Phạm Gia
Minh dịch
20-11-2012
Chuyếnđi của tôi tới Myanma là một dịp để thể hiện những vấn đề
lớn và nhỏ trong chính sách ngoại giao của Hoa Kỳ và cũng để rà soát xem cái gì
được và cái gì chưa được.Chuyến đi đó diễn ra ngay trước khi có thông báo về
việc Tổng thống Obama sẽ viếng thăm Myanma vào nửa sau tháng 11 – một hành động
sẽ gây chú ý về cuộc cải cách ở xứ này đối với Phương Tây.
Sau đây là các câu hỏi và những câu trả lời mang tính chất thăm
dò:
1/.
Myanma có thực sự cải cách không ?
Có vẻ là như vậy. Có rất nhiều dấu hiệu khẳng định điều này trong
chuyến đi của tôi. Các sĩ quan cao cấp mà tôi đã gặp gỡ, trao đổi một cách đầy
thuyết phục rằng họ cam kết cải cách dân chủ. Một vị Bộ trưởng còn nhắc tới sự
kiện người hùng dân chủ Aung San Suu Kyi tham gia vào một cuộc hội thảo do
Chính phủ tổ chức gần đây với thái độ tích cực. Báo chí đăng tải một cách sinh
động các cuộc tranh luận thực sự không bị kiểm duyệt khắp nơi như cách đây 2
thập niên. Hình Aung San Suu Kyi và người cha Aung San – nhân vật sáng lập nước
Miến Điện ngày nay, có thể thấy trên bức tường các quán ăn. Một phái đoàn đông
đảo của Hoa Kỳ về nhân quyền viếng thăm chính thức và gặp gỡ các sĩ quan hàng
đầu Myanma. Người dân thường nói về những thay đổi sâu sắc trong bầu không khí
toàn xã hội, về nguyện vọng của họ được nêu lên những vấn đề mà ngay gần đây họ
còn phải sợ hãi và nín lặng. Sự thay đổi tâm trạng xã hội này đã diễn ra sau
một loạt các bước đi nhằm dỡ bỏ những nền tảng chính yếu trong bộ máy đàn áp
của Chính phủ quân sự Myanma – đó là việc thả hàng trăm tù chính trị, cho công
khai hóa đảng đối lập Liên minh Toàn quốc vì Dân chủ (National League for
Democracy), cho phép tổ chức các cuộc biểu tình hòa bình và tái khởi động các
cuộc đàm phán với những nhóm phiến quân dân tộc thiểu số.
2/.Vai
trò của Aung San Suu Kyi và hoạt động hiện nay của bà ta?
Aung San Suu Kyi vẫn là nhân vật chính trị đại chúng duy nhất ở
Myanma. Bà và đảng của bà đã thắng rõ rệt trong cuộc bầu cử hồi tháng 4/2012
sau khi bà mãn hạn quản thúc tại gia.
Có đủ lý do để tin rằng bà và đảng của bà sẽ thắng tại cuộc bầu cử
toàn quốc năm 2015 và sẽ có khả năng thành lập chính phủ. Để chuẩn bị, bà đang
tiến hành một đường lối rất thực dụng, gặp gỡ các quan chức Chính phủ, liên kết
với Tổng thống Thein Sein và phát biểu tích cực về họ trong buổi lễ do tổ chức
Huân chương Vàng của Quốc hội Hoa Kỳ(Congressional Gold Medal) tổ chức. Đã có
những lời phàn nàn trong cộng đồng đấu tranh vì nhân quyền ở hải ngoại về đường
lối thỏa hiệp rõ ràng của bà trong các chính sách quốc gia. Bà đang đối mặt với
sự phỏng đoán rằng đã tới lúc bà phải từ bỏ vai trò của một thần tượng để trở
thành một nhà hoạt động chính trị, cũng giống như Lech Walesa từng bị đồn đoán
là đã hợp tác với tướng Jaruzelski ở nước Balan cộng sản vào đầu những năm
1980.
