ở đây là việc sử dụng “côn đồ” chứ không chỉ các
biện pháp nghiệp vụ của cơ quan công an để vãn hồi trật tự. Biện pháp này được
dùng ngày càng nhiều, để đàn áp các cá nhân lẫn các đám đông, từ đám tang riêng
lẻ đến các vụ khiếu kiện tập thể hay biểu tình. Điều đó đang làm cho bạo lực
ngự trị trong đời sống xã hội khi giải quyết tranh chấp.
3. Tham nhũng thành quốc nạn
Những diễn biến và xáo trộn trong mấy tháng vừa qua chứng
tỏ mô hình kinh tế hiện tại đang làm giàu cho nhóm đặc quyền đặc lợi, đặc biệt
là giới ngân hàng, hơn là cho toàn dân. Lạm phát gia tăng cũng làm tăng đói
nghèo, không những gây khó khăn hơn cho cuộc sống của người dân, mà cho cả các
doanh nghiệp. Từ đầu năm đến nay hơn 40.000 doanh nghiệp phải giải thể.
Việt Nam hiện nằm trong nhóm các quốc gia thiếu minh bạch
nhất thế giới. Tham nhũng đã trở thành quốc nạn, mà nguyên nhân chủ yếu là do
cơ chế điều hành, lãnh đạo. Chính vì vậy, không những nó nguy hiểm cho tiền đồ
đất nước mà hầu như bất khả loại trừ trong bối cảnh kinh tế – chính trị hiện
nay.
4. Chủ quyền đất nước
Khi ý thức rằng: “Việc chung sống giữa các dân tộc được
xây dựng trên các giá trị từng làm nền tảng để kiến tạo các mối quan hệ giữa
người với người: đó là sự thật, công lý, liên đới tích cực và tự do” (TLGHXHCG
số 433) thì chúng ta thấy hiện nay nền tự do, độc lập, chủ quyền quốc gia của
Việt Nam đang bị đe dọa nặng nề bởi sự gây hấn và xâm lược của láng giềng Trung
Quốc. Người dân không được biết sự thật về những “thỏa hiệp” hay “thỏa ước”
giữa chính quyền hai nước, nhưng lại phải gánh chịu nhiều hậu quả tai hại do
“mối giao hảo” ấy gây nên cả về chính trị lẫn kinh tế.
Trong bản Nhận định về một số tình hình hiện nay của Việt
Nam, Ủy Ban CLHB đã nhấn mạnh: “Vào những thập niên cuối cùng của thế kỷ XX,
Biển Đông đã một vài lần nổi sóng. Nhưng trong những năm gần đây, sự căng thẳng
đã lên đến mức độ nguy hiểm. Nhà cầm quyền Trung Quốc một mặt dùng lời lẽ hoa
mỹ, với thông điệp rất êm tai, nhưng mặt khác, các hành động của họ về chủ
quyền trên Biển Đông ngày càng phản ánh rõ rệt chủ trương Đại Hán.
Trong khi đó phản ứng của Nhà cầm quyền Việt Nam quá yếu
ớt, tạo cớ cho các lực lượng thù nghịch lấn tới. Khó hiểu hơn nữa là việc chính
quyền đã mạnh tay đàn áp các tổ chức và các cá nhân yêu nước phản đối hành động
xâm lược trắng trợn của Trung Quốc. Thái độ lập lờ, thiếu nhất quán của các nhà
lãnh đạo trong vấn đề phân định lãnh thổ vùng biên giới và bảo vệ chủ quyền ở
Biển Đông đang gây bất bình trong dư luận.”
5. Phẩm giá con người
Phẩm giá con người bị chà đạp và xúc phạm nặng nề. Nạn
buôn người và buôn bán phụ nữ chuyển từ tình trạng lén lút sang công khai, núp
dưới hình thức “hợp tác lao động”, “môi giới kết hôn với người ngoại kiều” qua
trung gian các công ty có giấy phép kinh doanh. Đây là loại hình tội phạm đáng
lo ngại với các thủ đoạn tinh vi, xảo quyệt, hoạt động xuyên quốc gia, siêu lợi
nhuận, ngày càng gia tăng và thêm phức tạp.
