Trọng Thành – RFI
Thứ bảy 24 Tháng Mười Một 2012
Hai ngày trước lễ
khai mạc thượng đỉnh về biến đổi khí hậu tại Doha (Qatar), hôm nay 24/11/2012,
Le Figaro đăng bài « Khí hậu : Các tín
hiệu báo động khắp nơi đều đỏ ». Liệu hội nghị thượng đỉnh lần thứ 18 này
có đạt được một thỏa thuận quốc tế mới, cho phép hạn chế nhiệt độ gia tăng trên
hành tinh chúng ta hay không ? Le Figaro điểm qua một số thách thức đối với hội
nghị này.
Bài viết trên Le Figaro mở đầu với lời phát biểu ngắn của
tổng thống Mỹ, mang lại niềm hy vọng, ngay sau khi tái đắc cử: « Chúng ta không
muốn con cháu chúng ta phải sống trong một thế giới bị đe dọa bởi việc trái đất
bị hâm nóng », trong bối cảnh Hoa Kỳ vừa trải qua nhiều thiên tai gây thiệt hại
nặng, như cháy rừng, bão lốc... Tuy nhiên Le Figaro đặt câu hỏi : liệu việc Hoa
Kỳ quan tâm trở lại đến cuộc chiến chống biến đổi khí hậu có thể thúc đẩy các
thương thuyết quốc tế hay không ?
Từ khắp nơi, các tín hiệu báo động đỏ dồn dập gửi về : từ
Châu Âu, Ngân hàng Thế giới, Chương trình Môi trường Liên Hiệp Quốc, từ các nhà
khoa học… Các báo động nhắc nhở rằng, nếu chúng ta không kiên quyết giảm lượng
khí gây hiệu ứng nhà kính (GES), khí CO2 hay methane, thì nhiệt độ trái đất sẽ
tăng lên rất nhanh, nhanh hơn nhiều so với dự kiến.
Hiện tại, công cụ duy nhất của quốc tế về mặt pháp lý để
giới hạn khí thải gây hiệu ứng nhà kính là Nghị định thư Kyoto, sẽ tới hạn vào
cuối năm nay. Tuy nhiên, Nhật Bản, Canada và Nga đã cho biết sẽ không ký tiếp
cho việc triển hạn chế tài pháp lý này. Chỉ có Châu Âu, Úc, Thụy Sĩ và Na Uy là
sẵn sàng. Mà, tất cả khối các nước này chỉ chịu trách nhiệm có 15% lượng khí
thải toàn cầu.
Hội nghị Doha sẽ được coi là thành công, nếu như nó thực
hiện được các bước tiến đầu tiên hướng về một thỏa ước mới toàn cầu chống biến
đổi khí hậu, định hình vào năm 2015 và có hiệu lực từ năm 2020. Khuôn khổ pháp
lý của thỏa ước và sự chia sẻ trách nhiệm giữa các quốc gia là hai vấn đề chủ
yếu của các đàm phán tại Doha. Nhà kinh tế học Nicholas Stern nhấn mạnh rằng :
« Việc giảm bớt lượng khí thải mang lại các cơ hội lớn cho sự tăng trưởng. (…)
thúc đẩy một thời kỳ đầy sáng tạo và cách tân của cuộc cách mạng công nghiệp,
đóng góp mạnh mẽ cho sự phát triển của các nước nghèo ».
Về chủ đề này, tờ La Croix có loạt bài giới thiệu để hiểu
về hội nghị thượng đỉnh Doha. La Croix nhấn mạnh đến mong muốn của Châu Âu đạt
được một thỏa ước mang tính bó buộc, với sự tham gia của các nước thuộc nhóm «
đang phát triển » hay « đang trỗi dậy ». Đây là điều khó khăn, vì Trung Quốc và
Hoa Kỳ - hai nước gây ô nhiễm chính - cho đến nay vẫn không muốn tham gia. Cộng
đồng quốc tế hy vọng báo cáo kỳ tới của nhóm chuyên gia về biến đổi khí hậu
Giec vào năm 2014, để đánh động công luận, trước khi tái khởi động các đàm
phán.
Hơn 2/3 diện tích rừng có nguy cơ bị hủy diệt vì trái đất
nóng lên
Cũng liên quan đến biến đổi khí hậu, Le Monde có bài : «
Hai phần ba cây cối trên thế giới có nguy cơ bị hủy diệt », với nhận định, rừng
– lá phổi của hành tinh - dễ bị tổn thương hơn nhiều trước các biến đổi khí hậu
so với các dự đoán khoa học.