3/.
Liệu có ai đó ở phương Tây đã thấy trước những gì đang diễn ra ?
Có thể một vài người đâu đó ở phương Tây đã dự đoán được rằng
Myanma sẽ cải cách dân chủ, thế nhưng theo hiểu biết chung thông thường thì
không. Các nhà phân tích tình hình Á châu cả bên trong lẫn ngoài chính phủ, các
bài xã luận trên các báo và các tổ chức nhân quyền, tất cả đều coi thường việc
thành lập chính phủ dân sự hồi tháng 4/2011 và coi những cuộc bầu cử năm ngoái
là mang tính chất gian lận, lừa dối. Họ nhìn nhận việc thả bà Aung San Suu Kyi
là không có mấy ý nghĩa chính trị và dự đoán một tương lai chính trị u ám cho
quốc gia này.
4/. Vậy
thì điều đó đã xảy ra như thế nào ?
Có nhiều lý thuyết nghiên cứu về quá khứ nhưng không có lý thuyết
nào hoàn toàn làm chúng ta thỏa mãn. Tuy
nhiên có một yếu tố quan trọng mà dường như nó đã khái quát hóa ước vọng muốn
thoát ra khỏi sự lệ thuộc ngày một gia tăng vào Trung Quốc bằng cách thiết lập
nền móng cho những mối quan hệ mới với phương Tây. Trong lịch sử, Myanma là
một quốc gia có ý chí độc lập rất mãnh liệt, chẳng hạn như họ đã rời bỏ phong
trào Không liên kết chỉ bởi lẽ họ cảm thấy phong trào này quá liên kết. Thái độ
oán giận sự hiện diện của Trung Quốc với những nhà máy, xí nghiệp đang chiếm
lĩnh các ngành công nghiệp khai khoáng trong khi đó lại tạo ra ít việc làm cho
người Myanma bản địa, càng ngày càng sâu sắc. Một số chuyên gia Miến, trong đó
có Thant Myint-U , cháu nội của cố Tổng thư ký Liên Hiệp Quốc tướng U-Thant
trong một bài viết đã tiên đoán về tâm trạng mới mẻ của tầng lớp sĩ quan trẻ
Myanma – những người đóng vai trò trung tâm trong việc thúc đẩy cải cách. Các
nhóm hoạt động đấu tranh vì nhân quyền đã chỉ ra hậu quả của những năm tháng bị
cấm vận nhằm thuyết phục ban lãnh đạo đất nước có một đường lối mới phù hợp.
Hành động can dự có uy tín của ASEAN cũng góp phần đánh đổ sự chống đối của các
tướng lĩnh trước cộng đồng quốc tế. Bên trong Myanma, các tướng lĩnh cao tuổi
dường như tin chắc rằng họ sẽ không bị trả giá về các hành vi đàn áp trong quá
khứ và tầng lớp sĩ quan nhìn chung hài lòng rằng vai trò đặc biệt của họ trong
nền chính trị Myanma vẫn sẽ được bảo đảm bởi Hiến pháp mà theo đó họ vẫn có
những ưu tiên và đặc lợi to lớn. Cảm giác an toàn trong hàng ngũ các cựu lãnh
đạo quân đội có thể đã giúp họ sẵn sàng chấp nhận sự mở cửa về chính trịhiện
nay.
5/. Vậy
thì vai trò của chính phủ Hoa Kỳ là gì?
Từ năm 1990 tới năm 2008 các chính quyền nối tiếp nhau lại được
Quốc hội thúc đẩy đã đưa ra hết biện pháp trừng phạt này đến biện pháp trừng
phạt khác đối với Myanma – chẳng hạn như cấm các khoản đầu tư mới, cấm nhập
khẩu, nêu tên các cá nhân và công ty bị trừng phạt tài chính. Dưới thời George
W.Bush, Đệ nhất Phu nhân Laura Bush đóng một vai trò quan trọng trong việc công
khai cho thế giới biết rằng chế độ quân sự Myanma phải tiếp tục là mục tiêu cho
sự cô lập.
