Nguyên Ngọc, công bộc hay trí thức ?
5/09/22
https://thongluan-rdp.org/quan-di-m/item/26030-nguyen-ng-c-cong-b-c-hay-tri-th-c
Nhân đọc
bài phát biểu rất dài tương đương với sự vớ vẩn của nhà văn, "trí thức"
công bộc Nguyên Ngọc tại Hội nghị chuẩn bị Nghị quyết về trí thức do Ban Bí thư
Trung ương Đảng triệu tập, năm 2008, ông góp ý với Ban Tuyên giáo để định nghĩa
về trí thức và phương cách "đào tạo một tầng lớp trí thức có phẩm chất"
(như ông).
https://live.staticflickr.com/65535/52336150447_cd4e3bff5b.jpg
Nguyên
Ngọc : nhà văn, "trí thức" công bộc của Đảng cộng sản Việt Nam ?
Trí thức
trước hết là một thái độ chính trị, ý thức cá nhân nó không thể có từ một nghị
quyết và được đào tạo bởi một đảng chính trị ; tệ hơn nữa bởi một đảng chính trị
độc tài.
Trước khi
đi vào những phát biểu vớ vẩn, câu trước chửi câu sau, ý sau đá ý trước của ông
xin đưa ra một nhận định phải đập vào óc mọi người và bộ óc của chính ông :
Tham dự một "buổi triệu tập của (một) Ban Tuyên Giáo đảng
thì không thể là một trí thức mà là một công chức ; góp ý với Ban Tuyên Giáo của
một đảng độc tài về phương cách đào tạo trí thức thì những trí thức đó chỉ là
những nô bộc để phục vụ cho một chính quyền độc tài như ông ta đã làm trong suốt
cuộc đời mình. Những trí thức này, như ông ta là một định nghĩa rõ ràng nhất thế
nào là một người không phải là trí thức.
Trong bài
phát biểu ông Nguyên Ngọc đã trích dẫn, liệt kê một số điều kiện, tiêu chuẩn của
trí thức rất đúng nhưng đồng thời lại đưa ra một số ý kiến mâu thuẫn nền tảng
khác với những điều ông vừa liệt kê. Tôi phân vân không biết nguyên do chính là
sự thiếu hiểu biết (chắc chắn, sẽ bàn sau) hay do sự thiếu lương thiện trí tuệ
của ông ? Tôi nghiêng về giả định thứ hai là điều chính.
Sự lương
thiện trí tuệ, một điều kiện cốt lõi của trí thức, của ông được thể hiện dài
như bài viết hoàn toàn thiếu vắng. Ông ta cho rằng trí thức là người phải biết
đặt vấn đề với chính mình nhưng những lí luận đầy rẫy khác thì ông ta chỉ đặt vấn
đề cho người khác, luôn ngụy biện trốn tránh trách nhiệm và tô son điểm phấn
cho mình.
Ông Nguyên
Ngọc khi về hưu (ông ta không phải là một trường hợp đơn lẻ) đã từng phát biểu
(rất ấn tượng theo ngôn ngữ thời đại) "tôi đã lầm lẫn (theo Đảng) suốt hơn
60 năm qua", và sau đó là "chúng ta sai từ Đại Hội Tours" có
nghĩa ngay từ điểm khởi đầu, có nghĩa là sai từ bản chất, nhưng đồng thời ông
ta lại không tiết kiệm lời lẽ để tự ca ngợi sự dấn thân phục vụ một cách tận tụy
và trung thành của mình cho cái Sai ấy.
Nếu đã là
cái sai từ bản chất bắt buộc nó phải có một hậu quả tai hại cho xã hội đã được
chứng minh. Nó đã và đang được chứng minh hàng ngày.
Làm thế
nào có thể ngụy biện vẫn cho mình là đúng, là cao cả khi đã chọn lựa tận tụy phục
vụ cho cái bản chất sai đó, cho cái hậu quả tai hại đó đang nhận chìm, bóp chết
xã hội ? Chẳng có gì phải đặt vấn đề cho mình cả. Bình tâm thay ! An nhiên thay
!
