Tháng 3/1975, cuộc di tản kinh hoàng
trên con đường máu tỉnh lộ 7B (Phần 9 và hết)
Nguyễn Đình Nguyên | Bauxite Việt Nam
Posted
on 13/05/2025 by Boxit
VN
https://boxitvn.online/?p=93749#more-93749
Tháng
Tư 1975
Nha Trang
ngày… tàn
Đêm
đầu tiên chúng tôi trú ngụ tại nhà thờ, nhưng rồi dân di tản kéo tới tá túc
ngày càng đông, nên sinh hoạt rất bất tiện, nhất là nhà đông con nhỏ như chúng
tôi.
Ngày
hôm sau, ba tôi tìm được một khách sạn, nếu không nhầm là Khách sạn Kim Liên, số
5 đường Nguyễn Hoàng (cũ, tôi được biết là con đường này sau đó đổi tên thành
đường Ngô Gia Tự), đối diện xéo bên là bến xe khách Nha Trang.
Chủ
khách sạn là một sĩ quan quân đội VNCH, tôi không nhớ tên nhưng chỉ nhớ là ông
mang hàm đại tá. Đó là một căn nhà lầu 2 tầng, dưới trệt có 6 phòng ngủ liền kề,
chỉ có hai nhà tắm giặt phía cuối sau nhà, trên lầu là gia đình ông ở.
Gọi
là thuê, nhưng ba tôi có nói thật với ông là chúng tôi là dân chạy giặc, di tản
từ Pleiku xuống đây, chưa có tiền trả ông ngay. Có lẽ chỉ cần nhìn chúng tôi là
ông biết rồi, nên ông không nói gì, bảo chúng tôi cứ ở, rồi chuyện tiền nong
tính sau. Ông cho nhà tôi thuê 1 phòng, 5 phòng còn lại sau đó cũng có các gia
đình khác vô thuê kín hết. Tôi chỉ gặp ông một lần, còn lại vợ và con ông tôi
không gặp, họ ở trên lầu.
Ngày
hôm sau là chúng tôi ra đường, chỉ sau một đêm thành phố Nha Trang
như một ổ kiến vỡ. Quang cảnh hỗn loạn, súng ống, đạn dược, quần áo lính VNCH vất
đầy đường. Dân thành phố Nha Trang lục tục kéo nhau
ra đi, thành phố trở thành vô chủ và bất kiểm soát. Rồi súng nổ, rồi cướp bóc.
Một số lính cầm súng đi bắn phá các cửa tiệm vàng, vô lấy vàng như lấy của
nhà.
Từng
đoàn người kéo nhau đi phá các kho gạo, kho lương thực, kho quân tiếp vụ. Tôi
thấy các bác đạp xe xích lô trên xe chở đầy gạo, xe thì chở hàng thùng nước mắm,
hàng súc, két nước ngọt. Thấy hai anh em tôi chơi lang thang trước lộ, có chú
còn thảy xuống cho chúng tôi một két coca-cola, chai rơi vỡ tung tóe mặt đường.
Rồi
chúng tôi cũng theo đoàn người đi kiếm gạo.
Ba
má, và hai anh em tôi cùng đi. Đến một cái kho rất lớn, chúng tôi đã thấy ở đó
hàng trăm người, nào quang gánh, xe ba-gác, xích lô, mọi người chen, giành nhau
vào khuân gạo từ cái kho đã bị phá banh cửa. Đứng nhìn từ ngoài, tôi thấy gạo
đóng trong các bao gai loại 1 tạ có loại 50 kg có, chất cao lên đến trần
kho, dễ cũng đến 10-15 thước.