Trong diễn văn nhậm chức của mình, Tổng thống Obama đã đề nghị
chìa tay ra cho các kẻ thù của nước Mỹ “nếu như họ cũng mong muốn nới lỏng nắm
đấm”. Chính sách này mang lại ít kết quả tích cực trên toàn thế giới, ngoại trừ
trường hợp Myanma. Chính quyền (của Obama – ND) đã quyết định sớm mở kênh ngoại
giao liên hệ với lãnh đạo Myanma do Trợ lý Ngoại trưởng Kurt Campbell chỉ đạo
nhằm đưa ra chương trình nghị sự cho cải cách chính trị và không phổ biến vũ
khí hạt nhân của Myanma để phía Hoa Kỳ có thể giảm nhẹ các biện pháp trừng
phạt. Thiện chí của Chính phủ Hoa Kỳ được bày tỏ ở cấp có thẩm quyền đã cung
cấp một lịch trình thiết lập những mối quan hệ tốt đẹp và điều này đã giúp
Chính phủ Myanma được động viên, khích lệ và tự tin để bước tiếp. Quyết định
của chính quyền Obama phối hợp cùng với các đồng minh Châu Âu và Australia giảm
nhẹ đáng kể các biện pháp trừng phạt hồi đầu năm nay đã có tác động thúc đẩy
hơn nữa cải cách chính trị và kinh tế vốn vô cùng cần thiết lúc này.
6/. Có
thể rút ra những bài học chung nào về việc áp dụng các biện pháp trừng phạt như
công cụ để làm thay đổi hành vi những kẻ xấu chơi?
Các biện pháp trừng phạt đôi khi là cách hiệu quả duy nhất của Hoa
Kỳ và cộng đồng quốc tế nhằm cho các chế độ độc tài thấy hành vi của họ là
không thể chấp nhận được. Đó chính là trường hợp với Myanma đã tiếp diễn trong
nhiều năm. Có thể nói sự trừng phạt được thực thi là phù hợp.
Tuy nhiên, cần nhớ rằng các biện pháp trừng phạt bản thân không
phải là mục đích cuối cùng. như lời của một bài hát “bạn cần biết khi nào nên
kìm giữ và khi nào thì nên ôm” . Có những thế lực bảo thủ và khó cưỡng lại được
ở Washing ton vẫn tiếp tục đường lối trừng phạt cho dù chính sách đó có dẫn tới
kết quả tích cực hay không. Các nhóm nhân quyền đôi khi nhìn nhận sự trừng phạt
kẻ độc tài như một biện pháp trong chính sách hợp lý, mang tính đạo đức của
chính phủ và họ còn thông tin rộng rãi những vi phạm của các chế độ độc tài
nhằm tập hợp sự ủng hộ của quần chúng để lập quỹ hỗ trợ cho các đợt vận động áp
dụng các biện pháp trừng phạt với tư cách là sản phẩm cuối cho hoạt động của
họ. Quốc hội thì muốn chứng tỏ mình đang làm gì đó, bất kể là có hiệu quả hay
không, các chế độ độc tài bị trừng phạt nhờ đó lại trở nên được thế giới biết
đến . Động thái này là rất rõ ràng trong trường hợp đối với Cuba. Chính sách
trừng phạt Cuba được thực thi đã 50 năm nay và sự nhiệt thành ủng hộ nó từ phía
các diễn viên chính trị Hoa Kỳ vẫn không hề suy giảm, rút cục càng củng cố sự
cầm quyền của anh em nhà Castro. Mọi người, kể cả tầng lớp chính trị Hoa Kỳ, các
nhóm đấu tranh riêng rẽ và anh em nhà Castro dường như đều hài lòng với hiện
trạng đó, trừ nhân dân Cuba mới là những nạn nhân của hoàn cảnh. Chính sách đối
với Myanma cũng được đưa ra theo mô hình Cuba nhưng may mắn là giờ đây nó đã được
tách ra theo đường hướng khác.