Hiện tượng ấy dường như là hậu quả của một điều đã diễn
ra từ lâu và rất đáng lo ngại. Trong xã hội Việt Nam hôm nay, con người dễ bị
tha hóa trở thành công cụ, hay bị coi là công cụ để phục vụ các mục tiêu chính
trị, kinh tế hơn là một nhân vị, chủ thể của các thực tại xã hội. Lý do có thể
giải thích là vì nền giáo dục Việt Nam hiện nay không những lạc hậu, mà còn lạc
hướng, chạy theo hình thức và phô trương thành tích nhằm tạo ra những con người
chỉ có khả năng phục vụ cho những mục tiêu chính trị chứ không nhằm đào tạo con
người có nhân cách, phát triển tâm và trí toàn diện. Nói cách khác, hệ thống
giáo dục đang đào tạo con người công cụ hơn là con người nhân vị có tự do, có
khả năng chịu trách nhiệm và sáng tạo.
6. Tự do Ngôn luận
Theo luật lệ Việt Nam hiện hành, truyền thông triệt để
trực thuộc Nhà nước. Vì vậy, mặc dù cả nước có hơn 700 cơ quan báo chí và hầu
như tỉnh nào cũng có truyền thanh và truyền hình, nhưng tất cả bị kiểm duyệt và
kiểm soát gắt gao. Trước mắt, xã hội dân sự chưa được xuất hiện và chưa thực sự
góp phần năng động cho truyền thông.
Cuộc cách mạng thông tin đã bùng nổ qua các trang web và
các blog cá nhân. Đây là một hình thức thông tin mới, tức thời, hấp dẫn, năng
động, đa diện, vừa bằng chữ viết, vừa kèm theo hình ảnh hay minh họa. Với
webblog các nhân, người đưa tin chia sẻ và nối kết với nhau thành mạng xã hội,
giải phóng sự thật khỏi những rào cản và quyền lực truyền thống, cũng như thách
thức ngay cả các tập đoàn truyền thông vốn áp đặt thông tin ở quy mô quốc gia
hay toàn cầu. Tất nhiên cái gì cũng có mặt trái của nó, cần phải được hướng dẫn
và điều chỉnh các lạm dụng, sai trái. Tuy nhiên, các biện pháp kiểm soát, cấm
đoán, phá hoại các trang web, các blog cá nhân, nhất là việc bắt bớ, kết án các
Bloggers đã đi tới tình trạnh vi phạm nhân quyền nặng nề. Vụ án các Bloggers
thuộc câu lạc bộ các nhà báo tự do đã bị xét xử vừa qua là ví dụ cụ thể cho
tình trạng vi phạm quyền tự do ngôn luận, tự do báo chí.
7. Tự do tôn giáo
Mặc dù hiến pháp, luật, pháp lệnh, nghị định và thông tư
đã quy định về tự do tôn giáo, tự do tín ngưỡng, nhưng việc thực hiện các quy
định trên tại nhiều địa phương lại rất tùy tiện. Chính vì vậy, ở một số nơi,
việc cử hành các lễ nghi tôn giáo và thiết lập các điểm sinh hoạt tôn giáo
ngoài cơ sở thờ tự rất nhiêu khê và tùy thuộc nhiều vào cảm tính của giới chức
chính quyền địa phương. Đặc biêt, do lịch sử, có những “Xã” hay “Huyện anh
hùng” mà ở đó có tiêu chí “vùng trắng tôn giáo”, thì việc cố gắng phục hồi các
nhà nguyện và tổ chức các buổi cầu nguyện của các giáo hội địa phương gặp rất
nhiều khó khăn. Tình trạng này, tùy lúc, đã và đang diễn ra tại một số giáo
phận như Kontum, Hưng Hóa, Ban Mê Thuột, Vinh…
Kính thưa Đức Hồng y, quí Đức Cha,
Khi gửi Bản phúc trình này, Ủy Ban CLHB chỉ nêu lên một
số hiện tượng tiêu biểu hoặc vấn đề đáng quan tâm. Làm như thế, chúng ta muốn
chứng tỏ rằng người Công Giáo không hề thờ ơ với tình hình đất nước, nhưng luôn
thể hiện một tình yêu nước nồng nàn và nỗ lực kiếm tìm giải pháp tích cực dựa
trên GHXH của Giáo hội để xây dựng hòa bình. Cổ vũ hòa bình là một phần tất yếu
trong sứ mạng của Giáo Hội khi tiếp tục công trình của Đức Kitô trên trần gian.