Ngay
lúc đó, một cảnh tượng hãi hùng diễn ra ngay trước mắt chúng tôi. Mọi người
chen nhau rút các bao gạo ở phía dưới, đống bao ở phía trên bất ngờ đổ sụp,
chôn vùi luôn những người đang đứng cạnh đó. Mọi người xung quanh ra sức vần những
bao gạo hàng tạ ra để cứu, nhưng có mấy người đã chết tại chỗ, số còn lại thì bị
gãy xương hoặc nhẹ thì ngất.
Chỉ
thấy vậy, chúng tôi quay ra. Nghĩ tới đàn con đang đói, má tôi trở thành người
hành khất, má giở cái nón đang đội trên đầu xin gạo của những người đã lấy được,
rồi cũng được đầy một nón gạo, chúng tôi lễ mễ khiêng về. Hai đứa tôi phải cởi
trần, lấy áo bọc cái nón gạo vì sợ nặng quá, bục
nón. Giữa đường, một bác ba gác tốt bụng, đẩy xuống cho chúng tôi một cái “bao
cát Đại Hàn” (loại
đựng cát làm lô cốt) đầy gạo.
May
mắn lại đến sau cơn bỉ cực
Buổi
tối hôm đó ông đại tá chủ nhà gọi ba má tôi lên lầu nói chuyện. Ông nói gia
đình ông phải ra đi, ông nói tình hình nghiêm trọng lắm rồi, số phận của
Nha Trang
chỉ tính bằng ngày, không chóng thì chầy cũng rơi vô tay cộng sản. Ông hỏi gia
đình tôi định thế nào. Ba tôi cho biết là chắc không thể đi nổi nữa, nên đành
phải trụ lại đây. Ông có nói là lẽ ra ông phải đóng cửa để đi, nhưng nghĩ hoàn
cảnh loạn lạc, ông không nỡ đuổi hết mọi người ra trong tình thế này.
Suốt
hôm qua đến giờ hai ông bà có để ý những người thuê nhà thì thấy ba má tôi là
người trông có vẻ đàng hoàng, chất phác, nên ông muốn nhờ ba tôi thay mặt ông
trông hộ nhà.
Ông
bảo ông khóa cửa tầng trên vì đó là tư gia của ông. Ông cho ba má tôi toàn quyền
sử dụng tầng dưới. Ông không thu tiền thuê gia đình tôi, ngược lại ông cho phép
ba má tôi thu tiền thuê của những người đến ở và sử dụng số tiền đó. Khi nào
tình hình yên ổn, nếu ông bà quay về thì ông bà xin nhận lại nhà. Rồi gia đình
ông ra đi trong đêm, theo máy bay quân đội về Saigon.
“Giải
phóng Nha Trang”
Thú
vui của hai anh em tôi trong mấy ngày đầu ở Nha Trang
là đi lượm vỏ đạn và đầu đạn. Súng, đạn, lựu đạn nằm vương vãi khắp nơi trên đường.
Băng đạn (Magazine) tiểu liên M16, băng đạn đại liên xổ thành đống. Các-tít
(cartridge) còn nguyên cả hạt nổ không biết cơ man nào. Hai đứa cứ thế mà nhặt
đem về chơi. Dùng cát-tít đạn xây thành nhà như trẻ con chơi le-go.
Sáng
ngày thứ ba, như lệ thường hai anh em lại tha thẩn đi nhặt đạn, đến bên một tòa
nhà trắng cao, kiến trúc kiểu Pháp, tôi chỉ nhớ mang máng đó có lẽ là tòa thị
chính.
Điều
khác biệt mà cả hai anh em đều nhận ra ngay một lúc là lá cờ vàng ba sọc đỏ hôm
qua còn ở trên đỉnh, thì sáng nay được thay thành lá cờ nửa đỏ nửa xanh, không
phải chia đôi theo đường ngang mà là theo đường chéo, màu đỏ ở trên màu xanh lá
mạ ở dưới chứ không phải xanh dương; giữa lá cờ là một ngôi sao 5 cánh vàng.
