11/06/2012
06:57 AM
Người
Tây Tạng lưu vong trên khắp thế giới, mỗi khi biểu tình chống Trung Quốc, họ
tập trung không đông, có khi chỉ vài chục người, nhưng thông điệp mà họ gởi đi
cho Bắc Kinh thường được báo chí dòng chính ở các quốc gia sở tại chuyển tải
trên các trang báo hay trong những bản tin truyền hình khắp thế giới. Tôi nghĩ
rằng có lẽ những người Tây Tạng lưu vong được công luận chú ý một phần vì họ
chính là hình ảnh của cuộc tranh đấu bất bạo động, lâu dài của Đức Đạt Lai Lạt
Ma chống lại sự kiện Bắc Kinh xâm chiếm đất nước của Ngài cách đây trên nửa thế
kỷ.
Người
Uighurs tức người Tân Cương dòng chính, sống lưu vọng ở nước ngoài không cũng
không nhiều nên mỗi lần họ biểu tình chống nhà cầm quyền Hoa Lục vì chính sách
đồng hóa của người Hán, họ cũng được báo chí và truyền thông dòng chính đánh
động đến dư luận thế giới, một phần cũng do những cuộc phản kháng hết sức mãnh
liệt và bạo động ở trong nước và các cuộc biểu tình đưa ra được thông điệp của
người Uighurs: Bắc Kinh phải chấm dứt những ưu quyền của người Hán tại Tân
Cương.
Còn
tại cộng đồng Việt Nam, những cuộc biểu tình chống Cộng diễn ra đầy khí thế vào
những năm đầu của thập niên 90 và nổi bật nhất vẫn là cuộc biểu tình chống Trần
Trường chủ tiệm Hi-Tek trên phố Bolsa, nhưng tình thế cứ giảm dần con số người
tham dự và khí thế cũng không còn, đến nỗi rằng có những giai đoạn, con số
những người tham dự biểu tình được những nhà tổ chức “ước lượng” tăng lên so
với ước lượng căn cứ vào thực tế. Vào những giai đoạn ấy, đã có không ít những
nhà báo bị đả kích với những lời lẽ nặng nề chỉ vì con số người tham dự một sự
kiện nào đó mà mình ghi trong bài tường thuật ít hơn con số những nhà tổ chức
mong muốn. Thế rồi tư tưởng muốn đồng nhất hóa các ý kiến của người tham dự với
người tổ chức, đồng nhất hóa ý kiến của các tổ chức chống Cộng này với tổ chức
chống Cộng khác đã dẫn tới một thứ “lề phải” vô hình. Tiếp theo đó là những
cuộc biểu tình hoặc đe dọa biểu tình với những ai thấy phải bước sang “lề
trái”. Tiếp theo đó nữa là vấn đề thông tin đa chiều được đặt ra giữa một cộng
đồng trong một nước Mỹ dân chủ, tự do trong đó có Đệ Nhất Tu Chính Án Hiến Pháp
bảo vệ quyền tựdo ngôn luận.
Trong
bối cảnh nhiều người sợ bóng, sợ gió còn tự kiểm duyệt mình trong những lời
phát biểu, hay những bài viết thì những người tìm một cách nhìn khác,đi một con
đường khác để cũng đạt đến mục tiêu bỗng cảm thấy mình thoải mái hơn và thấy
mình là người tự do, tôn trọng luật pháp nơi mình đang sinh sống. Tuy nhiên,
cũng giữa bối cảnh này lại nảy sinh không thiếu những người lợi dụng. Họchỉ sử
dụng thông tin đa chiều trong cái cộng đồng nhỏ hẹp của họ mà thôi, còn ởnhững
nơi mà nhà cầm quyền chỉ chấp nhận thông tin một chiều và sẵn sàng áp dụngđòn
đàn áp thì họ đành im lặng và nói theo những gì mà kẻ có quyền lực muốn.
Riêng
tại cộng đồng Việt Nam thì điều này rất rõ nét. Có một vài nhà báo lợi dụng lúc
dư luận trong cộng đồngđã chán ngấy cái “lề phải” mà trên đó toàn những lời nói
dối, cho nhau ăn đường phèn, đả kích nhau chỉ vì muốn biểu diễn lập trường,
những cuộc biểu tình chống cộng hoặc chống nhau người dự thưa thớt, những chính
khách chỉ có một bài diễn văn duy nhất, ông ta hay bà ta chỉ mới đọc câu đầu
người nghe đã biết câu kết luận, những bài tường thuật chính trị của báo này,
đài này cũng giống như đài khác, báo khác... bèn bung ra đi sang “lề trái” ở
trong cộng đồng, nghĩa là điều gì mà những người chống Cộng ở đây coi là điều
cấm kỵ thì họ coi điều đó là bình thường. Có một luồng gió mới? Đúng! Thế nhưng
luồng gió mới ấy đã trởthành gió quẩn khi họ dùng phương thức đâm bị thóc, chọc
bị gạo làm đề tài cho vấn đề lớn chẳng như vấn đề lề trái trong công luận cộng
đồng. Và sau những chuyến về Việt Nam thì cái lề trái mà họ đang tung hô trong
cộng đồng đã biến họthành những người đi “lề phải” tại quê hương Việt Nam, nơi
mà chỉ có những cây viết bất đồng chính kiến đầy can đảm, biết chấp nhận thương
đau mới dám đi “lềtrái”. Một điều dễ hiểu: chính quyền Cộng Sản tại Việt Nam
vẫn còn là một chính quyền độc tài, báo chí truyền thông còn bị kiểm duyệt gắt
gao, những ai muốn bước sang lề trái đều bịngăn chặn bằng đe dọa, áp lực và
trong nhiều trường hợp bị đẩy vào nhà tù. Đến ngay các con ông cháu cha như Lê
Công Định, Cù Huy Hà Vũ chỉ mới bước sang lềtrái có vài bước mà còn lãnh án từ
5 đến 7 năm tù huống chi những nhà báo từ hải ngoại trở về quê hương cũ của
mình để học đòi đi sang lề trái.
Tôi
nhớ lại một câu chuyện nho nhỏ cách đây cũng vài năm. Lúc đó bà Dân Biểu
Loretta Sanchez (Dân Chủ-Santa Ana) muốn mời một số nhà báo ở Little Saigon,
Houston Texas và Washington D.C đi theo bà sang Việt Nam vềhồ sơ nhân quyền.