Thật vậy, trong Đức Kitô, Giáo Hội là một bí tích, tức là dấu chỉ và công cụ
của hòa bình trên thế giới và cho thế giới (x. TLGHXHCG Số 516). Ủy Ban
CL&HB ước mong nhận được những góp ý tích cực, hướng dẫn cụ thể và đầy tình
hiệp thông của Đức Hồng Y và quí Đức Cha để có thể góp phần loan báo Tin Mừng
trong lãnh vực chính trị, kinh tế, xã hội… đầy khó khăn và thách đố này.
Lễ Các Thánh, ngày 01.11.2012
ỦY BAN CÔNG LÝ & HÒA BÌNH / HĐGMVN
*
*
Hội Đồng Giám Mục Việt Nam – Ủy Ban Công Lý và Hòa Bình
Posted
by wclhb on Tháng 5 15th, 2012
Chủ
trương đổi mới đã giúp
Việt Nam hòa nhập vào dòng chảy chung của nhân
loại và đưa đất
nước từ một nền kinh tế nghèo nàn
đến một trong những nước có
tăng trưởng kinh tế cao nhất châu
Á. Tiến trình hội nhập được
cụ thể hóa qua việc Việt Nam trở nên
thành viên của khối ASEAN,
tham gia APEC, gia nhập WTO. Việt Nam cũng đã
thiết lập quan hệ ngoại giao với nhiều quốc gia, tham gia vào
nhiều tổ chức quốc tế và thu hút đầu
tư của nhiều tập đoàn nước ngoài.
Xã hội ngày càng
trở nên năng động,
sáng tạo và nhìn chung có vẻ giàu
có hơn. Nhưng tình hình gần đây
cho thấy nền kinh tế Việt Nam đang mất định
hướng, thiếu tính bền vững và nhân
bản, vì đổi mới kinh tế không song hành đổi
mới chính trị, cũng như tăng
trưởng kinh tế không nối kết với phát
triển xã hội và phát
triển con người toàn diện.
Thư
chung hậu Đại hội Dân Chúa
năm 2010 mời gọi tất cả các
thành viên của Giáo
Hội Công giáo tại Việt Nam cố
gắng nhận diện và phân định
“hiện trạng xã hội Việt Nam dưới ánh
sáng đức tin”.
Chính trong viễn tượng đó,
Ủy ban Công lý và
Hòa bình thuộc Hội đồng
Giám mục Việt Nam muốn bày tỏ một vài thao thức, suy nghĩ
và nhận định về tình
hình Đất nước, vừa với tư
cách công dân,
vừa với tư cách Kitô hữu.