Nhưng lá cờ này sau đó vài ngày thì được thay bằng một lá cờ khác màu xanh
dương ở dưới, và hai nửa chia theo chiều ngang. Đứng canh cột cờ là hai người
lính mà đời chúng tôi chưa bao giờ gặp.
Bộ
quần áo màu mạ-cứt ngựa, vải mỏng nhàu nhĩ. Một người đội nón vải (sau này mới
được biết là nón tai bèo), một người đội nón cứng như cái nón của người Pháp
trước đây (sau này thì biết là nón cối). Trông họ vóc người nhỏ nhắn ăn mặc khá
luộm thuộm, một người cầm súng M16 của Mỹ, người kia đeo súng lục.
Thế
là “Nha Trang
được giải phóng”. Chỉ ở đâu vùng ngoại ô hay cửa ngõ vào thành phố, chứ nơi
trung tâm nhà tôi cư trú, không tiếng bom, không tiếng đạn, không xe tăng. Người
dân thành phố đi ngoài đường vẫn chưa hết thầm thì, lấm lét hỏi nhau là cờ gì vậy,
lính gì vậy. Thành phố bàn giao cho ai quản lý vậy. “Quân giải phóng”. Tụi tôi
được biết thế và không hề có một chút liên hệ gì tới Việt Cộng tới cộng sản Bắc
Việt.
Vài
hôm sau gì đó, có người tới gõ cửa nhà tôi, bảo ba má tôi đi họp dân, và hai đứa
chúng tôi đi họp đội thiếu nhi. Tối hôm đó, hai anh em đến tập trung ở một cái
sân phía bên cạnh bến xe trước nhà. Chúng tôi được tập hát bài “Giải phóng miền Nam”.
Giải
phóng miền nam chúng ta cùng quyết tiến bước
Diệt
Đế quốc Mỹ phá tan bè lũ bán nước.
Ôi
xương tan, máu rơi, lòng hận thù ngút trời, sông núi bao nhiêu năm cắt rời…”
Sau
đó được phổ biến đây là bài “Quốc ca”, chúng tôi phải học thuộc trong đêm đó mới
được về.
Nha Trang
những ngày sau “giải phóng”
Như
có một phép màu nào đó hay nhờ linh cảm mãnh liệt từ trái tim người mẹ, em Út
tôi tỉnh lại từng ngày. Một tuần sau đến Nha Trang
thì em cất tiếng khóc. Mấy anh em chúng tôi mừng rỡ quây quanh em, “em sống rồi
hả má, em không chết nữa phải không má?”, mấy em gái lớn hỏi. Cả nhà tôi giàn dụa
nước mắt hạnh phúc, quá sung sướng khi em tôi sống lại.
Không
thể sống bằng không khí và nước lã. Những hạt gạo xin được từ chỗ cướp kho tuần
trước rồi cũng cạn. Ba má tôi vắt óc nghĩ ra cách nào để có tiền mà cứu đói gia
đình. Nha Trang
vào tháng 4 trời đã nóng. Dù là phố biển, nhưng cái nóng ở đây cũng gắt không
kém gì Saigon.
Má
tôi bàn tính bán chè đỗ đen. Tiền không có, má vô chợ Đầm đi mua chịu. Vậy mà
người ta cũng bán. Nhà tôi cả đời chẳng biết bán buôn. Khi mua đậu, hỏi người
bán cách nấu sao cho ngon để bán được. Họ bày cho thêm chút muối cho ngọt. Nồi
chè đầu tiên, má đem ra bày bán ở cửa, chỉ bán được một chén, khách ăn bảo “chè
gì mà mặn như nước mắm!”. Má không biết, đã cho quá nhiều muối vào nồi chè. Đêm
hôm đó, cả nhà tôi phải ăn chè đỗ đen trừ cơm.