Ông Nguyên
Ngọc thể hiện căn tính trí thức nô bộc trong toàn bài viết. Với ông mối tương
quan, chức năng của trí thức cho đối tượng Đảng là chủ yếu, xã hội chỉ là xã hội
của Đảng do Đảng lãnh đạo chứ không phải xã hội độc lập với Đảng ; những băn
khoăn của ông là những băn khoăn cho sự lãnh đạo xã hội trường tồn của Đảng có
hiệu quả qua sự đào tạo và lãnh đạo một lực lượng trí thức nô bộc có phẩm chất.
Một trong
những yếu tố được ông nhắc đi nhắc lại nhiều lần là sự tự do của trí thức rất lủng
củng, sai có đúng có, nhưng ông ta quên hay không biết một điều là tự do trước
hết là sự ý thức về mình của con người nói chung và tự do của trí thức là sự ý
thức về Con người, về mình của một trí thức nói riêng.
Để nêu ra
hết những vớ vẩn trong bài phát biểu của ông Nguyên Ngọc cầm một bài cũng phải
dài tương tự chắc sẽ chẳng có ai thèm đọc. Tôi đề nghị các bạn hãy đọc bài đó của
ông ta nếu muốn chất vấn tôi một số điểm nào đó. Tôi sẽ sẵn sàng thảo luận.
Để chấm hết
bài quan điểm, phê bình này tôi sẽ lấy một ý của ông ta "một trí thức nếu
không làm được gì thì ít nhất cũng phải biết im lặng (sic). Bản chất của một
trí thức là không được im lặng. Nhất là im lặng trước cái ông ta cho rằng nó đã
sai ngay từ khi được sinh ra và đã tận tụy phục vụ cho cái sai ấy suốt cuộc đời
mình.
Hãy cho
ông ta một ngoại lệ là chấp nhận sự im lặng : nếu ông không làm gì được cả thì
nên im lặng để giữ phần nào nhân cách tối thiểu của mình. Với cá nhân ông ta vì
sự ảnh hưởng của ông với nhiều người, đó là một cái phúc cho xã hội.
Chúc ông
ta một ngày vui vẻ và khỏe mạnh để suy ngẫm về chính mình.
Lê Mạnh
Tường
(05/09/2022)
Đọc
thêm :
Nhà
văn Nguyên Ngọc : Về trí thức
Nguyên
Ngọc, Người đô thị, 30/08/2022
Bản chất
của người trí thức là luôn đặt lại vấn đề, không bao giờ bằng lòng với những
cái đã có sẵn, đã ổn định, đã được coi là xong xuôi, ngay cả trong chính
anh ta.
https://live.staticflickr.com/65535/52337143391_9a117841ea.jpg
Nhà văn
Nguyên Ngọc - Ảnh Nguyễn Á
Chắc chắn
nhiều vị sẽ phát biểu về nhiều khía cạnh khác nhau của vấn đề rộng lớn này. Tôi
chỉ xin chọn nói về một số khía cạnh sau đây, theo tôi là quan trọng. Và xin
nói với tinh thần thẳng thắn như đã được kêu gọi.
A – Định nghĩa trí thức
1. Định nghĩa thế nào là trí thức là rất
quan trọng, bởi từ đó mới có thể đặt đúng vấn đề vai trò của trí thức trong xã
hội, cách ứng xử đúng đắn với trí thức, phát huy vai trò của trí thức…
Trí thức
đương nhiên là người làm việc bằng trí óc. Nhưng không phải mọi người lao động
trí óc đều là trí thức. Tôi tán thành anh Cao Huy Thuần khi anh nhắc lại định
nghĩa sau đây của J.P. Sartre. Sartre gọi một người nghiên cứu trên hạt nhân để
cho nổ ra trái bom nguyên tử càng lúc càng tinh vi là nhà bác học. Cũng nhà bác
học đó, khi ý thức được cái khí giới giết người ghê gớm ông nắm trong tay, đứng
lên hô hào chống bom nguyên tử, người đó ông gọi là người trí thức.