1. Nền kinh tế Việt Nam
Sau
gần hai thập niên đạt
tăng trưởng kinh tế cao, Việt Nam đã
ra khỏi nhóm các nước có
thu nhập thấp nhất, nhưng tình trạng mấy năm
gần đây cho thấy
nền kinh tế Việt Nam đang bộc lộ những nguy cơ nghiêm
trọng, tác động trực tiếp đến
cuộc sống của người dân
và tương lai của đất
nước. Biểu hiện rõ nhất là quản lý
kinh tế yếu kém, các tập đoàn
Nhà nước thua lỗ nặng, doanh nghiệp phá
sản càng nhiều ngân hàng
lãi càng lớn, lạm phát
tăng cao, chênh lệch giàu
nghèo nới rộng, chất lượng cuộc sống của đại
đa số dân chúng
giảm sút, nhiều người rơi trở
lại tình trạng nghèo trước đây…
Phải chăng mô hình
kinh tế hiện tại đang làm giàu
cho nhóm đặc lợi hơn là
cho toàn dân?
Định
hướng kinh tế lấy quốc doanh làm chủ đạo
đã tạo ra độc quyền và
lạm quyền, làm méo mó
sự vận hành cần có của nền kinh tế thị
trường. Doanh nghiệp nhà nước đóng góp
ít vào tăng
trưởng kinh tế nhưng lại nhận nhiều đặc quyền đặc
lợi, gây bất công và
kìm hãm sự phát
triển của khối tư nhân. Nợ nước ngoài
và thâm thủng mậu dịch đã
và đang gia tăng
khiến nền kinh tế bị suy yếu và lệ thuộc. Lạm phát
gia tăng cũng làm tăng đói
nghèo, gây khó khăn hơn cho cuộc sống của người dân và
cả các doanh nghiệp. Đình
công tiếp tục tăng cao chứng tỏ
quyền lợi của công nhân chưa được
bảo vệ thỏa đáng. Một số chủ trương không
hợp lòng dân mà
vẫn được Nhà nước tiến hành
như vụ khai thác bô-xit Tây Nguyên hoặc dự án xây
nhà máy điện
hạt nhân ở tỉnh Ninh Thuận.
2. Luật đất đai
Luật
đất đai hiện hành,
vừa đi ngược tự nhiên,
vừa không tôn trọng Tuyên
ngôn quốc tế về nhân
quyền. Đó là nguyên
nhân của khoảng 80% các
khiếu kiện trong nước. Các vụ khiếu kiện này
đã đi từ khiếu nại cá
nhân đến khiếu kiện tập
thể; từ khiếu kiện bằng đơn từ đến tập họp phản đối
và nay là dùng
vũ khí chống lại việc thu
hồi đất.
Luật
đất đai qui định
đất đai thuộc sở hữu toàn
dân, nhưng do Nhà
nước quản lý đã làm
cho hàng triệu người cảm thấy mất đất
và chẳng có quyền tự do hành
xử trên “mảnh đất
ông bà tổ tiên”.
Trên thực tế, sở hữu toàn
dân không phải là
phương thức quản lý đất đai
tốt nhất, còn việc Nhà nước làm
chủ sở hữu đã phát sinh đặc
quyền, đặc lợi của chính quyền các cấp trong việc quy
hoạch và thu hồi đất cho các
dự án, tước mất quyền căn
bản của người dân.
Vấn
đề gây bức xúc
nhiều nhất trong việc thu hồi đất là
giá đền bù.
Muốn giải quyết tranh chấp về giá đền
bù giữa người bị thu hồi đất
và cơ quan chức năng
hoặc các nhà đầu
tư, thì phải làm sao để
người bị thu hồi đất được đền
bù ngang giá với tài
sản của họ bị trưng dụng và cuộc sống của họ phải tốt đẹp
ngang hay hơn trước khi bị trưng dụng. Vì giá
đất tăng gấp bội sau khi
quy hoạch, nên người bị thu hồi đất
cần được chia phần sự chênh
lệch giá cả này bằng nhiều cách
khác nhau. Điều cần thiết là
nên cấp tốc sửa đổi
Luật đất đai để
người dân được quyền sở hữu đất
và hạn chế tối đa quyền thu hồi đất
của các cấp chính quyền.