Rồi
cũng anh Ba tôi, anh nói với má là cho hai chúng tôi đi bán hàng. Má trợn mắt
“Tụi bay chỉ có ăn với phá là giỏi, chớ bán bung gì!”. Nhưng có lẽ cũng không
còn giải pháp nào khác, ba má xuôi tai. Má hỏi định bán cái gì? Anh nói là sáng
đi bán bánh mì, trưa đi bán mía.
“Bánh
mì nóng giòn nóng giòn đê…ê..ê”, bỗng nhớ lại giọng anh em thằng Nhị bạn học của
tôi ở Pleiku mỗi sáng sớm đi ngang qua ngõ, chụm miệng vào lỗ khóa nhà tôi mà
kêu vang inh ỏi, vừa gọi mua bánh mì, vừa đánh thức chọc tôi… Bất chợt tôi lại
nhẩm trong đầu “Bánh mì nóng giòn nóng giòn… đê”, không bật thành lời mà
đã ngượng chín mặt.
Từ
hôm đó, hai anh em tôi dậy rất sớm vào mỗi buổi sáng. Đúng 3 giờ là ba tôi kêu
hai đứa dậy, mang theo cái bao bố may 3 lớp, một lớp bố gai ở ngoài, lớp bao nhựa
rồi lớp bố bên trong, đi đến lò bánh mì. Buổi đầu tiên ba tôi dẫn chúng tôi đi.
Đến đó chúng tôi phải sắp hàng, nên đến sớm mới có chỗ đứng trước.
Hai
anh em lúc nào cũng ở hàng đầu, nhưng quá buồn ngủ, nên chúng tôi lại chui vô
bao bánh mì mà ngủ chờ tiệm mở cửa. Có hôm cả hai anh em chúng tôi bị người qua
đường dẫm lên đầu mà đi. Nhận bánh mì xong là hai anh em chạy thật nhanh ra bến
xe.
Những
ngày đầu tôi bán được rất ít bánh mì, vì tôi ngượng không dám rao. Chỉ mang bao
bánh mì đến từng xe, đứng lại trước từng người, để bao bánh xuống, khoanh hai
tay trước ngực rồi mới hỏi :”Dạ, con mời cô/chú mua bánh mì!”. Có người mua cho
một ổ. Có người xua đi. Nên tôi càng nhát. Trong
khi đó anh ba tôi thì rất lanh lẹ. Tiếng rao bánh mì của anh vang lên lanh lảnh
từ xa như một đứa bán bánh mì chuyên nghiệp. Anh bán hết rồi đến sớt bớt bánh của
tôi đi bán giúp.
Thường
giữa sáng thì chúng tôi bán hết bánh. Hai anh em lại lội bộ về chợ Xóm Mới (nếu
tôi nhớ không nhầm) ở trên đường Nguyễn Hoàng gần nhà để mua
mía, có hôm phải lội bộ đến tận chợ Đầm. Nhờ họ chặt giúp thành khúc, lại rảo
khắp các hang cùng ngõ hẻm của thành phố Nha Trang
lúc đó.
Ban
đầu thì tôi lẽo đẽo theo anh ba tôi đi bán. Anh đi trước một đoạn, tôi theo
sau. Đến hôm thứ hai, anh ba “đuổi” tôi. Anh bảo, cả hai đứa đều đi bán mía thì
phải đi chỗ khác nhau, cứ đi cùng thế này thì một đứa đi bán còn hơn.
Tôi
thì vốn vẫn nhát, sợ người ta bắt nạt. Nhưng rồi vẫn phải “tự lực cánh sinh”, mỗi
đứa đi một đầu, lòng vòng rồi cũng đụng nhau, tôi phải lo tránh anh trước chứ lại
sợ mắng. Có hôm tôi bị giật hết cả một rổ mía. Tụi nó lớn và đông quá, đành phải
chịu mất.
Ba
tháng sau, gia đình ông chủ từ Saigon trở về, Khi đó ông đã thành “kẻ chiến bại”.