Tuy không chính thức nói ra chi tiết, nhưng trong cuộc thăm viếng ở Việt Nam
của bà có cả gia đình một số nhà bất đồng chính kiến đang bịnhà cầm quyền Việt
Nam giam giữ và một vài nơi trước đây có các trại tù cải tạo. Nhưng để giữ sự
độc lập cho những nhà báo đi theo, văn phòng của bà yêu cầu họphải tự túc về di
chuyển, ăn ở khác sạn và ngay cả xin chiếu khán nhập cảnh ngoại giao chứ không
được dùng chiếu khán du lịch. Các nhà báo được mời đều đồng ý như vậy. Dĩ nhiên
Hà Nội đã lờ đi, không cấp chiếu khán cho bất cứ nhà báo nào mà cũng chẳng thèm
giải thích lý do tại sao đơn xin chiếu khán nhập cảnh khôngđược chấp thuận. Tôi
nêu ra điều này để cho thấy một nhà báo hải ngoại xin cấp chiếu khán ngoại giao
để vào Việt Nam săn tin không phải là dễ dàng gì trừ phi họ tổ chức cho các nhà
báo gốc Việt về Việt Nam với hậu ý nào đó. Cũng vì những lý do này mà theo suy
nghĩ của tôi, một nhà báo Việt Nam được nhà cầm quyền Cộng Sản mời về nước và
Hà Nội đài thọ cả tiền máy bay di chuyển và ăn ở khách sạn trong một thời gian
dài tất không phải là để cho các nhà báo ấy đưa thông tinđa chiều kể cả đi sang
lề trái như các nhà bất đồng chính kiến hoặc tạo cơ hội cho họ đến vấn an các
nhà bất đồng chính kiến đang bị nhà nước cô lập. Hà Nội có thể cho dẫn những
nhà báo ấy đi nhiều nơi nhạy cảm nhưng trong trường hợp này thì những nhà báo sẽ
viết được những gì ở mặt sau tấm huy chương nhẵn nhụi. Cứ giả thử rằng phái
đoàn báo chí truyền thông hải ngoại được phép gặp một vài nhà bất đồng chính
kiến đi nữa nhưng ở góc phòng có mấy ông thuộc “bộ ngoại giao” ngồi chứng kiến
thì liệu ông hay bà bất đồng chính kiến có dám nói gì chạmđến những điều mà
giới cầm quyền không muốn báo chí đề cập tới không? Đến như một vài nhà báo ở
ngay Little Saigon này gặp viên Tổng Lãnh Sự Cộng Sản ở San Francisco ở một
khách sạn tại Huntington Beach, không có biểu tình phản đối bên ngoài mà cũng
chẳng đưa ra được một câu hỏi nào có tính chất “lề trái” tại Việt Nam huống hồ
là khi vào một nơi mà bất cứ lúc nào cũng có thể bị mời lên công an “nói
chuyện” và liệu hồn đấy “anh, chị có thể tạm thời không được rời Việt Nam và
thay vì cơm khách sạn thì nhận cơm qua cửa tò vò của xà lim nhà tù” đểsuy nghĩ.
Cho
nên, cũng nên cẩn thận chữ thông tin đa chiều hay khiêm tốn hơn là thông tin
hai chiều. Chữ thông tin đa chiều là chữ dùng chung cho những nhà báo trong mọi
hoàn cảnh. Nếu trong cộng đồng tại một nước có tự do báo chí có những vấn đề mà
một nhà báo cũng cần phải bước sang lề trái để tìm sự thật thì tại một nước độc
tài dù là độc tài quốc gia hay độc tài Cộng Sản thì bổn phận và trách nhiệm của
một nhà báo cũng vẫn như vậy. Ở cộng đồng trong một nước tự do, một nhà báo chủ
trương phải thông tin đa chiều nhưng ở một nước còn chế độ độc tài, báo chỉ bị
kiểm soát, cũng nhà báo ấy lại chỉ biết tận tụy, bịt tai nhắm mắt điở lề phải,
sợ phải trả giá khi nói ra sự thực thì sao xứng đáng là người cầm loa đa chiều?
Từ
lâu rồi không biết ai đặt ra một thứ chính quyền vô hình trong cộng đồng Việt
Nam mà tôi thấy trong rất nhiều trường hợp một số nhà báo, nhà truyền thông,
nhà làm chính trị, ngay cả một số trí thức ở đây cũng phải tự kiểm duyệt“đục
bỏ” khi viết, khi nói vì sợ độc giả, khán giả, thính giả gọi vào đả kích vì cho
rằng những người này đã bị “tẩy não nên dùng chữ Việt Cộng”, là “tay sai Cộng
Sản”, là “ăn cơm quốc gia thờ ma Cộng sản”, là “lập trường chao đảo”,trong khi
hàng ngày xuất hiện trên báo chí truyền thông Việt Nam ở hải ngoại những lời
phê phán nặng nề vì báo chí trong nước bị nhà cầm quyền Cộng Sản câu
thúc!!!Đăng một bức hình chỉ còn giá trị trên những trang sử Việt Nam nói đến
hoạt động của Hồ Chí Minh chống Pháp mà không có cái gạch chéo ở mặt ông ta là
“có chuyện”. Biết bao nhiều tờ báo trong cộng đồng này đã phải có thư “Cáo Lỗi”
với những người sẵn sàng bới lông tìm vết, nhưng lại hay lẫn lộn giữa lịch sử
và hiện tại, giữa hình ảnh minh họa cho một bài báo và nội dung thực của bài
báo ấy, chỉ muốn những người làm thông tin được thông tin “tự do trong khuôn
khổ do họ qui định”. Sự tựkiểm duyệt có khi lên đến cao độ khiến cho một nhà
báo, hay là một nhà truyền thông phải viết Nguyễn văn X. Bí Thư Thành Ủy thành phố
Hồ Chí Minh thành Bí Thư Thành ủy thành phố Saigon!
