Nữ
hoàng Elizabeth II không vô can trong những tội lỗi của Đế chế Anh Quốc
Howard
W. French - Foreign Policy
Kiến Văn dịch
- Diễn Dàn
22/09/2022
Nữ hoàng vừa quá cố
là hiện thân của nước Anh và thể chế Anh quốc, đã khôn khéo quảng bá nó mà
không bao giờ phê phán hay hối tiếc về quá khứ của đế chế
Vào cuối thập niên 1550, xem xét tình hình châu Âu, một nữ hoàng Anh, bà
Elizabeth, đã lo lắng khi thấy nước Anh bị bỏ xa trong cuộc chạy đua với các nước
láng giềng trên lục địa mà mục đích là xây dựng đế chế hải ngoại.
Bồ Đào Nha và Tây Ban Nha đã sớm chiếm được vị thế khuynh loát trong cuộc
chạy đua. Người Bồ đã đi tiên phong, kiếm được nhiều mối lợi trong việc giao
thương với người Tây Phi vào cuối thế kỷ XV trước khi tạo ra một công thức cách
mạng : phối hợp canh tác nông nghiệp với chế độ nô lệ dựa trên chủng tộc để
làm ra những sản phẩm nhiệt đới trên hòn đảo São Tomé nhỏ bé. Dựa trên ngành trồng
mía làm đường và buôn bán nô lệ người châu Phi (nguồn nhân lực cho các đồn điền),
phương thức này đã nhanh chóng chế ngự đời sống kinh tế trên Đại Tây Dương
trong suốt mấy thế kỷ, tạo ra thế mạnh của Phương Tây đối với phần còn lại của
thế giới.
Cho đến triều đại của Nữ hoàng Elizabeth I, lịch sử đế chế Anh chủ yếu là
thống trị nước láng giềng Ireland. Song nữ hoàng, mà triều đại gắn liền với văn
hào đương thời William Shakespeare, đã bước lên một sân khấu rộng lớn hơn. Bà
đã khuyến khích cả quý tộc lẫn hải tặc như John Harkins phiêu lưu ra khỏi eo biển
Manche, tấn công tàu thuyền Bồ Đào Nha, Tây Ban Nha, cướp vàng bạc và nô lệ lấy
từ bờ biển Tây Phi.
Làm như vậy, Elizabeth đệ nhất đã đặt nền móng cho đế quốc Anh sau này.
Những người kế vị đã đi xa hơn nữa khi thành lập công ti Company of Merchant
Adventures of London (Công ti Phiêu lưu thương mãi Luân Đôn) năm 1631.
Phiêu lưu ở đây có nghĩa là dùng bạo lực để chiếm đoạt vàng bạc và nô lệ ở những
nước nhiệt đới. Ít lâu sau, công ti được đổi tên để che đậy mục tiêu địa lý
chính yếu. Nó được gọi là Company of Royal Adventurers Trading to Africa (Công
ty các nhà thám hiểm hoàng gia giao thương với Châu Phi), và được cấp phép
buôn bán độc quyền trong 1000 năm.
Như tôi đã giải thích trong tác phẩm Born in Blackness:
Africa, Africans, and the Making of the Modern World, 1471 to the Second
World War (Kiếp da đen : Châu Phi, người châu Phi và sự
hình thành Thế giới hiện đại, từ 1471 đến Thế chiến II), cũng trong thập
niên đó (1630), đế chế Anh đã bành trướng sang bờ tây Đại Tây Dương, lập thuộc
địa ở đảo Barbados (thuộc quần đảo Đông Caribbe) mà diện tích chỉ bằng một phần
ba diện tích thành phố Los Angeles hiện nay.
Tại Barbados, người Anh đã thực hiện mô hình mà người Bồ Đào Nha đã tạo
ra ở São Tomé : đó là một chế độ không thể biện bạch về mặt đạo lý, nhưng
vô cùng hiệu quả về mặt kinh tế. Vào giữa thế kỷ XIX, người ta đã thay thế những
đầy tớ da trắng có hợp đồng lao động bằng những người nô lệ, nam và nữ, bị xiềng
xích từ châu Phi chở sang, phải lao lực cho đến chết – số người này cũng gần
ngang số nô lệ đi đưa sang lục địa Bắc Mỹ rộng lớn không biết bao nhiêu lần –
biến hòn đảo Barbados sản xuất đường mía thành cỗ máy hái ra tiền.