Tôi còn nhớ trông ông vóc dáng rất tội nghiệp, bước vô nhà mình mà tưởng như vô
nhà người khác. Ông khúm núm với ba tôi.
Ông
nói giờ thời cuộc thay đổi rồi, ông không kịp “thoát”, lưu lại Saigon không ổn
nên ông đành phải quay lại đây. Ông thương lượng với ba má tôi – giờ gọi ba má
tôi là “ông bà” xưng “em”. Ông nói là giờ ông chỉ xin ba má tôi trả lại
cho ông tầng trên để gia đình ông ở. Còn tầng dưới thì toàn quyền ba má tôi sử
dụng chứ ông không đòi hỏi.
Ba
má tôi thoáng sững sờ. Nhưng mọi chuyện đều xảy ra nhanh chóng. Ba đem chùm
chìa khóa tầng trên của ông bà ra giao lại, cửa lối lên lầu ba đã tự tay niêm
phong cẩn thận, còn giữ nguyên con niêm. Sau đó ba giao chùm chìa khóa thứ hai,
là 6 cái phòng cho thuê tầng dưới cùng với chìa khóa cửa ra vào chính.
Ba
má tôi xin ông bà cho chúng tôi lưu lại thêm một vài tuần để sắp xếp rồi cũng về
lại Pleiku vì tình hình đã yên ổn. Hai ông bà sụp xuống chân ba má tôi khóc.
Hai ông bà lạy ba má tôi, nhưng ba má đã kịp đỡ ông bà lên. Không ngớt lời cám
ơn ông bà chủ đã thương tình cho cả gia đình tôi tá túc lại được thu tiền thuê
phòng.
Mãi
đến năm 1984, trên đường đi Dalat thăm anh ba tôi đang là sinh viên trên đó,
tôi có ghé lại ngôi nhà xưa số 5 Nguyễn Hoàng, cốt để tìm gặp lại ân nhân xưa,
nhưng lúc đó trước cửa có bảng đề là “Nhà khách Cơ sở số 5”, đường Ngô Gia Tự.
Hỏi thăm không còn ai biết gia đình ông bà đại tá quân đội VNCH đó đã dọn đi
đâu.
“Chiến
thắng Pleiku…”
Chúng
tôi về lại quê xưa, thị xã Pleiku đã sang trang từ ngay ngày hôm sau khi chúng
tôi rời khỏi đó. Chúng tôi được bảo ngày 17 tháng Ba là ngày “giải phóng”
Pleiku, tức là thị xã Pleiku lúc đó cũng có lẽ không khác hơn gì thành phố Nha
Trang trong ngày 2/4/75, vô chủ. Pleiku được “giải phóng” không tốn đạn dược,
nhưng cũng chịu chung tình trạng là trộm cắp, cướp phá. Nhà tôi cũng bị người
ta vô lấy đi hết các thuốc quý, chủ yếu là “cao hổ cốt” và “cao lộc giác”, đều
bị dọn sạch.
Cũng
như ở Nha Trang,
chỉ vài ngày sau đó, chúng tôi được mấy anh thanh niên gọi lên họp đội thiếu
nhi ở một cái nhà của người dân bỏ đi, chưa quay lại. Tôi nhớ tên anh ấy là anh
Bình, còn chị phụ trách tên là chị Sang. Chúng tôi được dạy hát bài “Chiến thắng
Pleiku”
“Chiến
thắng Pleiku
chim
bay khắp nơi,
lòng
dân phấn khởi lại hát vang câu hò.
Câu
hò thắng lợi về ta.