Thực
tế thì cái đất mà thành phố được dùng làm thủ đô cho VNCH trước 30 tháng tư
1975 đã được đổi tên nhiều lần mới ra chữ Saigon. Saigon lúc đầu là Sài Côn,
sau âm thành Sài Gòn viết rời ra và có dấu, nhưng rồi thời Pháp thuộc chữ
Saigon lại được viết liền nhau, không dấu giống như Lyon, như Paris, nhưng có
điều Saigon thì vẫn là Sài Gòn. Cái tên ấy ngoài những kỷ niệm mà những người
sinh ra và lớn lên với Miền Nam Việt Nam mang trong trái tim của mình cùng với
một cuộc chiến huynh đệ tương tàn đẫm máu, Saigon còn đi liền với tổ chức chính
quyềnđương tại lúc đó. Chẳng hạn như Saigon có Đô Trưởng chứ không có Chủ tịch
Ủy Ban Nhân Dân Thành Phố, không có Bí Thư Thành Ủy. Tổ chức chính quyền và
đảng cầm quyền theo kiểu này chỉ có ở chế độ Cộng Sản vàđược gọi tên là do
thắng lợi của người Cộng Sản trong biến cố 30 Tháng 4 cáchđây 36 năm. Đám người
chiến thắng vội vã lấy tên lãnh tụ đã qua đời của họ thay thế tên cũ Saigon để
“lấy điểm”. Vì thế đã gọi là Chủ tịch Ủy Ban Nhân Dân Thành Phố thì không thể
là thành phố Saigon được mà phải là thành phố Hồ Chí Minh, còn Bí Thư Thành Ủy
lại càng không thể là Bí ThưThành Ủy Saigon được! Ai cũng hiểu và thông cảm là
người Việt tị nạn ở hải ngoại phần lớn ghét cái tên riêng của họ Hồ được dùng
thay thế cho tên gọi của thủ đô trước đây của họ. Nhưng điều chắc chắn là
“ghét, thù” cái tên ấy không đồng nghĩa với việc thay thế nó một cách dễ dàng
như việc không dùng thành phố Hồ Chí Minh mà dùng Saigon trên báo chí truyền
thông hay cứ lập ra những phong trào đòi lại tên Saigon là Hà Nội sẽ phải trả.
Muốn đòi lại tên Saigon, người Việt ở trong nước phải trả bằng giá của những
cuộc đàn áp, bắt bớ, đánh đập và tù đầy, có khi còn phải trả bằng giá máu.
Tôi
còn nhớ những tháng đầu sau 30 tháng Tư khi người Saigon còn đang than khóc vì
nước mất nhà tan, khi những manh nha nhen nhúm phục quốc thì chúng tôi bước vào
nhà tù Cộng sản. Mười mấy năm sau sống sót trở về thành phố cũ, mọi sự đều đã
đổi thay trừ một điều: người dân tiếp tục dùng tên Saigon trong những sinh hoạt
thường nhật, trừ những trường hợp làm đơn xin nhà cầm quyền hay thư từqua lại
giữa người Saigon và người thân ở hải ngoại. Khi sang đến Mỹ, một người bạn
thân của tôi kể lại một câu chuyện có thểlàm khó chịu người đối thoại nếu người
ấy thuộc vào hàng ngũ những người thích biểu lộ lập trường chống Cộng: “Tao gởi
thư về địa chỉ mày đúng như mày nhắn. Nhưng tao muốn nghiệm xem thư có tới
không nếu tao thay chữ thành phố Hồ Chí Minh bằng thành phố Saigon. Cả hai lần thưkhông
tới. Lần thứ ba tao không thay tên ông Hồ bằng tên Saigon thì thư đến tay mày
như mày đã thấy”.
Tôi
biết bạn tôi muốn nhắc nhở một cách cay đắng rằng cái tên ông Hồ đượcđặt cho
một thành phố có nhiều phần mang tính chất hành chánh phù hợp với giaiđoạn lịch
sử của nó. Bất quá nó cũng chỉ như thành phố Volgograd được đổi tên thành
Stalingrad sau khi Stalin lên cầm quyền tại Liên Bang Xô Viết năm 1925, rồi đến
năm 1961 khi Kruschev muốn hạ bệ Stalin thì ông ta để Stalingrad trở lại tên
cũlà Volgograd tức Volga City. St Petersburg một cố đô tráng lệ của nước Nga
Czars Hoàngđã bị đổi tên tới hai lần. Lần thứ nhất vào năm 1914 nó được đổi
thành Petrograd và đến năm 1924 Petrogard lại được đổi thành Leningrad cũng chỉ
vì lãnh đạo hàng đầu của đảng Cộng Sản Nga muốn đánh dấu thành phố này như một
chiến thắng của Lenin, rồi đến năm 1991 khi Liên Xô sụp đổ, Leningrad lại trở
về cái tên cũ St Petersburg muôn thuở.
Cho
nên chống nhau, xỉ vả nhau, tìm mọi cách cấm nhau không được viết thành phố Hồ
Chí Minh mà phải viết thành phố Saigon hay thậm chí thành phố HồChí Minh tên cũ
là Saigon... không thể khiến cho Saigon trở lại với tên cũ của nó. Cái cách tốt
nhất là làm sao chế độ Cộng Sản không còn hiện diện trên đất nước Việt Nam nữa
thì lúc đó mới có cơ may đem tên Saigon trả lại cho Saigon.Đừng có buồn phiền
nhau về những chuyện vô ích như các thắc mắc tại sao lại viết thành phố Hồ Chí
Minh mà không viết là thành phố Saigon? Tại sao không được viết Chủ Tịch Ủy Ban
Nhân Dân thành phố Hồ Chí Minh mà lại phải viết Chủ tịch Ủy Ban Nhân Dân Thành
Phố Saigon? Tranh cãi nhau mãi về những lặt vặt này xảy ra trong đời sống cộng
đồng chỉ tổ tạo thêm những chia rẽ, dẫn tới những đổ vỡ thêm mà thôi. Đáng buồn
là một số người trong khối người Việt tịnạn đã mất Miền Nam rồi, đã khốn đốn
gần trọn tuổi thanh niên vì biến cố này rồi mà vẫn chưa tỏ ra ân hận, vẫn đổ
cho Mỹ, vẫn tại, bởi, vẫn nói dối nhau, vẫn cho nhau uống thuốc an thần, vẫn
chưa bao giờ tự hỏi tại sao Saigon bị thay thếbằng một cái tên của một trùm Đỏ
Việt Nam, lần đầu tiên trong lịch sử từ thời lập quốc và vẫn còn coi nhẹ những
bài học mà Việt Vương Câu Tiễn để lại cho đời sau.