Sách giáo khoa dạy ở các trường học Tây phương thường kể những câu chuyện
cướp bóc của bọn conquistador Tây Ban Nha tấn công những nền văn minh bản địa
như các dân tộc Inca, Aztec, chất đầy vàng bạc lên thuyền. Như người Anh đã cho
thấy ở Barbados, của cải mà họ rút ra từ các đồn điền mía, trên lưng những người
nô lệ châu Phi, còn lớn hơn thế nhiều.
Chính vì nạn nô lệ da đen ở quần đảo Caribbe gớm ghiếc như vậy, nên người
Anh ưa nghĩ rằng đế quốc Anh đã tọa lạc chủ yếu ở Ấn Độ. Nhưng trước đó khá
lâu, trên vùng đất mà họ gọi là Tây Ấn (West Indies), đã dựng nên những thuộc địa
trù phú nhất trong lịch sử kinh tế. Đỉnh điểm là Saint-Domingue, thuộc địa
Pháp, nơi người Châu Phi đã khởi nghĩa từ năm 1791, giải phóng nô lệ và thiết lập
nền cộng hoà lâu đời thứ nhì của châu Mỹ, đặt tên là Haiti.
Đã từ lâu ở Châu Âu có trò ma giáo viết lại lịch sử – và Anh là nước thịnh
hành nhất – phủ nhận tầm quan trọng của chế độ nô lệ trong sự trỗi dậy của Châu
Âu cận đại, trở thành lục địa giàu có và hùng mạnh nhất thế giới. Thông điệp của
phe ma giáo này là chế độ nô lệ thực ra không mang lại lợi nhuận đáng kể, nông
nghiệp đồn điền thuộc địa chỉ có một vai trò hạn chế trong thành tựu của châu
Âu.
Thoạt nhìn đã thấy nhiều lý do chứng tỏ sự ngu xuẩn của luận điểm này.
Trước hết là việc lãnh tụ Pháp Napoléon Bonaparte đã gửi một đội quân viễn
chinh lớn nhất lịch sử Pháp vượt Đại Tây Dương để đàn áp cuộc khởi nghĩa nô lệ ở
nước thuộc địa Saint-Domingue đầy lợi lộc, và cuối cùng đội quân ấy đã bại trận.
Ý thức được cơ hội ngàn vàng, Tây Ban Nha đã tìm cách đánh thắng người châu Phi
ở Saint-Domingue, cuối cùng cũng bị thua.
Nước Anh, đế quốc lớn nhất của thời đại, không thể bỏ qua cơ hội béo bở,
đã triển khai một đạo quân hải chinh vĩ đại nhất chưa từng có trong lịch sử.
Quân đội Anh đã bị đánh bại một cách nhục nhã, số tử vong lớn hơn cả số binh sĩ
tử trận trong cuộc cách mạng Mỹ mà ai cũng biết. Bao nhiêu thương vong như vậy
mà cho đến nay, ở Anh, không có một quân kỳ trung đoàn nào được treo lên để tưởng
niệm, hầu hết các trường học không nói gì tới chuyện này.
(Tất nhiên, Pháp chưa chịu bỏ cuộc. Bị thua đau, Napoléon lại cử một đạo
quân viễn chinh thứ nhì với hy vọng đặt lại gông cùm lên nhân dân
Saint-Domingue. Bại vẫn hoàn bại, ít lâu sau Pháp phải bán cả Louisianna cho
chính quyền Hoa Kỳ, lúc đó là tổng thống Thomas Jefferson, nhờ đó mà lãnh thổ
Hoa Kỳ nhân lên gấp đôi).
Trong chừng mực mà chế độ nô lệ đã xuất hiện trong mọi cuộc lễ kỷ niệm
trang trọng và gần như liên miên bất tận trong triều đại của nữ hoàng thứ hai
mang tên Elizabeth, người ta ai cũng ghi nhận là bà đã trị vì toàn bộ sự kết
thúc của đế chế Anh Quốc và làn sóng phi thực dân hóa diễn ra trong thế kỷ 20.
Là người đã trải qua một sự nghiệp lâu dài trong thế giới từng là thuộc địa, là
một người đã viết nhiều về chế độ nô lệ và bao nhiêu là những tác động của nó
trên thế giới, thật rất đáng ngạc nhiên khi thấy những tình tiết của đế chế bắt
rễ trong sự nô dịch, thống trị và khai thác tài nguyên nhân lực đã bị nhanh
chóng lướt qua.