3. Môi trường xã hội
Xã
hội Việt Nam đang bộc lộ nhiều hiện
tượng rất đáng quan ngại. Nổi
bật nhất vẫn là hai tật
xấu đã được
Hội đồng Giám mục Việt
Nam cảnh báo từ năm 2008, đó là gian dối
và bạo lực. Chúng không những phô
bày nơi đường phố,
trên thương trường và
các phương tiện thông tin đại
chúng, mà còn xâm
nhập vào công sở và
học đường. Dư luận đang
bức xúc vì hiện tượng lạ lùng
là tại một số nơi, cơ quan công
quyền lại sử dụng bạo lực phi pháp để
giải quyết các khiếu kiện dân
sự.
Bên
cạnh những tệ nạn đang tác
hại xã hội Việt Nam hôm
nay, nhiều người âu lo vì khuynh hướng sống
hưởng thụ, chụp giựt, coi trọng đồng tiền,
vô cảm trước nỗi đau
của đồng loại… Hiện tượng này
chứng tỏ tình trạng thiếu vắng
các giá trị đạo đức nền
tảng làm chuẩn mực cho đời sống
xã hội, vì vậy một số người đã
cảnh báo về một xã hội
lệch chuẩn hay phi chuẩn.
Tham
nhũng đã được coi là đại họa của quốc
gia, ngày càng tinh vi và nghiêm trọng hơn, nhưng cho đến
nay chưa một vụ án nào xứng tầm
được đưa ra xét xử để
răn đe, làm giảm sút niềm
tin của người dân nơi công quyền.
Các
vụ khiếu kiện, chủ yếu liên
quan đến đất đai,
trong đó có đất tôn giáo, vẫn
tiếp diễn phức tạp và
ngày càng trầm trọng, gây
bất an và căng thẳng
xã hội. Vụ việc ở Tiên
Lãng, Hải Phòng, và
Văn Giang, Hưng Yên,
gây xúc động
mạnh mẽ trên tất cả những người Việt Nam có
tâm huyết, buộc Nhà
nước phải nhìn lại cách giải quyết vấn đề,
mà cốt yếu là sửa đổi
Luật đất đai về mặt hạn điền,
thời hạn sử dụng đất và giá
đền bù…, nếu chưa đi
đến chỗ nhìn nhận quyền tư hữu
chính đáng của công
dân.
Một
yêu cầu cấp bách khác
là cần thay đổi lề lối làm
việc cửa quyền, không minh bạch và thiếu chuyên
môn của cán bộ. Biểu hiện rõ
rệt nhất ở sự áp đặt của Nhà
nước về quan điểm và cách
sống trong xã hội, đó là
sự phân biệt đối xử trong chính
sách công giữa các
cá nhân làm
việc cho Nhà nước với các doanh nhân
và người lao động tự do, giữa người dân
thành thị và người nhập cư ngoại
tỉnh.
4. Lĩnh vực pháp luật
Hiến
pháp và pháp luật
của mỗi quốc gia phản ánh tính đặc thù và cá biệt
theo truyền thống văn
hóa dân tộc mình, nhưng cũng không
vì thế mà bất chấp những
chuẩn mực pháp lý quốc tế. Việt Nam có
một hệ thống pháp luật đồ sộ, nhưng không
hiệu quả từ lập pháp đến hành
pháp, vì thiếu sự công
khai, minh bạch, và nhất là thiếu sự độc
lập về tư pháp.
Việc
áp dụng luật pháp
chưa nghiêm minh và tùy
tiện, nhất là ở cấp địa phương, đã
dẫn đến những oan sai và
đôi khi đẩy người dân
đến bước đường cùng.
Bộ luật tố tụng hình sự đã quy định
các thủ tục bắt người; vậy mà
trong một số trường hợp, vẫn có các
công dân bị bắt sai trái
với các quy định của bộ luật ấy,
cũng như với các tuyên
ngôn và công
ước quốc tế mà Việt Nam đã tham gia.