(Còn
tiếp)
11/09/2012
10:17 AM
Trò
đời nếu có quá nhiều húy kỵ cấm đoán bao vây đời sống của những người trong
cộng đồng thì đến một lúc nào đó có một vài người vượt thoát ra khỏi cái hàng
rào ấy và tuyên bố mình tự do là có thể tạo thành một phong trào. Trong hoàn
cảnh này, những người trước đây đã tạo ra cái khung trong sinh hoạt cộng đồng
sẽ bị hề hóa và không sớm thì muộn sẽ bị đào thải. Điều này làm tôi nhớ lại một
chuyện cũ thời chiến tranh. Khoảng thời gian sau khi ký kết hiệp định Paris năm
1973, cái miếng đất trên đó phái bộ MAC-V xây những barracks để cho phái đoàn
Việt Cộng trong Ban Liên Hợp Quân Sự Hai Bên trú ngụ gần căn cứ Tân Sơn Nhất mà
chúng tôi gọi là trại David thường mang một hình ảnh tạo ra nhiều hoài nghi và
sự sợ hãi vào lúc đầu.
Lý
do có thể giải thích được. Ở đây việc chụp hình, chụp ảnh bị giới hạn đối với
báo chí tư nhân bên ngoài. Các phóng viên của báo tư nhân dường như khó được
cấp phép để vào đây làm phóng sự sinh hoạt, ngoại trừ những cuộc họp báo vào
mỗi chiều Thứ Năm nếu như có các phiên họp giữa hai phái đoàn VNCH và phái đoàn
Việt Cộng. Người tổ chức các cuộc họp báo hay tổ chức tiệc chiêu đãi Tân Xuân
là một sĩ quan quân đội Cộng Sản Bắc Việt. Ông ta thường tự xưng là Đại Úy
Phương Nam (dĩ nhiên Phương Nam chỉ là bí danh, tôi nghĩ quân hàm của Phương
Nam lớn hơn tên gọi công khai rất nhiều). Cách ăn nói của Phương Nam khá mềm
mỏng, nhỏ nhẹ, lịch sự. Một vài nhà báo hay than phiền là khó tiếp xúc với
những giới chức có thẩm quyền của phái đoàn Việt Cộng trong Ban Liên Hợp Quân
Sự Hai Bên, Phương Nam chỉ cười xòa, không biện minh và rút ngay ra một bao
thuốc Điện Biên, một loại thuốc lá thơm ra mời và nói: “Thôi, mời các anhđiếu
thuốc như một lời xin lỗi của tôi nhân danh các đồng chí thủ trưởng. Ấy phiền
lắm các anh ơi, cái xã hội chủ nghĩa chúng tôi nó như thế đấy”. Vơi cái cách ăn
nói như thế mà Phương Nam mời được khá nhiều nhà báo trong số những báo tư nhân
ở Saigon vào dự các buổi tiếp tân nhân ngày cuối năm Âm Lịch hoặc dịp tân xuân
khi vào dạo sau này luật lệ an ninh được nới rộng ở trại David.
Là
phóng viên của cơ quan truyền thông chính phủ, chúng tôi được MAC-V cấp cho các
thẻ báo chí đặc biệt có thể ra vào dễ dàng trại David với điều kiện phải có
Công Vụ Lệnh của Hệ Thống Truyền Thanh Quốc Gia cử đi. Phương Nam cũng hay gọi
điện thoại trực tiếp mời tôi tham dự họp báo và các dịp chiêu đãi cuối năm. Một
hai lần đầu do tò mò, tôi thường chọn đi những công tác này cho hệ thống. Nhưng
dự loại họp báo kiểu này mãi cũng chán vì phiên họp nào cũng giống phiên họp
nào. Nhất là vào những lúc do chính trưởng đoàn Việt Cộng là tướng Hoàng Anh
Tuấn chủ trì. Các phóng viên từng tham dự họp báo của Hoàng Anh Tuấn đều đồng ý
với nhau là chớ có đặt câu hỏi với viên tướng này vì câu hỏi một đường, ông ta
sẽ trả lời một nẻo, mỗi câu trả lời dài tới 10 phút, chẳng đâu vào đâu, nhiều
khi chẳng liên hệ gì đến câu hỏi được đặt ra. Chiến thuật của ông ta là nói
huyên thiên chỉ cốt để tuyên truyền, lảng tránh, còn mọi chuyện dường như ông
ta để cho Hà Nội lo.
Nhắc
lại chuyện cũ cũng chỉ là một cái cớ để nói với các độc giả rằng một người
phóng viên, một nhà báo ngoài nghiệp vụ chuyên môn mà mình được huấn luyện, nó
còn đòi hỏi sự quan tâm và tò mò. Thiếu sự quan tâm và tò mò, người làm báo
không thể thực hiện được nghiệp vụ của mình. Những yếu tố này thường thúc đẩy
tôi hay tìm cách nói chuyện với tù và hàng binh Việt Cộng tại mặt trận.
Vềnguyên tắc, một phóng viên làm việc ở mặt trận không được quyền phỏng vấn tù
hàng binh Việt Cộng ngay tại chỗ trước khi cơ quan có thẩm quyền khai thác xong
và nếu được phép. Cho nên, những năm đầu vào nghề, tôi luôn luôn tìm cách “chạy
vạy” để có thể phỏng vấn tù binh tại ngay khi họ vừa đầu hàng. Câu chuyện của
những tù binh này dù chẳng đâu vào đâu trong tình trạng hoang mang sợ sệt những
giờ đầu tiên sau khi bị đẩy vào tình trạng cá nằm trên thớt, chưa biết số phận
mình ra sao, nhưng nó đã làm tăng thêm sự hấp dẫn của những phóng sự tôi gởi về
đài trung ương ở Saigon. Trong cuộc phỏng vấn, tôi hay trao đổi với tù hàng
binh chi tiết về quê hương bản quán, ngày nhập ngũ, tình trạng gia đình, tình
yêu, mộng ước sau khi hòa bình trở lại. Nếu có những lời lẽ được gi âm của
họ,những phóng sự chiến trường mà đài phát thanh gởi đến thính giả chuyên chở
được tính nhân bản hơn. Nó làm cho cuộc chiến của chúng tôi mang ý nghĩa và trở
nên bi hùng tráng hơn. Ít ra là cũng đã có hàng chục lần chỉ với các phóng sự
mỗi cái không dài quá 20 phút cho một mặt trận có khi kéo dài cả tuần lễ, gay
cấn và đẫm máu cũng đã giúp cho môt số gia đình trong Nam biết được điều gì
đang xảy ra ngoài tiền tuyết và giúp họ khả năng có thể tìm được người thân
ruột thịt của mình trong số những tù hàng binh mà tôi phỏng vấn, và phải nói
rằng những trường hợp trên từng làm tôi thực sự xúc động khi có gia đình nghe
xong phóng sự truyền thanh tìm đến tôi hỏi tung tích người thân đi bộ đội từ
Miền Bắc thẩm nhập và tác chiến ở Miền Nam.