Cũng như hầu hết độc giả của chuyên mục này, tôi suốt đời đã sống dưới
triều Elizabeth II. Cho nên tôi dễ dàng, như rất nhiều người, thừa nhận phong
thái thanh thản và tự tin của nữ hoàng là một điều hiếm có, làm động lực nền tảng
trong một thế giới biến động liên tục và khó hiểu. Bà mất đi, tôi không có ác ý
gì cả. Còn đế chế của bà – và chế độ đế quốc, nói chung – lại là vấn đề
khác.
Hiện nay, nhiều người Anh cảm thấy tự hào rằng chính quyền mới đã đến tầm
cao mới về sự đa dạng chủng tộc và sắc tộc, đúng như vậy và đó là một điều tốt.
Nhưng chúng ta chớ để điều này, chớ để những lễ kỷ niệm gượng ép trên TV làm
người ta quên rằng trong gần như toàn bộ lịch sử của nó, cái đế chế mà nước Anh
thực thi là đồng nghĩa với chủ nghĩa chủng tộc ưu đẳng không hề che giấu. Đó thực
sự là một trong những tiền đề quan yếu.
Chúng ta cũng chớ để bị lừa dối bởi những bài bình luận hời hợt, coi trời
bằng vung, đánh đồng đế chế Anh (hay bất kể đế chế nào khác) với chế độ dân chủ.
Tiếng Anh có từ “poppycock” (thậm vô lý) để mô tả rất chính xác. Bộ trưởng tài
chính (chancellor of the exchequer) hiện nay thuộc Đảng Bảo thủ là hiện thân của
sự đa dạng sắc tộc, tên là Kwasi Kwarteng, cha mẹ nhập cư từ thập niên 1960, gốc
Ghana, một thuộc địa cũ của Anh Quốc. Trong tác phẩm xuất bản năm 2011, Ghosts
of Empire : Britain’s Legacies in the Modern World (Những bóng
ma của Đế chế : Di sản của nước Anh trong thế giới hiện đại), ông viết :
« Khái niệm về dân chủ là những điều xa lạ nhất đối với giới quan lại
thuộc địa. Đầu óc của họ chỉ có những ý tưởng sơ sài về giai cấp, về sự ưu đẳng
trí tuệ (của người da trắng), những ý tưởng gia
trưởng chủ nghĩa ».
Đó là xuất phát điểm của Kwarteng khi ông mô tả đế chế Anh như một điển
hình của « chủ nghĩa cực quyền bình thường », ông và tôi bất đồng ở
chỗ này. Cái huyền thoại dai dẳng tự sướng này kéo dài, chủ yếu là vì không chịu
đào sâu vấn đề. Ngược lại, trong hầu như toàn bộ lịch sử của nó, đế chế Anh, ra
đời trong chế độ nô lệ, không đếm xỉa gì tới dân chủ và nhân quyền.
Tôi thường viết nhiều về Châu Phi nên có thể minh chứng luận điểm của tôi
bằng nhiều thí dụ về Châu Phi. Nhưng ở đây, có lẽ chỉ cần chứng minh rằng đế chế
Anh đã mù quáng trấn áp các chủng tộc khác. Không hiểu ông Kwarteng nghĩ sao về
chính sách kéo dài buôn bán thuốc phiện của Anh nhằm cân bằng cán cân thương mại,
bành trướng sự thống trị Trung Quốc bằng tuyên truyền vũ trang để bán thuốc phiện ?
Hai cuốn sách giúp ta thấy rõ điều này, một cuốn đã trở thành kinh điển,
và một cuốn mới ra.
Trong tác phẩm sử thi và cách mạng xuất bản năm 2000, Late
Victorian Holocausts: El Niño Famines and the Making of the Third World (Những
cuộc diệt chủng cuối thời Victoria : những nạn đói El Niño và sự hình
thành Thế giới Thứ Ba), nhà sử học Mike Davis đã cho thấy vào cuối thế kỷ
19, Anh Quốc đã lợi dụng những năm hạn hán trên thế giới để đẩy mạnh kế hoạch mở
rộng lãnh thổ và trấn áp chính trị với nhiều nước ở xa.