Việc
giam giữ người không qua xét xử được
che đậy dưới từ ngữ “đưa
vào cơ sở giáo dục”
có thời hạn và áp
dụng cho những người bày tỏ sự bất đồng chính
kiến là một hình thức vi phạm
quyền cơ bản của con người. Hình thức “giáo
dục” này thực ra là
một biện pháp mà thực dân
Pháp sử dụng ở nước ta, sau đó
được lập lại bằng Nghị quyết 49/NQ-TVQH ngày
20/6/1961 của Ủy ban Thường vụ Quốc hội và đã
là cơ sở pháp lý
cho việc tập trung cải tạo các công
chức và quân nhân
chính quyền Miền Nam cũ.
Sau này có một chuyển biến tốt
đẹp về biện pháp này
khi Pháp lệnh xử lý vi phạm hành
chính ban hành năm
1989 không sử dụng nó nữa. Nhưng với Pháp
lệnh năm 1995, nó lại được
tái lập dưới cái tên
hiện nay và được Pháp lệnh năm
2002 nối tiếp. Hy vọng trong lần ban hành tới về xử lý
vi phạm hành chính, kiểu “giáo
dục” ấy sẽ được bãi
bỏ.
Căn
bệnh trầm kha trong quản lý và điều
hành của các cấp chính
quyền chỉ được giải quyết khi Việt Nam xây
dựng một Nhà nước pháp quyền thực sự và
hình thành một xã
hội công dân năng
động. Bất chấp những khó
khăn hiện tại, đây là
một xu thế không thể đảo ngược.
5. Biên cương, hải đảo và chủ quyền quốc gia
Vào
những thập niên cuối cùng của thế kỷ XX,
Biển Đông đã một vài
lần nổi sóng. Nhưng trong những năm
gần đây, sự căng thẳng đã
lên đến mức độ
nguy hiểm. Nhà cầm quyền Trung Quốc một mặt dùng
lời lẽ hoa mỹ, với thông điệp rất êm
tai, nhưng mặt khác, các hành
động của họ về chủ quyền trên
Biển Đông ngày càng
phản ánh rõ rệt chủ trương Đại
Hán.
Trong
khi đó, bên Việt Nam, phản ứng của Nhà nước xem
ra quá yếu ớt, tạo cớ cho các lực lượng thù
nghịch lấn tới. Khó hiểu hơn nữa là
việc chính quyền đã mạnh tay đàn
áp các tổ chức và
các cá nhân
yêu nước phản đối hành
động xâm lược trắng trợn.
Thái độ lập lờ, thiếu nhất
quán của các nhà
lãnh đạo trong vấn đề
phân định lãnh
thổ vùng biên giới và
bảo vệ chủ quyền ở Biển Đông đang gây
bất bình trong dư luận. Nhiều nhân
sĩ và các nhà trí
thức tâm huyết đã
lên tiếng cảnh báo
những nguy cơ về an ninh quốc gia do một
số dự án cho nước ngoài
khai thác bô-xít và thuê đất,
thuê rừng. Mặt khác,
các thông tin về lĩnh
vực này không đầy đủ,
chậm chạp và thiếu công khai. Điều
trước mắt đã xảy ra là “lao
động phổ thông”
nước ngoài ồ ạt vào Việt Nam để
thực hiện các dự án trên
đang gây bất ổn cho xã
hội hiện tại và về lâu dài.
6. Môi trường sinh thái
Theo
dự báo của các cơ quan chuyên
môn, Việt Nam sẽ là
một trong bốn nước phải gánh chịu hậu quả nghiệt ngã
nhất của biến đổi khí hậu. Nguyên
nhân một phần do tác động
của biến đối khí hậu
toàn cầu, nhưng một phần khác
do chúng ta thiếu quan tâm
đến môi trường sinh thái
và tính bền vững trong phát
triển.
