CÁCH
ĐÂY MỘT THẾ KỶ, NHỮNG NGƯỜI KHỔNG LỒ
Tác giả : Nguyên Ngọc
Mừng
thọ nhà văn Nguyên Ngọc 90 tuổi (5/9/1932-5/9/2022)
Gần đây,
do những chuyển động mới trong đời sống xã hội và hoạt động tích cực của những
người tâm huyết, một số tác phẩm của nhiều người trước đây từng bị coi là “có vấn
đề” đã được in và giới thiệu lại, đáng chú ý chẳng hạn những bài viết phong
phú, sắc sảo và sinh động, cả cập nhật ngay đối với hôm nay nữa của Phan Khôi,
hay những tác phẩm uyên thâm, thống thiết, và lạ thế, cũng cập nhật không kém của
Phạm Quỳnh - một tập tiểu luận dịch từ nguyên bản tiếng Pháp của ông đang gây
chú ý rộng rãi trong dư luận. Một nhân vật đặc biệt khác cũng đang thu hút sự
quan tâm của nhiều người nhiều giới: Nguyễn Văn Vĩnh. Theo chỗ tôi được biết một
bộ phim tài liệu quý về cuộc đời và sự nghiệp của ông đang được chuẩn bị. Tôi
có được xem một phần bản thảo phim ấy. Mở đầu là một người cháu gái của Nguyễn
Văn Vĩnh, nay chắc cũng đã quá tuổi tứ tuần, kể chuyện cách đây mấy mươi năm một
hôm đi học về tủi thân và khóc ròng, lại gặp cơn mưa lớn, phải vào trú dưới mái
hiên một nhà bên đường. Bà cụ chủ nhà thấy có cô học trò đứng dưới hiên nhà
mình mà khóc, liền ra hỏi: “Sao cháu khóc nhiều thế?”. Cô bé sụt sùi: “Sáng nay
ở lớp cô giáo dạy rằng ông nội cháu là một tên đại Việt gian, tay sai, bồi bút
cho thực dân Pháp, cháu buồn, cháu nhục quá…”. “Vậy ông nội cháu là ai?”. “Dạ,
ông cháu là Nguyễn Văn Vĩnh ạ...”. Bà cụ ôm chầm lấy cô bé: “Trời ơi, cháu là
cháu nội Tân Nam Tử ư? Ôi, cháu vào ngay đây với bà, cháu không việc gì phải
khóc cả, Tân Nam Tử Nguyễn Văn Vĩnh là một người rất vĩ đại, mặc ai nói gì thì
nói, cháu phải rất tự hào. Cháu có một người ông từng có công lớn lắm với đất
nước này... Rồi xã hội cũng sẽ phải công bằng thôi, cháu ạ...”. Quả thật ngày
nay cuộc sống đã bắt đầu trả lại sự công bằng - muộn mằn và chậm chạp - cho
nhân vật cao lớn đến kỳ lạ ấy của đất nước: một nhà văn, một nhà báo, một dịch
giả, một nhà văn hóa lớn, hầu như lĩnh vực nào cũng là người khai phá và luôn ở
hàng đầu, người sáng lập tờ báo chữ quốc ngữ đầu tiên ở miền Bắc, ông tổ của
ngành in hiện đại ở nước ta, người đầu tiên thiết lập nền sân khấu hiện đại ở
Việt Nam, và bằng những bài thơ dịch La Fontaine tuyệt vời, cũng là người đầu
tiên phá vỡ thể thơ truyền thống, giải phóng thơ Việt ra khỏi khuôn khổ cổ cứng
nhắc hàng nghìn năm, mở đường cho thơ mới ra đời, hiện đại hoá thơ Việt, cũng lại
là một trong những người tiên phong sáng lập Đông Kinh Nghĩa Thục: một nhà khai
sáng chói lọi của đất nước đầu thế kỷ XX…
Cuộc sống
cũng đã và đang dần dần trả lại công bằng cho một số tên tuổi lớn từng bị soi rọi
nhiều chục năm dưới những nguồn sáng chẳng lấy gì làm đẹp đẽ, như Trương Vĩnh
Ký, Huỳnh Tịnh Của, và không ít người khác nữa, những tài năng xuất chúng, những
nhà khai sáng lớn trong một thời kỳ chuyển động lịch sử quan trọng. Một số nhân
vật khác, ít gay cấn hơn, nhưng cũng từng bị hiểu sai, công khai hay lập lờ, bị
gán cho những danh hiệu tuỳ tiện và quy chụp, hoặc bị quên lãng, đẩy xuống những
hàng khuất lấp bất công, những Phan Châu Trinh, Huỳnh Thúc Kháng, Lương Văn
Can, Đào Nguyên Phổ, Trương Gia Mô, Nguyễn Trọng Lợi, Huỳnh Tá Bang, Nguyễn Bá
Trác..., nay người ít người nhiều, người sớm người muộn, người đã tương đối rõ
ràng người còn phải tiếp tục làm sáng rõ, đã dần dần được đánh giá lại theo
đúng tầm cỡ, vị trí và cống hiến của họ trong lịch sử cận đại và hiện đại... Thời
gian đang làm công việc lâu dài mà sòng phẳng của nó, không thế lực, cường quyền
nào ngăn chặn được, bất chấp những tiếng la ó ngày càng lạc lõng của ai đó. Đời
sống tinh thần, văn hóa, cả chính trị của đất nước vì thế ngày mỗi giàu thêm
lên. Và được thụ hưởng là tất cả chúng ta, là nhân dân. Có lẽ còn hơn thế nữa,
đây không chỉ là một sự khôi phục công bằng lịch sử lành mạnh. Còn có thể là một
đóng góp không hề nhỏ cho chính sự phát triển nhiều triển vọng mà cũng đầy
thách thức hôm nay. Bởi những thế hệ quá khứ không chỉ đã đóng trọn vai trò hoá
ra là hết sức to lớn của họ, họ còn có thể tham gia trực tiếp vào cuộc đi tới
hôm nay của chúng ta, bằng những bài học còn nóng hổi, nếu ta biết từ họ mà đối
chiếu và ngẫm nghĩ, từ đó tính lại bao nhiêu công việc của chúng ta bây giờ.