Như vậy một
người được xác định là trí thức không phải căn cứ trên lượng kiến thức anh ta
có, mà trên thái độ và hành vi xã hội của anh ta. Trí thức là người có trách
nhiệm xã hội cao, dấn thân mạnh mẽ cho lý tưởng xã hội mà anh ta coi là đúng đắn,
cao quý. Ở phương Đông ngày xưa người ta gọi người trí thức là "kẻ
sĩ". Kẻ sĩ là người dấn thân vì lợi ích của toàn thiên hạ, sẵn sàng chiến
đấu và hy sinh vì đại nghĩa của toàn thiên hạ. Trí thức như vậy là một phẩm
cách đặc biệt, là một "chất" chứ không phải một "lượng". Một
người có bằng cấp rất cao, một người có kỹ thuật rất tinh vi có thể là một nhà
chuyên môn giỏi, một kỹ thuật viên cao cấp, nhưng chưa hẳn là một người trí thức.
Cần phân
biệt việc đào tạo một đội ngũ chuyên môn cao với việc xây dựng một lực lượng
trí thức cần thiết cho đất nước. Chẳng hạn kế hoạch đào tạo hai vạn tiến sĩ của
Bộ Giáo dục và Đào tạo không đồng nhất với việc tạo ra hai vạn trí thức. Có thể
có hai vạn tiến sĩ mà vẫn không có trí thức.
Tôi không
nói việc đào tạo bao nhiêu tiến sĩ đó là không quan trọng, nhưng đó là việc
khác. Cứ coi như ta đã đào tạo được hai vạn tiến sĩ rồi, thì để cho hai vạn tiến
sĩ đó trở thành hai vạn trí thức lại phải làm một việc khác, có thể còn khó
khăn hơn rất nhiều, đó là làm cho họ có tư cách, phẩm tính trí thức. Việc ấy
đòi hỏi những yêu cầu khác, mà tôi sẽ xin cố gắng nói sau đây.
Tôi nghĩ hội
nghị trung ương lần này nên bàn vấn đề xây dựng lực lượng trí thức đúng nghĩa của
nó, tạo cho xã hội ta thật sự có một lực lượng có phẩm cách trí thức cao, đó là
một việc đang bức xúc, chứ không phải chỉ có việc đào tạo một lực lượng có
chuyên môn cao mà không có phẩm cách trí thức.
2. Vì sao một xã hội lành mạnh cần có
những người trí thức ?
Do từ định
nghĩa trên kia, người trí thức thường là người vượt ra khỏi lĩnh vực chuyên môn
của mình, lo "bao đồng" những việc chừng như không dính dáng gì đến
chuyên môn của mình. Sartre gọi như vậy là "s’occupe de ce qui ne le
regarde pas", lo những việc chẳng ăn nhằm gì tới mình. Việc không phải của
mình mà anh ta lại coi là việc của mình, thậm chí chằm chằm tham gia, ráo riết
can thiệp vào đó, cãi vã, tranh luận, chiến đấu có khi đến mất mình vì nó…
Anh Cao
Huy Thuần gọi đó là "xớ rớ", người trí thức xớ rớ, can dự vào việc của
xã hội, của chính phủ, của nhà cầm quyền, "quấy rầy", không để cho
người ta yên. Việc không phải của anh mà anh lại tha thiết coi là của anh,
chính cái sự coi đó khiến anh trở thành người trí thức (chứ không phải là nhà
chuyên môn đơn thuần).
Xã hội cần
những người xớ rớ như vậy, người cầm quyền luôn cần có những người như vậy
quanh mình, không để cho mình yên, không để cho mình được yên trí, bởi vì đã
yên trí thì tất là bắt đầu trì trệ, thậm chí sa sút, biến chất.
3. Bản
chất của người trí thức là luôn đặt lại vấn đề, không bao giờ bằng lòng với những
cái đã có sẵn, đã ổn định, đã được coi là xong xuôi, ngay cả trong chính anh
ta. Như Marx nói : người trí thức "phê bình không nhân nhượng về
những gì đang hiện hữu, không nhân nhượng với nghĩa rằng họ không thụt lùi dù
trước kết luận của chính mình hoặc trước xung đột với chính quyền, bất cứ chính
quyền nào".