Ấn Độ là một mục tiêu đặc biệt, tại đây những quan chức thuộc địa toàn quyền,
như Robert Bulwer-Lytton và Victor Bruce (được biết nhiều hơn dưới danh hiệu
Huân tước Elgin), đã tàn tệ tận dụng chính sách xuất khẩu lương thực đại trà và
chính sách thuế khóa để tài trợ các cuộc chiến tranh ở Ấn Độ, cũng như ở
Afghanistan và Nam Phi đang lâm vào nạn đói khủng khiếp. Trong suốt thời gian ấy,
các quan chức thực dân đã khóa chặt các chương trình cứu trợ người nghèo, coi họ
là những thứ vô dụng về mặt kinh tế và xã hội. Để chống lại việc cứu trợ nhân đạo,
nhiều người trong họ biện hộ rằng cứu trợ những người nghèo đang sống thoi thóp
chỉ làm cho họ thêm lười biếng.
Có lẽ chỉ cần trích dẫn một câu trong tác phẩm này, tự nó là một lời kết
tội nghiêm trọng nhất, với đầy đủ bằng chứng : « Nếu phải tóm tắt
sự thống trị của nước Anh ở Ấn Độ vào một sự việc, thì đó là : thu nhập
tính theo đầu người của nhân dân Ấn Độ, từ năm 1757 đến năm 1947, không hề nhúc
nhích tăng một chút nào ».
Cuốn sách mới hơn là của bà Caroline Elkins, giáo sư Phi Châu học : Legacy
of Violence : A History of the British Empire (Di sản bạo
lực : Lịch sử Đế quốc Anh), mà tôi đã có dịp điểm sách. Tác giả tập
trung vào thế kỷ 20, trong đó đề cập tới nhiều hành động bạo lực dưới thời nữ
hoàng Elizabeth II, đặc biệt là đợt hành quân nhằm khống chế sắc tộc Kikuyu ở
Kenya với mục đích chiếm đoạt đất đai màu mỡ của họ và giam cầm hơn một triệu
người trong « một quần thể trại giam tù nhân lớn nhất trong lịch sử đế
quốc Anh ».
Phát hiện lớn nhất trong công trình nghiên cứu của Elkins là : những
chính sách như đã áp dụng ở Kenya là kết quả của cả một quá trình thử nghiệm những
phương pháp đàn áp bạo liệt, thường do cùng một nhóm quan chức thực dân đi từ
điểm nóng này sang điểm nóng kia, từ cuối thế kỷ 19 sang thế kỷ 20 – Ấn Độ,
Jamaica, Nam Phi, Palestin, Malaysia thuộc Anh, đảo Chypre, thuộc địa Aden (nay
thuộc Yemen) và nhiều nơi khác – cải tiến và hoàn chỉnh những kỹ thuật dựa trên
bạo lực, tra tấn, tội phạm hóa những hành động kháng cự tự vệ, luôn luôn cải tiến
mô hình ở các đồn điền Bồ Đào Nha, di chuyển nô lệ từ São Tomé sang Brasil, rồi
từ đó đưa lên phía bắc (quần đảo Caribbe và các bang miền nam Hoa Kỳ).
Cố nhiên – như nhiều người ngưỡng mộ đã nhấn mạnh – nữ hoàng Elizabeth II
không có quyền hành chính trị nào cả, trái ngược với Elizabeth I. Trong các cuộc
du hành, bà đã khôn ngoan quảng bá thương hiệu Anh Quốc, cho thể chế nước Anh,
mà không bao giờ phê phán hay xin lỗi về một hành động quá khứ nào. Và cũng
đúng là trong triều đại Elizabeth II, hầu như toàn bộ thế giới đã phi thực dân
hóa, một phần lớn các nước thuộc địa cũ của Anh đã trở thành những nước dân chủ,
và ít nhiều quan tâm tới các quyền công dân.
Nhưng đã qua rồi, từ lâu rồi, cái thời mà người ta có thể khẳng định rằng
đó là nhờ chính sách cai trị của Anh là « hiền lành », hay là các quyền
của thần dân các nước thuộc địa Anh là do bản chất « đế chế ».
Howard
W. FRENCH
(Kiến Văn dịch)
NGUỒN : Foreign Policy, 12.9.2022
Queen Elizabeth II Wasn’t Innocent of Her Empire’s Sins
Howard W. French là một bình luận viên của tạp chí Foreign Policy, giáo
sư trường cao học báo chí Đại học Columbia, nhiều năm làm thông tín viên nước
ngoài. Sách mới của ông : Born in Blackness: Africa,
Africans and the Making of the Modern World, 1471 to the Second World War.
Twitter: @hofrench.
No comments:
Post a Comment