Câu
chuyện rất dài, tôi sẽ kể lại trong một bài báo khác hoặc sẽ cân nhắcđể chúng
nằm trong một cuốn sách mà tôi đang viết về cuộc chiến Việt Nam 40 năm trước
đây. Tôi đưa ra một vài công việc mình đã làm trong thời chiến cũng chỉ để xác
định bằng kinh nghiệm của mình rằng, ở đời làm việc gì cũng vậy, cái hăm hở lúc
đầu sẽ nhạt dần nếu công việc cứ diễn ra đều đặn và không có nhiều thay đổi về
nội dung. Cho nên, phải nói rằng những lần đầu, khi tôi vào trại David ở Tân
Sơn Nhứt để gặp tận mặt và nói chuyện với những quan chức Cộng Sản như Hoàng
Anh Tuấn hay Võ Đông Giang, câu chuyện tôi kể và những cuốn băng phỏng vấn thu
thanh các quan chức này gây được sự chú ý cho những đồng nghiệp của tôi. Chính
sách của một hệ thống truyền thanh của nhà nước là không cho phát thanh những
cuộc phỏng vấn phía Việt Cộng mà chỉ được loan báo bằng một tin ngắn. Lúc đầu
việc cấm đoán làm cho tôi hết sức bực bội. Nhưng sau bốn năm lần gặp gỡ,nghe
họp báo của trưởng đoàn, phó trưởng đoàn, phát ngôn viên đoàn thương thuyết
Việt Cộng trong Ban Liên Hợp Quân Sự Hai Bên, tôi bắt đầu chán vì thấy rằng
không có gì thay đổi trong cuộc đàm phán để thi hành hiệp định cả. Cuối cùng
chỉcòn là vài bữa tiệc chiêu đãi vào những ngày cuối năm âm lịch, cho nên tôi
cũng thấy không cần phải vào trại David để săn tin nữa. Điều này cũng dễ hiểu
thôi, khi chưa có thì hăm hở muốn có, nhưng khi có được rồi thì chán vì mình
nhận ra nội dung của những câu chuyện thực ra cũng chẳng có gì hấp dẫn.
Thời
gian định cư ở nước Mỹ của tôi tới nay là 19 năm thì 18 năm sống bằng làm báo
và làm đài. Ấy vậy mà cho tới nay, tôi vẫn còn ngạc nhiên không hiểu, có một số
người ở đây vẫn còn muốn tạo lập một cộng đồng chống Cộng khép kín. Làm như ở
xã hội này chỉ có một đài phát thanh duy nhất giống như đài phát thanh Saigon
khi xưa, chỉ có một tờ báo duy nhất giống như tờ Nhân Dân hay QuânĐội Nhân Dân,
chỉ có một tờ tạp chí là tạp chí Học Tập sau này là tạp chí Cộng Sản ở Miền Bắc
Việt Nam, chỉ có một hội đoàn duy nhất là ban đại diện cộng đồng chống Cộng chi
phối tất cả đường lối chính trị và suy nghĩ của đồng hương. Những tư tưởng khác
đường lối chống Cộng hay chống khác kiểu chống Cộng của họ đều bịnhìn với con
mắt hoài nghi. Sự ngạc nhiên nơi tôi càng đi xa hơn khi tờ Thời Sự của nhà báo
Vũ Bình Nghi ở San Jose mở cuộc phỏng vấn Tổng Lãnh Sự Việt Nam ở San Francisco
là Nguyễn Xuân Phong. Cuộc phỏng vấn theo lời ông Nghi là có thu thanh và khi
chuyển thành chữ trên báo là chuyển dưới hình thức “Q & A”, tức là vấn đáp.
Thật ra, nội dung cuộc phỏng vấn không phải là một “trái bom” như một số người
tưởng bởi vì lời lẽ của Nguyễn Xuân Phong cũng không khác gì lời lẽ của những
anh quản giáo trong những trại giam Cộng Sản mà chúng tôi từng phải nghe trong
mười mấy năm tù cải tạo. Cho nên, nếu bình tĩnh một chút sẽ thấy nội dung cuộc
phỏng vấn ấy là một cơ hội tốt để những người làm tuyên vận dùng nó như một
chất liệu tốt để viết những bài phản bác lời lẽ của Phong.
Nhưng
không thế, một vài nhà chống Cộng lúc đó vội vã dấy lên phong trào chống Vũ
Bình Nghi. Thế là biểu tình, chửi rủa, áp lực tờ Thời Sự dù kéo dài đến mấy
cũng phải kết thúc vì một lẽ là nếu có kéo dài được từ năm này qua năm khác,
người biểu tình cũng không thể vượt qua được cái bức tường Đệ Nhất Tu Chính Án
Hiến Pháp Hoa Kỳ. Ở Mỹ, quyền biểu tình được tôn trọng, nhưng ngay cảQuốc Hội
cũng không thể đóng cửa một tờ báo nào cho dù tờ báo này chỉ trích hành pháp,
lập pháp, tư pháp nặng nề. Người Mỹ gọi báo chí là đệ tứ quyền là như vậy, một
thứ quyền độc lập đối với cả hành pháp, tư pháp và lập pháp Hoa Kỳ.Một số thành
phần chống Cộng ở Nam California cũng như ở các cộng đồng người Việt khác trên
đất Mỹ thường hay lập luận: nên thông cảm họ (những người ưa chửi rủa người
khác chỉ vì họ không đồng tư tưởng với mình) vì những nạn nhân Cộng sản này đã
phải trả cái giá đắt với người Cộng Sản.