Người trí
thức như vậy là ngưòi luôn phê bình, trước hết là phê bình những kết
luận tưởng đã xong của chính mình, không chịu dừng lại trong những kết luận ấy,
không chịu coi đó đã là chân lý bất khả xâm phạm; rồi từ đó đối với xã hội cũng
vậy, anh ta không bao giờ chịu dừng lại trước những điều đã được coi là chân lý
"vĩnh cửu".
Một xã hội
muốn tiến lên thì phải thường xuyên tự nhìn lại mình, tự ý thức lại về chính
mình. Trí thức là sự tự ý thức lại thường trực của xã hội. Tự ý thức lại, tự
phê bình lại thường trực, không ngừng. Phê bình như vậy, trí thức góp phần giúp
xã hội không dừng lại trên bất cứ một trật tự được coi là bất biến nào, giúp xã
hội luôn tiến tới một trật tự tốt hơn, nhân đạo hơn, hợp lý hơn. Người trí thức
do vậy mà trở thành lương tâm của xã hội, phát ngôn nhân của những lực lượng tiến
bộ trong xã hội ở bất cứ giai đoạn nào của lịch sử.
Trí thức
là những người tự đặt mình ra khỏi thẩm quyền của mình. Thẩm quyền của họ chỉ
là cái chuyên môn mà họ có. Khi vượt ra khỏi cái chuyên môn chật hẹp đó, bức
xúc can thiệp, phê bình trật tự xã hội thì họ trở thành trí thức.
Tại sao họ
làm vậy ? Tại vì, Sartre trả lời, "trí thức là người ý thức được sự xung đột
xảy ra trong lòng họ và trong lòng xã hội giữa việc đi tìm sự thật qua thực tiễn
hành động và hệ ý thức đang đô hộ. Ý thức được điều đó tức là khám phá ra những
mâu thuẫn căn bản của xã hội, nghĩa là những xung đột giai cấp và, ngay trong
lòng giai cấp thống trị, một xung đột hữu cơ giữa sự thật mà giai cấp đó nhân
danh để thống trị và những huyền thoại, giá trị, tập tục mà nó bám giữ và truyền
nhiễm vào những giai cấp khác để thống trị"…
Giai cấp
thống trị nào cũng cần tạo ra những "huyền thoại" và áp đặt vào xã hội
để thống trị. Người trí thức là người ý thức được những huyền thoại đó, mâu thuẫn,
xung đột giữa chúng và thực tiễn xã hội, quyết phá giải những huyền thoại đó, để
cho xã hội tiến lên.
Nhận thức
này rất quan trọng : phải phân biệt việc đất nước cần có một đội ngũ chuyên môn
giỏi (cũng là hết sức cần thiết và cấp bách) với việc xã hội cần có một lực lượng
trí thức làm "chức năng" luôn tự hỏi lại về chính những giá trị đang
được coi là chính thống của xã hội, luôn cật vấn về những gì đang có, luôn đặt
lại vấn đề về các chuẩn mực đã được khẳng định.
Có người
đã nói theo một cách chơi chữ: trí thức giữ cho xã hội luôn "thức" chứ
không ngủ. Đảng cần những người trí thức là vì như vậy, chứ không phải chỉ cần
những nhà chuyên môn giỏi bảo gì nghe nấy, như những cái máy tinh xảo mà vô cảm.
Nói cách khác Đảng và Nhà nước cần có những người trí thức chân chính để luôn bị
quấy rầy, luôn có người quấy rầy mình hằng ngày, trong mọi việc, không bao giờ
để cho mình yên mà tự thỏa mãn và dừng lại, khô cằn.
Do vậy,
thường xảy ra tình trạng người cầm quyền khó ưa được trí thức. Biết quý người
luôn quấy rầy mình, luôn buộc mình không bao giờ được kiêu căng thỏa mãn, là phẩm
chất của người cầm quyền giỏi. Tôi nghĩ nếu lần này Đảng đặt vấn đề bàn về trí
thức thì chính là đặt vấn đề bàn về việc xây dựng lực lượng luôn quấy rầy mình
đó, xây dựng cho họ cái phẩm chất dám và biết quấy rầy ấy, mạnh mẽ trao cho họ
cái quyền đó, để cho xã hội và dân tộc tiến lên. Bởi Đảng không có quyền lợi
riêng của mình, Đảng không có quyền lợi nào khác ngoài sự tiến lên không ngừng
của xã hội, của đất nước.