Kết luận gây chấn động kể trên rút ra từ một nghiên cứu
khoa học đầu tiên về hiện tượng này trên quy mô toàn cầu. Nghiên cứu do Viện
nông học Pháp tiến hành, cùng với các đại học Western Sydney (Úc) và Ulm (Đức),
được công bố trên tạp chí khoa học Nature (đưa lên mạng ngày 21/11), cho thấy «
sức khỏe » của 70% cây cối trên hành tinh hiện nay đang ở trong tình trạng hết
sức bấp bênh. Điều này đúng với thực vật ở các khu vực khác nhau, từ vùng nhiệt
đới đến vùng ôn đới.
Nhà nghiên cứu Hervé Cochard, Viện Nông học Pháp tóm lại
tình trạng sức khỏe đáng lo ngại này như sau : « Tất cả cây cối và tất cả rừng
trên trái đất liên tục sống trong tình trạng đe dọa bị kiệt nước. Cần phải có
một sự phối hợp toàn cầu để có giải pháp cho các hệ sinh thái bị khô kiệt ».
Điều chủ yếu được các nhà nghiên cứu làm sáng tỏ trong
nghiên cứu này là hiện tượng nghẽn mạch của nhựa cây. Trong trường hợp khô hạn,
để chống lại việc thiếu nước, cây buộc phải gia tăng tốc độ bơm nhựa ra các
cành. Tốc độ bơm nhựa càng cao, thì càng có nhiều nguy cơ xuất hiện các bóng
khí trong « hệ thống mao mạch » của cây. Sự hình thành các bóng khí cản trở sự
lưu thông của nhựa cây. Nghiên cứu cho thấy, các vùng rừng khác nhau trên trái
đất đều ở gần mức giới hạn của sự chịu đựng.
Nhiệt độ nóng lên cũng khiến cây khép lại các lỗ khí, để
tránh mất nước. Cũng vì thế mà cây không còn hút được CO2 và quá trình quang
hợp bị ức chế, cản trở việc tạo ra dưỡng chất nuôi cây. Cây buộc phải hút kiệt
những chất dự trữ cho đến khi kiệt sức. Quá trình hủy diệt của cây còn bị gia
tăng bởi sự tấn công của các loài ký sinh….
Hiển nhiên là cây cối có khả năng thích nghi với việc khí
hậu nóng lên, tuy nhiên, theo đánh giá của các chuyên gia, 40% nhóm các cây
rộng lá đã vượt quá mức chịu đựng thông thường, và chỉ có 6% các cây có quả
hình nón là còn có thể chịu đựng được việc nhiệt độ tăng lên. Cây lá rộng và
cây hình quả nón là hai nhóm cây chủ yếu trên trái đất.
Theo Le Monde, phát hiện bất ngờ gây ngạc nhiên này dẫn
đến việc phải xem xét lại các kịch bản về những thảm họa có thể xảy ra, mà cho
đến nay vốn chưa được giới khoa học tính đến. Việc cây cối chết đi nhanh hơn
tốc độ dự kiến là những mối đe dọa mới.
Thứ sáu 23 Tháng Mười Một 2012
Báo Le Monde hôm nay có bài : « Bắc Cực bị ô uế vì chất thải hạt nhân đến hàng trăm năm nữa ». Tổ chức bảo vệ môi trường « Robin hiệp sĩ rừng sâu » (Robin des bois) liệt kê 90 địa điểm bị nhiễm chất phóng xạ tại vùng Bắc cực. Theo tổ chức này, chính các hoạt động công nghiệp và quân sự từ thời chiến tranh lạnh cùng với các hoạt động khai thác quặng mỏ hiện nay đang biến vùng Bắc cực thành một nghĩa địa hạt nhân khổng lồ, để lại những tác động nghiêm trọng về môi trường và sức khỏe con người trong khu vực.