Điều
đáng quan ngại nhất là
chúng ta vụng về và
vội vàng trong khai thác tài nguyên. Những năm
gần đây Nhà nước đã
cho nước ngoài đầu tư nhiều dự án
có nguy cơ hủy hoại môi
trường, thay đổi hệ sinh thái và
làm biến đổi khí
hậu: khai thác bô-xit tại Tây
nguyên, cho thuê rất nhiều khu rừng đầu
nguồn thuộc 18 tỉnh từ Bắc chí Nam, rất nhiều tỉnh đã
khoanh biển và bờ biển cho các
công ty ngoại quốc thuê
để xây khách
sạn, lập bãi tắm hoặc các dự án
khác, mà không
quan tâm đến môi
trường sinh thái.
7. Vai trò của Trí thức
Gần
1000 năm trước, cùng với việc
thành lập Quốc Tử Giám, tổ
tiên chúng ta đã nhận
thức sâu sắc rằng:
“Hiền tài là nguyên
khí của quốc gia, nguyên
khí thịnh thì thế nước mạnh mà
hưng thịnh, nguyên khí suy thì nước yếu
mà thấp hèn” (Bia Văn Miếu). Điều
này vẫn luôn đúng
và càng đúng hơn cho kỷ nguyên chất xám,
thời đại của nền kinh tế
tri thức hôm nay.
Bỏ
ra ngoài hiện tượng gia tăng đột
biến số lượng các tiến
sĩ mà chất lượng còn đáng
nghi ngại, Việt Nam còn khá nhiều
hiền tài đích thực, những trí thức thực tài
và có tâm
huyết với nước, với dân.
Chỉ tiếc rằng vai trò của họ
chưa được coi trọng, có khi còn bị gạt ra bên
lề hoặc bị kỳ thị, mà
nguyên nhân, trong nhiều
trường hợp, chỉ là do sự khác biệt về
quan điểm đánh giá hiện thực xã hội
hoặc về tầm
nhìn tương lai của Dân tộc. Phải chăng
cơ chế Nhà nước bất cập và
chưa đủ mở rộng để thu hút
người tài, cũng như chưa cải tổ
cho phù hợp với đòi hỏi của xã
hội tân tiến? Bao giờ vai trò
của xã hội dân sự được
nhìn nhận và thực sự có
cơ hội tích cực góp phần xây
dựng đất nước?
8. Giáo dục và Y tế
Tương
lai của Dân tộc tùy thuộc
phần lớn vào giáo dục. Không
thể phủ nhận rằng
nền giáo dục quốc
gia đã sản sinh một số nhân
tài và góp phần vào việc phát triển
Đất nước. Nhưng nhìn chung, trong mấy
thập niên qua, nền
giáo dục của chúng ta có quá
nhiều bất cập
về nội dung, phương
pháp dạy và học… Việt Nam đã có nhiều nỗ
lực “cải cách giáo dục”
nhưng không đi đến những đột
phá thực chất. Vì sao? Phải đau
đớn mà nói
rằng vì chúng ta thiếu
hẳn một triết lý giáo dục
mang tính nền tảng và chiến
lược lâu dài.
Hậu
quả thê thảm của thực trạng trên
là những gì chúng
ta đang nhìn thấy trước mắt:
Gia tăng các tệ nạn khủng khiếp trong học đường, tội phạm tuổi
học sinh sinh viên ngày càng
nhiều, gian dối trong thi cử trở thành
bình thường, bằng cấp giả hay nguy hiểm hơn
nữa, bằng cấp thật mà kiến thức giả. Kết quả cay đắng
là Đất nước có
nguy cơ bị tụt hậu về nhiều phương diện.