Bàn về vấn
đề trí thức cũng là bàn về khả năng của Đảng, của người cầm quyền chấp nhận được
sự quấy rầy thường trực của tiếng nói phản biện thường trực ấy. Nâng cao năng lực
của Đảng, của người cầm quyền chịu đựng sự quấy rầy phản biện ấy, vì quyền lợi
của đất nước.
https://live.staticflickr.com/65535/52337143371_4709ac2b87.jpg
Tập
sách của Nguyên Ngọc vừa ra mắt bạn đọc, phát hành bởi Nhã Nam và Nhà xuất bản
Phụ nữ Việt Nam. Ảnh : Lam Điền
B – Nhận dạng trí thức Việt Nam
1. Đặc điểm quan trọng nhất của trí thức
Việt Nam là rất yêu nước.
Cách mạng tháng Tám 1945, rồi suốt chiến tranh cứu nước, tuyệt đại đa số trí thức
Việt Nam đều đi với cách mạng và kháng chiến, cống hiến hết mình cho dân tộc.
Trong khi chẳng hạn ở Nga, sau Cách mạng tháng Mười 1917, tuyệt đại đa số trí
thức lớn nhất đều bỏ ra nước ngoài, không đi với cách mạng.
Đó là vì
cách mạng Nga đậm tính giai cấp, trong khi cách mạng ta chủ yếu là vì vận mệnh
của dân tộc, trí thức Việt Nam là trí thức của một dân tộc bị sa vào ách nô lệ
phải đứng lên tự giải phóng cho mình. Đây là chỗ mạnh, đồng thời cũng tiềm tàng
chỗ yếu của trí thức ở ta: họ thiết tha yêu nước, nhưng đồng thời cũng là trí
thức nhỏ bé của một đất nước hàng trăm năm không có độc lập, được thực dân đào
tạo chủ yếu nhằm phục vụ bộ máy thống trị của chúng. Những người ưu tú nhất
trong số đó đã vượt lên, tận dụng ngay được bản chất ưu việt của nền văn hóa
Pháp dầu nó được thực dân truyền bá với những mục đích khác, tự làm giàu cho
mình và cho đất nước…
Theo một
cách nào đó thậm chí có thể nói chính nền văn hóa Pháp với những tư tưởng chói
lọi của nó đã từng góp phần tạo nên cả một thế hệ những nhà cách mạng hiện đại
Việt Nam. Trí thức Nga thì khác, phần lớn họ không đi với cách mạng, nhưng mặt
khác họ là trí thức lớn của một quốc gia độc lập lâu đời, có phẩm tính trí thức
lớn. Yêu nước nhưng nhỏ bé, tư cách trí thức không cao là đặc điểm cố hữu của
trí thức ta.
2. Sau
cách mạng, nhất là từ sau 1950 (giải phóng biên giới, ảnh hưởng tư tưởng Mao
tràn vào…), trí thức lại liên tục bị vùi dập, làm nhục, qua chỉnh huấn, cải
cách ruộng đất, đấu tranh chống Nhân văn Giai phẩm, và nhiều cuộc đấu tranh
khác, liên tục… Tư cách trí thức thuộc địa vốn đã nhỏ bé lại ngày càng bị làm
cho nhỏ bé đi. Mỗi lần người trí thức muốn tự khôi phục lại vai trò, tư thế của
mình, thì đều bị vùi dập thêm. Mặc dầu vậy, nhiều người trí thức đã vì lợi ích
của dân tộc mà tự mình vượt lên, cống hiến hết mình cho sự nghiệp chung, nhiều
người thật sự đã có đóng góp lớn, và đã làm vinh quang cho đất nước.