Khác với bản điều tra
thực hiện vào năm 2009, chỉ liệt kê tổng cộng 2750 địa điểm bị nhiễm chất hóa học, lần này, tổ chức ONG của Pháp quan tâm đến các vấn đề hóc búa và có tính bền vững hơn. Sau hai năm điều tra và thu thập dữ liệu, với sự hợp tác của các hiệp hội bảo vệ môi trường, các nhà khoa học và các chính phủ, tổ chức « Robin des bois » ghi nhận 90 địa điểm bị nhiễm chất phóng xạ do các
hoạt động công nghiệp và quân sự. Các điểm này nằm rải rác ở các nước xung
quanh vùng Bắc cực, bao gồm Canada, Thụy Điển, Na Uy, Alaska, vùng Greenland của Đan Mạch, và đứng đầu danh sách đen là nước Nga.
Theo giải thích của tổ chức, đây chính là hậu quả để lại từ thời chiến tranh lạnh. Trong giai đoạn 1955
và 1990, Nga đã tiến hành đến 138 vụ thử hạt nhân trên không, trên mặt đất và dưới biển. Nhất là, vào ngày 30/10/1961, Nga đã cho nổ thử bom được mệnh danh là « Bom Sa hoàng », quả bom H siêu mạnh nhất trong lịch sử (với sức công phá lên đến 50 triệu tấn).
Vùng biển Barent và Kara thuộc quần đảo Novaya Zemlya là một nghĩa địa hạt nhân của ngành công nghiệp và hạt nhân Nga. Theo các nhà bảo vệ môi trường, nằm sâu dưới lòng biển các chiến tàu ngầm hạt nhân, tàu phá băng chạy bằng hạt nhân, trong số đó có nhiều chiếc chứa các chất phóng xạ, hàng trăm vật dụng bị nhiễm xạ và hàng chục ngàn conteneur chất thải phóng xạ.
Không những thế, trong những năm 1960, Liên Xô đã cho xây dựng trên vùng bán đảo Kola
ba bể làm lạnh các thanh nhiên liệu đã qua sử dụng từ các chiếc tàu ngầm hạt nhân hay các tàu phá băng chạy bằng điện hạt nhân. Hai trong số ba bể chứa đó đã làm rò rỉ các chất phóng xạ, gây ô nhiễm nghiêm trọng.
Không chỉ có Nga là tác nhân chính, mà còn phải kể đến Hoa Kỳ. Cũng trong những năm 1960 đó, hai lò phản ứng hạt nhân với công suất 10 và 20 megawatts đã được xây dựng, để cung cấp điện cho các khu căn cứ quân sự tại Alaska và vùng tây bắc Greenland. Một loạt các sự cố hạt nhân tại lò thứ nhất đã làm ô nhiễm trầm trọng nguồn nước. Hậu quả là các nhà khoa học ghi nhận nhiều ca bệnh ung thư máu, bất chấp các phủ nhận của chính phủ Mỹ. Trong khi đó, việc khai
thác lò phản ứng thứ hai có lẽ đã để lại trong lòng đất băng giá « ít nhất 200 tấn chất thải lỏng ».
Cuối cùng, tổ chức này còn chỉ đích danh đến Canada. Từ năm 1930 cho đến năm 1962, xung quanh khu vực hồ Gấu lớn, chính quyền
Canada đã cho tiến hành khai thác các mỏ radium và
uranium, mà một phần khai thác được xuất khẩu qua Hoa K ỳ để sản xuất vũ khí nguyên tử. Hơn 900 ngàn tấn chất thải uranium đã được để lại khu vực khai thác,
trong đó có 740 ngàn tấn là nằm sâu dưới lòng hồ. Đó là chưa kể đến các vụ tai nạn, như vụ rơi vệ tinh do thám Cosmos – 954 của Liên Xô năm 1978 hay vụ rớt máy bay B-52 của Mỹ có mang các đầu đạn hạt nhân tại Greenland năm 1968.
Đối với các chuyên gia của tổ chức Robin des bois, Bắc Cực không những phải trả giá đắt cho các hoạt động của con người trong quá khứ mà sẽ còn tiếp tục trả giá cho các hoạt động hiện tại. Việc khai thác dầu khí cũng như là quặng mỏ đang làm phát sinh ra các chất thải phóng xạ tự nhiên.
Với lượng ô nhiễm nghiêm trọng như thế, tổ chức ONG của Pháp đánh giá rằng các chiến dịch tẩy nhiễm sẽ gặp rất nhiều khó khăn và tốn kém do ô nhiễm đã bị phát tán lan ra trên một vùng diện tích quá rộng lớn. Có lẽ là cũng nên liệt kê vùng Bắc Băng Dương vào diện khu vực cần được bảo tồn như là vùng Nam Cực.
No comments:
Post a Comment