Thực
ra, đâu có ai là không thông cảm họ đâu, nhưng làm cách nào để đánh giá những
cái giá của họ với cái giá mà người khác cũng phải trả như vậy? Thực hiện một
việc gì trong phạm vi đệ tứ quyền nhưng vô tình đã khơi dậy vết thương của
người khác có thể định nghĩa như một cái tội được không? Chẳng hạn như khi một
nhà báo cần gặp một nhân vật Cộng Sản để phỏng vấn và đưa ra những câu hỏi mà
mình thắc mắc liệu có tiềm năng khởi dậy hay thực sự khơi dậy những nỗi đau của
một số nạn nhân Cộng Sản không? Bố tôi chết vì những người Cộng Sản có thểkhiến
tôi thù ghét Cộng Sản nhưng liệu điều đó có cho tôi khả năng buộc người khác
cũng phải thù ghét cộng sản như tôi không? Trong chế độ VNCH có việc kiểm duyệt
báo chí mà có nhiều vị vẫn coi như Miền Nam có tự do báo chí, liệu những vị ấy
có thể áp lực người khác để đòi kiểm duyệt báo chí trong cộng đồng này được
không? Một số nhà chính trị chống Cộng theo một kiểu, liệu ở trên đất nước tựdo
này, các vị ấy có thể buộc mọi người chống Cộng phải chống theo kiểu của mình
được không? Biết bao nhiêu vấn đề được đặt ra mang tính nguyên tắc nhưng sẽlàm
cho mọi người cảm thấy lạ lùng là tại sao cho tới nay, ngay người Việt tựdo lại
phải quay về những ngày đầu học tập dân chủ khi phải trả lời những câu hỏi
trên? Cá nhân, tôi tin rằng sở dĩ có tình trạng này, vì trong cộng đồng chúng
ta vẫn còn những người dù trải qua những đau khổ của mất nước vẫn còn mang cái
ảo tưởng về một thứ quyền lực mà mình thực sự không còn nữa. Mầm mống của chia
rẽcộng đồng như ngày nay chính là đến từ lớp người này, từ những suy nghĩ lệch
lạc này.
Tòa
Tổng Lãnh Sự Việt cộng nằm ở thành phố San Francisco. Lẽ ra khi bài phỏng vấn
viên tổng lãnh sự xuất hiện trên báo chí, người chống Cộng phải kéo nhau tới
chỗ này đểphản đối và buộc Nguyễn Xuân Phong phải trả lời về những điều mà ông
ta nói rađụng chạm đến cộng đồng Việt Nam tỵ nạn. Đàng này, những người mang
danh biểu tình chống Cộng lại không hề chống những cốt cán của Cộng Sản ngay
sát bên mình mà chỉ là mượn gió bẻ măng, chống nhau cho đã giận, cốt tạo ra một
cơ hội vỗ ngực xưng tên, không hề mang lại lợi ích chính trị nào cho cộng đồng.
Có lẽ từ ngữ “đấu đá” là từ thích hợp nhất dùng để chỉ sự biến dạng của một
cuộc đấu tranh lâu dài và đầy khó khăn nhưngăn chống ảnh hưởng của Cộng sản tại
một đất nước có bang giao với Cộng sản. Ngược lại, hiện tượng múa may của một
số lãnh tụ chính trị cộng đồng còn khiến cho đám cán bộ ngoại giao ở các tòa Tổng
lãnh Sự Việt Cộng vỗ tay cười: “Thấy không, chống bọn mình đâu chưa thấy mà
thấy họ chống nhau. Hóa ra mình chỉ cần khều một anh nhà báo hay một thủ lãnh
chính trị thiếu bản lãnh đến phỏng vấn hay gặp bọn mình là sẽ có chuyện xào xáo
giữa họ với nhau, chúng ta ở đây thà hồmà an toàn”.
Đây
chỉ là một trong số hàng trăm câu chuyện về cung cách biểu lộ lập trường chống
Cộng của một số người trong cộng đồng này. Dường như họ chưa bao giờ quen với
vận động và thuyết phục. Tôi không dám nói là tất cả vì tôi hiểu rằng cộng đồng
chúng ta là cộng đồng tị nạn Cộng Sản, không nhất thiết mọi người phải nhìn về
cái quá khứ của cuộc chiến và những người Cộng sản giống nhau. Bởi vì nếu mọi
người tôn trọng quyền suy nghĩ của nhau, nếu những lời chỉ trích là những lời lẽ
phải chăng, lịch sự nhưng không thiếu sắc bén thì không có vấn đề gì phải đặt
ra, và chẳng bao giờ có sự rạn vỡ trong cộng đồng như ngày nay. Và không có
kiểu biểu lộ lập trường của mình bằng cách áp lực, bịt miệng người khác, không
cho những người bị chỉ trích lên tiếng, báo chí và đài phát thanh trong cộng
đồng dù là tư nhân, nhưng cũng không dám lên tiếng bênh vực người bị tấn công
thì ngày nay đâu có xảy ra vụ vài nhà báo, nhà chính trị cho rằng việc mình
được phép về Việt Nam, được tiếp xúc với các viên chức ngoại giao Cộng Sản như
là thành quả, một thắng lợi có tính chất thách thức như chúng ta hiện đang phải
chứng kiến. (V.A)
(Còn
tiếp)
11/11/2012 10:04 AM
Hai
mầu trắng đen hòa với nhau theo một tỷ lệ nhất định sẽ biến thành mầu xám. Cũng
giống như mầu xám, nguyên nhân của những bất cập trong xã hội đến từnhững việc
làm không trắng, không đen phân minh. Một cộng đồng duy nhất và độc lập biểu
tượng cho danh dự của khối đồng hương đã bầu lên ban đại diện đó. Cho nên nó
phải là mầu trắng chứkhông phải đen hay xám. Ấy thế mà người ta cứ dựng lên một
cộng đồng mang danh là duy nhất nhưng thực tế bên cạnh đó vẫn có ít nhất là hai
ban đại diện cộng đồng khác còn tồn tại. Còn sự trí trá và khinh thường nào hơn
đối với các đồng hươngở đây hay không? Đó là chưa kể đến những trò thiếu dân
chủ, ấu trĩ như tìm cách loại người này đôn người kia thuộc “phe ta” vào
ban đại diện. Báo chí và đài phát thanh Việt ngữ ở đây đã nhiều lần lên tiếng
cáo giác những hành vi mập mờ, thiếu dân chủ của toàn bộ cuộc bầu cửcộng đồng
hồi năm ngoái, nhưng các ông bà trong ban đại diện cộng đồng “duy nhất”
vẫn tỉnh bơ “cổ cồn cà vạt” đến dự những các buổi lễlạc hay biểu tình
chống Cộng trong cộng đồng. Thử tưởng tượng xem những ông bà này mà lên tiếng
chỉ trích bọn Đỏ ở Hà Nội “thiếu dân chủ”, “suy đồi chính trị hay đàn áp
chính trị” thì người ngoài đứng nhìn sẽ phải nói ra sao?