Theo dõi
cuộc đời và sự nghiệp của nhiều trí thức lớn ở ta suốt nhiều chục năm qua đều
có thể thấy tình trạng đó : họ đều đã dũng cảm vượt qua những lần bị vùi dập bất
công, vì lợi ích cao nhất của dân tộc mà quên mình đi, lao động dũng cảm và cống
hiến. Cứ nhìn lại một số người tiêu biểu thì có thể thấy rõ: Trần Đại Nghĩa, Lê
Văn Thiêm, Tạ Quang Bửu, Hoàng Tụy… Theo tôi, những đóng góp đó chưa được đánh
giá đúng.
Một ví dụ
rất gần đây : năm vừa qua giáo sư Hoàng Tụy tròn 80 tuổi, thế giới toán học coi
là một dịp quan trọng để vinh danh và bày tỏ sự kính trọng, biết ơn công lao
sáng tạo của ông đối với toán học thế giới. Một hội nghị quốc tế về toán học đã
được tổ chức ở Pháp, có mặt những nhà toán học lớn trên thế giới, tôn vinh ông.
Trong khi đó cho đến nay Đảng và Nhà nước ta không hề có một lời đối với ông
vào dịp này. Thật là một lỗi nặng của chúng ta… Còn có thể kể nhiều ví dụ như
thế nữa.
Trong khi
đó, cũng chính do cách nghĩ không đúng về vai trò của trí thức, tiếng nói phản
biện xã hội vốn là thiên chức của trí thức, đối xử không đúng đối với những trí
thức chân chính, định kiến nặng nề đối với những trí thức thẳng thắn và cương
nghị, có tinh thần trách nhiệm cao với mọi vấn đề của xã hội, mặt khác, tất yếu,
lại rất dễ tạo ra một loại trí thức dỏm, chuyên tâng bốc, nịnh hót những người
cầm quyền, bao vây quanh họ những thông tin giả, gây rất nhiều tác hại. Loại đó
hiện nay rất nhiều, làm ô nhiễm môi trường trí thức ở ta. Và rất nhiều khi lại
được lãnh đạo ủng hộ, vì họ luôn nói dễ nghe, hóng gió mà nói theo.
Tôi nghĩ nếu
quả thật lần này Đảng muốn thật sự bàn về vấn đề trí thức, xây dựng lực lượng
trí thức xứng đáng với dân tộc, cho nhiệm vụ phát triển mới của đất nước, thì
không thể không nghiêm khắc tự kiểm điểm lại về những khuyết điểm không nhỏ ấy,
đã có hệ quả triệt tiêu vai trò có thể to lớn của một lực lượng trí thức dân tộc
đã tự phấn đấu rất kiên cường để là những trí thức không hề tầm thường.
Quả thật,
cho đến nay trong trí thức, còn có nhiều điều chưa được giải tỏa. Lòng tin của
họ đối với lãnh đạo chưa cao. Đã đến lúc cần dũng cảm sòng phẳng trở lại một lần
cho xong đối với một số vụ vùi dập trí thức từng xảy ra từ nhiều chục năm nay,
nghiêm túc nhận khuyết điểm, nghiêm túc rút kinh nghiệm, để cho thanh thản với
quá khứ và tránh mọi sai lầm lặp lại về sau.
Những người
trí thức chân chính chỉ cần một thái độ thật sự chân thành như vậy của lãnh đạo,
để có lòng tin vững chắc mà nhẹ nhàng, hết lòng cống hiến vì sự nghiệp lớn.
Hình : https://live.staticflickr.com/65535/52336188607_cd78901369.jpg
C. Để phát huy tốt vai trò của trí thức
Tôi nghĩ
trước hết nên tránh cách nghĩ trí thức đòi hỏi sự đãi ngộ. Đối với người trí thức
chân chính, nhấn mạnh đến đãi ngộ thậm chí đôi khi có thể là một sự xúc phạm đến
họ.
Để xây dựng
và phát huy lực lượng trí thức, theo tôi cần :
1. Trước hết nhận thức đúng về vai trò
và chức năng của trí thức trong xã hội.
Có thể nói một cách nôm na như thế này: trí thức sinh ra là để nói ngược. Chấp
nhận tiếng nói ngược, ít nhất là bình đẳng với nó, tôn trọng nó, để tự ý thức
rõ hơn về mình, công việc của mình, là bản lĩnh cần thiết của người lãnh đạo.