7/.
Liệu chính phủ Hoa Kỳ đã chuẩn bị một cơ cấu phù hợp để xử lý vấn đề kiểu như
Myanma chưa?
Kể từ thời Tổng thống Carter, đã bắt đầu gia tăng nền móng hạ tầng
các văn phòng và lực lượng nhân viên chuyên trách vấn đề nhân quyền, được tách
ra từ mảng chính sách đối ngoại và an ninh quốc gia. Các văn phòng này sau đó
trở thành tiếng nói của cộng đồng các tổ chức nhân quyền phi chính phủ (NGO)
nhưng được đặt bên trong Chính phủ Hoa Kỳ, đóng vai trò như cái loa của các tổ
chức nhân quyền NGO, tìm cách tham gia vào các báo cáo của Ủy ban nhân quyền
Hoa Kỳ và đấu tranh ủng hộ các biện pháp đặc biệt do các NGO đề đạt. Theo một
cách nào đó, điều này không khác biệt hoàn toàn với cái cách mà các bộ phận cử
tri khác được đại diện trong bộ máy của chính sách ngoại giao, chẳng hạn như
việc kinh doanh thì được thông qua Ủy ban Kinh tế và Văn phòng kinh doanh. Tuy
nhiên việc nhận biết các văn phòng nhân quyền với khu vực cử tri của nó có vẻ
như là lối tư duy đơn giản (cần ghi nhận rằng Trợ lý Bộ trưởng về các vấn đề
Dân chủ, Nhân quyền và Việc làm, Michel Posner thực chất đã thoát ra khỏi sự
ràng buộc này để hoạt động với tưcách là người bảo vệ cho nhân quyền nhưng lại
chú trọng vào kết quả thực tế,không thiên về bề ngoài và mang sắc thái quan tâm
tới những mục tiêu của chính sách ngoại giao rộng lớn).
Thời gian còn là Vụ trưởng Vụ Các vấn đề Châu Á thuộc Hội đồng An
ninh Quốc gia, trong giai đoạn thay đổi chính sách của Hoa Kỳ đối với Myanma
vào khoảng từ 2009 tới 2011 tôi đã chủ trì một số cuộc họp liên cơ quan (còn có
tên gọi là Ủy ban Chính sách liên cơ quan) bàn về Myanma. Thông thường, những
cuộc gặp như thế đều có sự góp mặt của một đại diện cấp cao của mỗi cơ quan và
có một nhân viên trợ lý tháp tùng. Trong trường hợp Myanma, không ít hơn 7 văn
phòng thuộc Bộ Ngoại giao, đó là vụ Đông Á, Vụ Nhân quyền, Vụ Phái đoàn Hoa kỳ
tại Liên Hiệp Quốc, Văn phòng liên lạc của Bộ Ngoại giao phái đoàn Hoa kỳ tại
LHQ, Phái bộ Hoa Kỳ tại các Tổ chức quốc tế ở Geneva, Đại sứ Hoa Kỳ về Tội ác
chiến tranh và cả Vụ Người tỵ nạn cùng tham dự. Trong những cuộc họp như
vậy,các vụ tham dự thường mong đợi có chung một tiếng nói nhưng với 7 cơ quan
cùng tham gia và ai cũng tìm cách để tiếng nói của mình được nghe thì quả thực
là rất khó, thậm chí là không thể đạt được điều này. Một số cơ quan rất hăng
hái tìm cách lập Ủy ban Điều tra tội ác chiến tranh của chế độ Myanma ngay vào
đúng thời điểm bà Aung San Suu Kyi vừa được gỡ bỏ tình trạng bị quản thúc tại
gia và đã xuất hiện những dấu hiệu chưa rõ ràng về một sự nới lỏng đàn áp. Chỉ
sau khi trao quyền cho Trợ lý Vụ trưởng Vụ Đông Á và Thái Bình Dương được phát
ngôn thay cho Bộ Ngoại giao và chỉ đạo công tác đối ngoại mà không có các nhóm
khác của Bộ gây nhiễu thì cuối cùng chính quyền mới có thể đưa ra một đường lối
mạch lạc và thành công.