Hồ
sơ về nhân quyền của Việt Nam sở dĩ ngày một dầy lên, hành động đàn áp ngày một
thô bạo hơn cũng chỉ vì những ông như Nguyễn Phú Trọng, Trương Tấn Sang hay
Nguyễn Tấn Dũng cũng cứ sợ bóng sợ gió các cuộc biểu tình bày tỏ lòng yêu nước
sẽ biến thành chống các ông ấy nên mới bắt bớ lung tung những cá nhân bất đồng
chính kiến hay những bloggers chạy sang lề trái. Ở cộng đồng ta, một thiểu số
gồm những nhân vật nổi tiếng “mùa chay nào cũng có nước mắt” nay dấy lên
phong trào này, mai thành lập ủy ban nọ với những cái tên rất kêu làm như phen
này thì Việt Cộng và tay sai hết đường chạy thoát, chỉ cố để có nơi tha hồ múa
may quay cuồng. Nhưng thực tế mà nói hoạtđộng của họ chỉ là tố cáo người khác
là cộng sản hay tay sai cộng sản mà chẳng bao giờ nêu ra được bằng chứng cụ thể
nào. Hoàn toàn chỉ là chửi đổng. Phải nói rằng văn hóa chịu đựng trong cộng
đồng này đã lên tới mức siêu việt. Bị mặc áođội nón cộng sản, các nạn nhân cũng
vẫn cắn răng, không phản ứng từ hơn 3 thập niên nay cho tới khi một vụ kiện
bùng nổ giữa ông Nguyễn Phương Hùng và một sốngười ký tên vào một văn bản tố
ông ta là cộng sản. Tôi không muốn đi sâu vào vụkiện và cũng không muốn bênh
vực bên nào, nhưng tôi chỉ nêu ra một thắc mắc: làm cách nào có thể chứng minh
trước tòa một người là cộng sản ? Tố họ là người cộng sản vì họ đã viết những
bài báo ca tụng cộng sản, vì đã tiếp xúc với cộng sản, vì đã chụp hình chung
với cộng sản, vì làm ăn kinh doanh với cộng sản, vì về Việt Nam theo lời mời
của chính quyền cộng sản? Những yếu tố này không đủ để kết luận một người là
cộng sản tức là đảng viên của đảng cộng Sản. Vào đảng thì phải có ngày tuyên
thệ gia nhập và có những văn kiện của đảng cộng Sản chấp nhận cho gia nhập.
Những câu hỏi này được đặt ra cốt là để chứng tỏ một điều trước tòa án Mỹ một
đảng viên đảng Cộng Sản Việt Nam không có tội trừ phi người cán bộ này vi phạm
luật pháp Hoa Kỳ. Vậy thì khi tố cáo người khác là cộng sản hay tay sai thì
phải thận trọng. Người bị tố có thể kiện ngược lại tội phỉ báng cá nhân hay tội
cáo gian. Vả lại cho dù có chứng minh được một người là đảng viên cộng sản mà
không chứng minh rằng người này làm hại mình như thế nào thì cũng chẳng làm gì
được ông ta hay bà ta.
Từ
trước, trong cộng đồng này, vẫn có một số người tôn sùng chủ nghĩa cảvú lấp
miệng em, chủ nghĩa hù dọa, nào là dọa “nghỉ chơi” nghĩa là khai trừ ra
khỏi cộng đồng, nào là tuyên cáo lên án, nào là biểu tình phản đối và trong
nhiều trường hợp vung ra những lời chửi rủa tục tằn. Lúc đầu trò này còn có vẻ “ăn
khách” tức là kích động được những đồng hương chưa hiểu rõ nội vụ, nhưng
lâu dần về sau này đồng hương cũng đã hiểu, đã chán, xa lánh những kiểu cáo
giác như thế và chẳng ai để ý đến những phần tử này nữa. Trò đời khi những cuộc
biểu tình phản đối biến thành những vụ tập họp la hét loạn xạ, dọa nạt nhau mãi
thì một lúc nào đó có người đứng ra huỵch toẹt: “Tôi thân cộng, tôi làm tay
sai, tôi đếch chống Cộng theo kiểu của các ông, các bà chống thì làm gì tôi
nào?” lúc đó mới tỉnh giấc quay về thực tạiđể hiểu rằng quả thật những áp
lực chính trị hạng bét này chỉ là trò dọa nạt của những anh khiếm thị đối với
những người còn nhìn thấy ánh sáng.
Biến
cố 30 tháng 4 năm 1975 đã đẩy bao nhiêu triệu dân Miền Nam Việt Nam vào cái ách
Cộng sản, quân đội tan rã, những người lính nào còn trách nhiệm vớiđồng đội
đành câm lặng bước vào sau những cánh cổng nhà tù, những người thiếu trách
nhiệm thì tìm cách bỏ đi, những lãnh đạo từng một thời bổng lộc và tranh giành
quyền lực thì phản lại chính bộ quân luật do họ đặt ra. Sống với thân phận của
người lưu vong sau cái thất bại lớn lao như thế, lẽ ra họ phải im lặng, nằm
gai, nếm mật đắng duyệt lại tất cả những hành động của mình trong cuộc chiến
trướcđây, những gì còn thích hợp thì giữ lại trau chuốt dùng chúng làm thành
nền móng cho một cuộc chiến đấu khác, những gì vẫn còn hình ảnh những đám mây
mầu xám của sự thiếu dân chủ, tự do thì mạnh dạn vứt nó đi, thương tiếc làm gì.
Ấy thế mà đã hơn 36 năm qua rồi, trên những trang sử phát triển của cộng đồng
Việt Nam đã đầy kín những vết đen, vết xám cấu tạo bằng những hành động phi dân
chủcủa những chính trị gia chống cộng nửa mùa. Kêu gào tự do dân chủ trong đó
có tựdo tư tưởng cho Việt Nam, chỉ trích nặng lời những hành động kiểm soát báo
chí truyền thông của Hà Nội trong khi chính mình thì cũng làm y chang như vậy.