Trong công
cuộc công nghiệp hóa – hiện đại hóa, hội nhập rộng lớn ngày nay, tiếng nói ngược
như vậy càng quan trọng, bởi trong chiến tranh dù rất ác liệt nhưng về tư tưởng
thì là theo chiều thuận, nó phù hợp sâu xa với tình thần dân tộc và lòng yêu nước
vốn là sức mạnh lâu đời của người Việt. Xây dựng xã hội mới khó hơn nhiều, vì
có rất nhiều điều không phải đã có sẵn trong bản chất hay truyền thống của con
người Việt, phải phá vỡ rất nhiều quan niệm cũ, xây dựng những quan niệm mới,
thật sự là một cuộc cách mạng có thể còn sâu sắc hơn bao giờ hết. Chính lúc này
cần phát huy vai trò của trí thức, cần có một lực lượng trí thức có tính độc lập
cao, để từ đó có nhiều suy nghĩ mới, táo bạo, mở đường, sáng tạo.
2. Yêu cầu cao nhất của người trí thức
chân chính là được làm việc, được cống hiến, cống hiến tất cả tài năng, trí lực
của mình cho đất nước, cho xã hội.
Đãi ngộ họ đúng đắn là cần thiết, nhưng đãi ngộ rất nhiều mà không tạo điều kiện
tốt nhất, rộng rãi nhất cho họ làm việc, thì đối với họ sẽ chẳng có nghĩa gì cả.
Người trí thức chân chính thậm chí thường coi thường hình thức, ghét sự đãi
bôi, khinh rẻ quyền lợi vật chất. Họ không cần những lời chào đón, đề cao hình
thức, mà cần những điều kiện thiết thực để có thể làm việc, cống hiến nhiều nhất,
hiệu quả nhất. Phải nói rằng chúng ta đang làm rất không tốt điều này.
Xin nêu một
ví dụ : ngay một nhà bác học tầm cỡ thế giới như Pierre Darriulat, hết sức yêu
Việt Nam, tự nguyện đến ở và làm việc tại Việt Nam, nguyện hết lòng làm việc
cho Việt Nam như một chiến sĩ tình nguyện không công, mà cho đến nay một số ít
điều kiện làm việc tối thiểu cũng không được những người có trách nhiệm tạo cho
ông. Những ý kiến tâm huyết và hết sức sâu sắc, thiết thực của ông về nhiều
lĩnh vực quan trọng cũng bị những người và tổ chức có trách nhiệm bỏ ngoài tai.
Qua một việc cụ thể này chúng ta đang làm cho nhiều trí thức người Việt trong
nước và ngoài nước nản lòng.
3. Bên cạnh những điều kiện về vật chất
thật ra là rất ít ỏi người trí thức cần có, thì điều quan trọng, cơ bản, thiết
yếu nhất đối với họ là tự do, tự do tư tưởng. Tự do là điều kiện sống còn của trí thức. Không có tự
do tư tưởng thật sự, cụ thể, thiết thực thì không có trí thức. Xin nói rõ là họ
cần tự do tư tưởng rộng rãi nhất, tuyệt đối, không có bất cứ rào cản, cấm kỵ
nào. Họ phải có được quyền suy nghĩ đến cùng, trên mọi vấn đề, lật lại mọi vấn
đề, không bị bất cứ sự cản trở nào.
Cần thật sự
trao cho người trí thức quyền tự do tư tưởng cao nhất. Phải nói thật rằng chúng
ta đang làm không tốt điều này. Tôi thấy chúng ta đang có tâm lý nặng nề sợ
trao nhiều quyền tự do tư tưởng cho trí thức, viện những cớ rất giả tạo, vớ vẩn
như kiểu "thù trong giặc ngoài" để hạn chế tự do. Tôi cũng thật sự
không hiểu được tại sao một số người được bố trí vào một số cương vị nào đó thì
bỗng nhiên tự thấy mình có quyền cho ai được tự do, ai không đủ trình độ để được
tự do, quyền cho người ta được tự do đến đâu thì vừa, lúc nào thì được, v.v.