8/. Con
đường nào là hữu hiệu nhất để xử lý các vấn đề có sự tham gia của những kẻ xấu
chơi như chế độ Myanma?
Các tổ chức NGO có một vai trò không ai thay thế được trong việc
theo dõi những vụ lạm dụng nhân quyền, thu hút sự chú ý của công chúng vào
những vụ vi phạm nhân quyền và kẻ thủ phạm đồng thời huy động cộng đồng quốc tế
chú ý giám sát chúng. Đó chính là một trong những đặc điểm đáng tự hào của xã
hội dân chủ có lương tâm nơi mà hoạt động của các các nhóm gồm những người tự
nguyện cam kết bảo vệ lẽ công bằng ngay cả tại những góc khuất nẻo nhất trên
hành tinh này để quyết làm cho tiếng nói của những nạn nhân của sự bất công
được thế giới nghe thấy. Chúng ta không những không được coi thường hay đánh
giá thấp các nhóm nhân quyền này mà cần phải tôn vinh và tán dương đồng thời
khuếch trương vai trò của họ.
Thế nhưng chính phủ Hoa Kỳ lại cần phải đóng một vai trò khác
trong khi vấn đề nhân quyền nhất định không được hạ thấp. Chẳng nên khuyến
khích thành lập và phát triển các văn phòng có mục đích tạo ra thêm ranh giới
giữa những quan chức chính phủ khi mà ưu tiên hàng đầu của họ là an ninh quốc
gia của chúng ta và thành công trong chính sách đối ngoại cũng như cam kết mạnh
mẽ về nhân quyền. Không nên để xảy ra tình trạng những nhóm nhỏ các nhân vật
chuyên trách thể hiện các mối quan tâm về nhân quyền đồng thời hành động với tư
cách là đại diện của cộng đồng NGO, trong khi các quan chức chính phủ chịu
trách nhiệm về an ninh quốc gia và chính sách đối ngoại lại phản ứng bằng câu
trả lời có tính chất coi nhẹ vấn đề nhân quyền. Cơ cấu hiện nay của chúng ta
thường xuyên gây ra các cuộc đấu khẩu mang tính hình thức ở nhiều quốc gia
thuộc diện xấu chơi (trong lĩnh vực nhân quyền – ND) . Trong các trường hợp đó,
những quan chức Chính phủ chịu trách nhiệm nặng nề về an ninh quốc gia có xu
hướng quan tâm nhiều hơn tới nhân quyền khi tiếp xúc với các nước có tầm quan
trọng chính yếu về vấn đề an ninh ví dụ như TQ, Saudi Arabia và Pakistan, tuy nhiên
họ lại tỏ ra chậm trễ đối với các văn phòng nhân quyền phụ trách các quốc gia
ít quan trọng hơn trong chính sách đối ngoại, chẳng hạn như Myanma. Đó không
thể là khuôn khổ cho sự thành công hoặc cho một sự phát triển chính sách hợp
lý. Chính phủ của chúng ta
cần làm cho các quan chức hàng đầu về an ninh quốc gia nhạy cảm hơn đối với sự
cần thiết phải thiết kế vấn đề nhân quyền trong chính sách của mình một cách
hiệu quả hơn, đồng thời nhắc nhở các văn phòng nhân quyền rằng họ cũng cần phải
tận tâm cam kết với các mục tiêu an ninh quốc gia Hoa Kỳ rộng lớn chứ không chỉ
là sự tiến bộ của chương trình nghị sự mang tính kỹ năng đặc biệt của tổ chức
NGO.
J.B.
Thăng long-Hà nội 18/11/2012
P.G.M. dịch từ Prosspects of Political Reformes in
Myanmar, Brookings News No 30.
No comments:
Post a Comment