Cái nghịch lý này không có cách nào giải thích được. Trước đây, khi chúng ta
còn phải chiến đấu với kẻ thù cộng sản trước mắt thì việc kiểm duyệt báo chí,
tịch thu báo, cắt xén những bài báo mà nhà cầm quyền VNCH nghĩ là bất lợi cho
cuộc chiến đấu chung còn có thể tạm châm chước được. Nhưng nay cộng đồng Việt
Nam sống ngay trên đất Mỹ tự do dân chủ mà vẫn giữ thái độ cũ thì có cách nào
đểtha thứ ? Rất may cho đồng hương là thiểu số này không còn quyền lực chứ nếu
mà họ còn quyền, tôi sợ rằng những người có tư tưởng đi ngược lại họ cũng sẽ
bịcùm kẹp ngồi tù chứ không phải chỉ có lãnh những lời lẽ chỉ trích tục tằn
nhưhiện nay mà thôi đâu!
Nói
tóm lại trong một xã hội mà những người dẫn dắt dư luận thấy bất cứ điều gì
khác mình cũng là một “big deal”như trong chế độ độc tài ở Việt Nam ngày
nay, hay trong một xã hội mà người tađặt ra quá nhiều húy kỵ phi lý thì những
người nào đi ngược lại những điều ấy bỗng nổi tiếng và có thể trở thành người
hùng, dù thực chất sự đi ngược lại ấy chưa chắc đã là đúng, chưa chắc đã là hợp
lý. Trong xã hội ở Little Saigon này thôi, sinh hoạt nào cũng được đóng khung
giống nhau, hình thức giống nhau, nói năng giống nhau như người máy, diễn văn
và phát biểu giống nhau thì quả cũng nản thật và càng ngày người ta càng mất
kiên nhẫn để ngồi nghe những truyền đơn chính trịnhảm nhí ấy. Trong bối cảnh
này có nếu một anh nào, chị nào đó bực quá nhảy ra hô hoán: “Không! Các vị
'rét' nên không dám nói ra sự thực. Sự thực nó là như thế này, thế này này...”.
thì lập tức người ta tất phải chú ý tới chiều ngược ấy dù chưa hiểu giáp ất
gì, thì ít nhất nó cũng là một luồng gió mới cái đã. Sau đó mới hạ hồi phân
giải.
Trong
thời buổi hiện nay, những ai còn sùng bái cái lối tẩy não của Goering, trùm
tuyên truyền xám của Đức Quốc Xã thì sẽ thất vọng. Sự phát triển của truyền
thông mạng ngày nay khiến cho phương thức “nói sai mà nhắc lại cái sai thật
nhiều lần thì riết rồi nó cũng trởthành đúng” dễ biến dạng thành một con
dao hai lưỡi. Tác dụng tất sẽ ngược lại và người chủ trương sẽ lãnh thiệt hại
hết sức nặng nề: Không ai tin mình nữa mà họ quay sang tin kẻ thù ! Cho nên,
những người nghĩ rằng mình cần phải có hành động nào đó để chống lại nhóm ký
giả vừa về Việt Nam sẽ chỉ có khả năng trở thành những Don Quichote mà thôi.
Tốt nhất là cứ để cho nó diễn tiến như thường tình, nghĩa là bỏ cái thói hầm hè
dọa nạt biểu tình tẩy chay đối với bất cứ nhà báo nào tìm cách lân la tham dự
sinh hoạt của người cộng sản, về nước dự hội nghị Việt kiều hay viếng thăm theo
lời mời của nhà cầm quyền Hà Nội, ngay cả tham dự hội nghịtruyền thông do chính
họ tổ chức. Lẽ ra những nhà hoạt động ở đây còn phải khuyến khích những nhà báo
trong cộng đồng tỵ nạn mở các cuộc tiếp xúc, phỏng vấn các viên chức ngoại giao
Cộng Sản Việt Nam tại Mỹ, vì đây là dịp mà người phóng viên trong một chế độ tự
do có thể đặt thẳng với họ về những hồ sơ nhân quyền cụthể như vụ linh mục Lý,
Cù Huy Hà Vũ, vụ tham nhũng Vinashin, vụ in tiền polymer. Tại sao lại cứ phải
dùng tin từ các đài quốc tế RFI, RFA, BBC hay mạng VnExpress chứ? Tại sao lại
cứ phải lo xa những nhà báo này bị cộng sản hóa, bịtẩy não, bị thuyết phục bởi
những viên chức ngoại giao này? Vì thế, tôi tin rằng “cởi trói cho báo chí
truyền thông trong cộng đồng tị nạn sẽ dần dần dẫn đến một kết quả tốt là báo
chí truyền thông ở đây không còn bị biến thành những cơ quan chuyên pha nước
đường hay thuốc an thần bất đắc dĩ cho đồng hương nữa”. Nó sẽ là một nền
báo chí rất mạnh, vì chỉ thông tin đa chiều thật sự, có kiểm chứng của người
đọc thì mới tồn tạiđược, còn thông tin đa chiều “dởm” theo cái kiểu “của
hiếm” sẽ bị đào thải. Khi việc đi theo lề trái, lề phải được điều hòa và
cân bằng thì mọi chuyện trởthành bình thường và quyền phân xử sẽ rơi vào tay
người đọc và đồng hương. Người ký giả nào dù sinh hoạt trong cộng đồng hay ở
Việt Nam mà lại chỉ viết được những bài báo giống như bài của bọn bồi bút của
chính quyền trong nước thì người đọc sẽ không đọc vì nếu có nhu cầu thì người
ta đọc báo Việt Nam chứ ai đọc bản sao của chúng trong cộng đồng này?
Với
một nền báo chí mạnh mẽ, trắng đen phân minh, thì những phần tửchính trị xôi
thịt, dùng cái gọi là lập trường chống cộng chỉ để đánh bóng tên tuổi mình sẽ
bị loại bỏ. Trong bối cảnh ấy, những nhà ngoại giao Cộng sản muốnđối thoại với
cộng đồng tị nạn cũng phải tiến hành những bước thận trọng chứkhông dễ dàng là
chỉ cần liên lạc với vài tên mối lái là họ có thể khuấy động những tranh cãi để
thừa nước đục thả câu như hiện nay. Hy vọng bức tranh sinh hoạt cộng đồng trong
những ngày tới có nhiều mầu trắng hơn là đen và loại bỏ hẳn việc dùng mầu xám!
Mong lắm thay! (V.A)
No comments:
Post a Comment