Vừa qua và
hiện nay đang có một số việc làm vụng về, thiển cận, vô ích, và gây bất bình, mất
lòng tin trong trí thức, làm cho tình hình nặng nề một cách không cần thiết, chẳng
hạn như cách xử lý đối với tập thơ Trần Dần vừa rồi, hoặc theo chỗ tôi được biết
những ý đồ tìm cách giải tán viện IDS, nơi đang có những tiếng nói phản biện của
nhiều trí thức có trình độ, giàu tâm huyết, nghiêm túc… Nếu chúng ta cứ tiếp tục
những việc làm kiểu đó thì mọi lời kêu gọi đóng góp trí tuệ, tài năng của trí
thức cho sự nghiệp chung sẽ mất đi rất nhiều tác dụng, thậm chí vô nghĩa.
Đối với
trí thức, không được dùng quyền lực. Những người trí thức chân chính không sợ
quyền lực, thậm chí khinh rẻ quyền lực. Cùng lắm là họ sẽ đối phó lại bằng im lặng.
Và chúng ta sẽ chẳng được gì cả, sẽ là mất mát rất lớn.
Chính vì vậy,
nói xây dựng lực lượng trí thức thì trước hết lại là xây dựng thái độ đúng đắn
của Đảng, của lãnh đạo đối với trí thức. Tôi xin nói: có được thái độ đó thì sẽ
có trí thức, bằng không thì sẽ không bao giờ có, hoặc sẽ chỉ có trí thức dỏm,
chỉ càng hại Đảng, hại cho sự nghiệp chung.
4. Để đào tạo một lực lượng trí thức lớn
và mạnh, cần thiết cho sự phát triển lâu dài của đất nước thì một trong những
điều kiện quan trọng nhất là phải có một nền đại học thật sự ra đại học, điều
chúng ta hiện nay hầu như hoàn toàn không có. Cách đây mấy mươi năm, song song với vụ Nhân văn
Giai phẩm, chúng ta đã phá tan mất một nền đại học rất đàng hoàng, với những
trí thức lớn như Đào Duy Anh, Trần Đức Thảo, Nguyễn Mạnh Tường, Trần Đình Hượu,
v.v., và từ đó đại học của ta, như nhiều người nói, chỉ còn là một kiểu phổ
thông cấp 4.
Điều kiện
cốt lõi của đại học là độc lập tư duy. Nhiệm vụ cơ bản của đại học là tạo nên
những con người có dũng khí, tư cách và khả năng tư duy độc lập ; có như vậy nó
mới chuẩn bị được cho đất nước một lực lượng trí thức mạnh, dồi dào. Và muốn có
một nền đại học như vậy, thì trước sau cũng phải thẳng thắn giải quyết vấn đề tự
trị đại học.
Tôi đề nghị
cần đặt ra vấn đề ấy, có kế hoạch thực hiện từng bước, để đi đến có được một nền
đại học đàng hoàng, cho công cuộc hiện đại hóa của đất nước. Dự định đến năm
nào đó ta sẽ có được đại học vào top này top nọ của thế giới sẽ hoàn toàn là ảo
tưởng nếu ta cứ một mực duy trì một kiểu đại học chẳng khác gì phổ thông như hiện
nay. Có thể có một số đại học không thua kém ai, thậm chí trong một thời gian
không dài, nếu ta dám thật sự làm đại học tự trị. Trước sau chúng ta cũng phải
nhất thiết tiến đến đó, cần bắt đầu những bước đi đầu tiên từ bây giờ.
Đấy là một
trong những điều kiện thiết yếu để xây dựng lực lượng trí thức xứng đáng cho đất
nước, dân tộc, đáp ứng yêu cầu của phát triển.
Nguyên
Ngọc
_______________
(*) Bài
viết này là phát biểu của nhà văn Nguyên Ngọc trong Hội nghị chuẩn bị Nghị quyết
về trí thức do Ban Bí thư Trung ương Đảng triệu tập, năm 2008. Người Đô Thị trích đăng từ tập
sách Dọc
đường, phát hành bởi Nhã Nam và Nhà xuất bản Phụ nữ Việt Nam tháng
6/2022.
No comments:
Post a Comment