Nhờ
áp dụng các công
nghệ mới, y tế Việt Nam trong thời gian qua đã đạt
được một số thành tựu trong việc khám
chữa bệnh và y tế dự phòng. Nhân
viên y tế ngày càng
được đào tạo bài
bản và có chuyên
môn cao hơn. Nhưng do hệ quả của nền giáo
dục nói trên, cũng
như khuynh hướng tập trung vào
sức khỏe thể chất và thiếu định hướng y tế toàn
diện, nên hệ thống y tế đang
bị sa lầy. Bên cạnh tình trạng quá
tải trầm trọng tại các bệnh viện Trung ương và
việc tăng viện phí ảnh hưởng mạnh tới
người nghèo, dư luận nói nhiều đến
sự vô cảm, nhũng nhiễu, thiếu trách
nhiệm và phẩm chất đạo đức
của nhân viên y tế…
Nhà
nước đã kêu gọi “xã
hội hóa” giáo
dục và y tế, thiết tưởng nên
tạo điều kiện để các
tôn giáo trong nước được
tham gia trực tiếp vào hai lĩnh vực này.
9. Lĩnh
vực tôn
giáo
Trong
thời gian qua, nhà cầm quyền đã tạo cơ hội thuận
tiện cho các sinh hoạt tôn giáo,
hầu hết các cơ sở tôn giáo
bị tàn phá trong thời chiến
tranh đã được trùng
tu, nhiều cơ sở mới đã và đang
được xây dựng. Tuy nhiên,
qui định pháp luật liên quan đến
các tôn giáo vẫn còn nhiều
bất cập và chưa đáp
ứng được nguyện vọng của các tín
đồ, cụ thể nhất
là về tư cách pháp nhân
của các tổ chức tôn giáo. Điểm
mấu chốt là các tôn
giáo đã được nhìn nhận,
nhưng lại chưa có tư cách pháp nhân, nên
không thể thực thi và bảo
vệ các quyền hiến
định của mình, như các tổ
chức xã hội và nghề
nghiệp khác.
Hiện
nay, Nhà nước dự định ban hành một
Nghị định “Quy định
chi tiết và biện pháp thi hành một
số điều
của Pháp lệnh Tín ngưỡng tôn
giáo”, thay thế Nghị định
số 22/2005/NĐ –
CP ngày 01-03-2005. Thật đáng hoan nghênh
nếu văn bản này được
soạn thảo trên tinh thần đổi
mới, thực sự cầu thị để tạo thuận
lợi cho tín đồ các tôn giáo được
tự do hoạt động, góp phần vào việc
phục vụ đồng bào và bảo vệ
Tổ quốc. Nhưng một số
người đang băn khoăn
vì sợ văn bản này lại là
một bước thụt lùi, so với Nghị định
nêu trên. Câu hỏi nền tảng
là bao giờ các công
dân có tôn
giáo được đối
xử bình đẳng với các
công dân khác,
theo Hiến pháp và Dân
luật, mà không cần đến
một Pháp lệnh Tín ngưỡng tôn
giáo nữa?
*
* *
Những
nhận định trên đây
phát xuất từ niềm tin Kitô
giáo và trách
nhiệm công dân với ước nguyện góp
phần nhỏ bé của mình vào
công cuộc xây dựng một đất
nước phát triển vững bền, dân
chủ và nhân ái.
Trong vấn đề này, huấn từ của Đức
Giáo hoàng Bênêđictô
XVI, ngày 27-06-2009, với các
Giám mục Việt Nam vẫn là
định hướng căn bản của Ủy ban Công
lý và Hòa
bình: “Giáo
Hội không hề muốn thay thế Chính
quyền, nhưng chỉ mong rằng trong tinh thần đối thoại và
hợp tác tôn trọng nhau, Giáo
Hội có thể góp phần mình
vào đời sống của đất
nước, nhằm phục vụ tất cả mọi người dân”.
Ngày
15 tháng 5 năm 2012,
kỷ
niệm 121 năm Thông
điệp Rerum Novarum (Tân
Sự)
ỦY BAN CÔNG LÝ & HÒA BÌNH / HĐGMVN
No comments:
Post a Comment