Bộ
đội ta chiến thắng
Thiệu
thua cay đắng, nói chẳng nên lời
Thằng
Thiệu nó sầu bi là thằng Thiệu nó sầu bi
Trên
đường Phú bổn lính chết xác phơi đầy đường
Ta
thu nhiều súng đại liên
Đê-Ka-tê
(DKT), súng cối
Và
mấy mươi khiêng đồ dùng”
Rối
loạn Cảm xúc sau Sang chấn (Post-Traumatic Stress Disorder, PTSD)
Suốt
gần một năm trời sau đó, mấy anh em chúng tôi luôn luôn rơi vào trạng thái tinh
thần hoảng loạn. Cứ mỗi đêm, hết đứa này tới đứa khác, đang ngủ thì bật dậy chạy,
miệng thì la hét. Ba má tôi phải thức canh từng đêm một, chạy theo tóm hết đứa
này lại đứa khác, sợ tông va phải vách hoặc ngã chấn thương.
Trong
cơn mơ, tôi thấy đạn chụp xuống đầu, khi thì lửa cháy, khi thì tôi bị rơi xuống
vực, tất cả những gì chúng tôi chứng kiến suốt hai tuần trên cung đường máu đó,
từng đêm diễn lại trong đầu tôi. Và cứ thế là chạy, là hét, khóc thét lên.
Ai
cũng nghĩ là chúng tôi đã bị ma nhập. Ma nhiều quá, oan hồn nhiều quá. Hai anh
em tôi nói với nhau hay là do mình uống máu người chết, rồi chạy đạp lên thây
người chết giờ mình bị ma nhập. Nghĩ tới lại càng sợ.
Cứ
mỗi ngày, trước khi chạng vạng, ba tôi lại lập một cái mâm để lên đó ba chén nước
lã, một nải chuối, một miếng thịt heo sống và một cái trứng vịt luộc. Ba cúng
“các bác”
hay “cô hồn các đẳng”,
sống khôn thác thiêng, đừng bắt tội anh em tụi tôi nữa. Ba cần mẫn làm việc này
suốt mấy tháng trời.
Tâm
hồn trẻ thơ vốn dễ tổn thương nhưng cũng mau quên. Rồi thời gian, chúng tôi bớt
dần, bớt dần những cơn ác mộng hàng đêm đó. Cũng
chỉ cho tới khi học
về Tâm thần học (psychiatry) tôi mới biết được là chúng tôi đã mắc phải chứng bệnh
Rối loạn cảm xúc sau sang chấn này.
Tôi
tin rằng không chỉ riêng anh em tôi, mà tất cả hàng chục, hàng trăm nghìn gia
đình, những ai đã kinh qua con đường máu 7B năm xưa, ít nhiều đề bị rối loạn
tâm thần như thế. Nhưng những ngày đó, ăn còn không có lấy đâu mà nghĩ đến chuyện
xa xỉ để chữa bệnh tâm thần.
Đất
nước thống nhất đã nửa thế kỷ. Ngày hôm nay hẳn là khắp nơi ở Việt Nam lại đổ
ra ăn mừng chiến thắng. Xin ai đó hãy dành một phút ngắn ngủi để cầu nguyện cho
oan hồn của những người dân vô tội phải hứng chịu cảnh chết không toàn thây,
không mồ chôn trên khắp mọi cung đường đất nước, từ bắc vô nam dọc dài theo những
năm tháng triền miên với chiến tranh. Hãy
coi đó là ngày tưởng niệm hơn là hân hoan ăn mừng chiến thắng.
“A…
xin
chào người anh hùng bất lực dài ngoẵng
bóng
máu bầm đen sõng soài nền nhà
……
Vâng
– đã có một thời hùng vĩ lắm
hùng
vĩ đau thương hùng vĩ máu xương
mắt
người chết trừng trừng không chịu nhắm”
(Nhìn
từ xa… Tổ quốc! Nguyễn Duy, 1989)
Xin
chào người anh hùng
say
sưa gì
gà
gật mãi mấy mươi năm!
N.Đ.N.
Phần 1; Phần 2; Phần 3; Phần 4; Phần 5; Phần 6; Phần 7; Phần 8
Tác giả gửi BVN
No comments:
Post a Comment