Riêng tôi,
từ ít lâu nay, tôi vẫn thường trở đi trở lại với một câu hỏi: Tại sao hồi đầu thế kỷ XX chúng ta lại có
được một thế hệ những người khổng lồ như vậy, trong văn hóa, tức là ở cái nền tảng
cơ bản nhất của tất cả, mà hình như ngày nay chúng ta lại không có, không còn
có được? Những điều kiện lịch sử nào và những nỗ lực cá nhân nào đã tạo nên “thế
hệ vàng” ấy của văn hóa Việt Nam vào đúng thời điểm vô cùng quan trọng mà chắc
rồi chúng ta còn phải nhiều lần trở lại công phu tìm hiểu, nghiên cứu?
Trong nhiều
yếu tố, nhiều nguyên nhân, phải chăng có một nguyên nhân hết sức quan trọng, thậm
chí quyết định này: thế hệ ấy có một lợi thế đặc biệt, họ là một thế hệ đa văn
hóa. Đặc điểm quan trọng nhất của họ là từ Hán học chuyển sang Tây học. Một nền
Hán học rất uyên thâm, mà trước nay ta quá dễ hời hợt coi thường, khinh miệt,
chế giễu, cả lên án nữa. Về điều này, lâu nay tôi nghĩ có hơi khác một chút.
Tôi đã thử đặt câu hỏi: nền đại học nào đã tạo nên những Phan Bội Châu, Phan
Châu Trinh, Huỳnh Thúc Kháng, Trần Quý Cáp, Đào Nguyên Phổ, Ngô Đức Kế, Trần
Cao Vân, Đặng Nguyên Cẩn…, cả những Phan Đình Phùng, Hoàng Hoa Thám, Nguyễn
Trung Trực, Nguyễn Đình Chiểu…? Chính là nền đại học “phong kiến” vào một thời
kỳ mạt vận nhất của chế độ ấy tức nhà Nguyễn. Vậy hóa ra nền đại học ấy không hề
tầm thường chút nào, ít ra cũng không tầm thường hơn nền đại học ta đang có hiện
nay. Họ học gì? Tứ Thư, Ngũ Kinh. Và Tứ Thư, Ngũ Kinh là gì? Đấy là trí tuệ cao
nhất, tập trung, cô đúc nhất của thời trung đại phương Đông. Họ không học tràn
lan như chúng ta bây giờ, vơ cho kỳ hết đủ thứ, bỏ cái gì cũng sợ thiếu, đến nỗi
học trò lớp một phổ thông đã phải vẹo cả cột sống với chiếc cặp sách khốn khổ của
bộ Giáo dục trên lưng! Họ chỉ học rất ít, chắt lọc lấy cái cơ bản nhất mà học,
học cho đến nhuần nhuyễn, để rồi từ cái cơ bản đó mà đủ sức tự mình vận dụng
hành xử trong mọi tình huống suốt đời. Có lẽ cũng chính vì vậy mà có một điểm rất
đáng chú ý: chính những người giỏi nhất trong số họ, những nhà Hán học uyên
thâm nhất lại là những người được nền học vấn ấy tạo nên trí tuệ và ý chí độc lập
hết sức mạnh mẽ để dám và biết cách từ bỏ thầy, từ bỏ sách, đạp đổ cái cũ, chống
lại chính cái đã học, đi trên cái mới, tự giải phóng cho trí tuệ của mình và
cho đất nước, dân tộc. Nghĩa là họ học để trở thành người độc lập, tự chủ, chứ
không phải thành người nô lệ, nô lệ cho những giáo điều bất khả xâm phạm, như
ta từng lầm tưởng. Người nổi bật nhất trong số đó và xu hướng đó là Phan Châu Trinh, mà Huỳnh Thúc Kháng đã
đánh giá xác đáng là “nhà cách mạng đầu
tiên của Việt Nam”. Vậy thì, nghịch lý thay, nền giáo dục đó rất hiện đại:
nó tạo nên không phải những đầu óc được nhồi sọ u tối mà là những nhân cách độc
lập, tất nhiên, như bao giờ cũng vậy, ở bộ phận ưu tú nhất của nó…
Những con
người đó lại gặp một chuyển đổi thời đại hết sức quan trọng, khi Việt Nam, và cả
phương Đông đối mặt với phương Tây, khi diễn ra sự gặp gỡ và va chạm quyết định
giữa hai nền văn hóa, văn minh lớn của nhân loại. Những phần tử sáng suốt nhất
trong Hán học đã chuyển sang Tây học, dũng cảm, quyết liệt. Có điều thoạt thấy
rất lạ: chính thế hệ Tây học đầu tiên đó lại là những nhà Tây học rất sâu. Vì
sao? Phải chăng chính là vì họ xuất phát từ Hán học cũng rất sâu. Đây là sự gặp
gỡ giữa hai đỉnh cao, từ đỉnh cao này họ nhìn ngắm đỉnh cao kia, từ đỉnh cao
này họ đến với đỉnh cao kia. Trong họ là sự kết nối hai nền văn hóa lớn nhất của
nhân loại, vấn đề của họ luôn là vấn đề của sự kết nối đó, những khả năng, những
khó khăn, thách thức, những lời giải cố tìm cho sự kết nối đó.
Hãy đọc kỹ
lại chẳng hạn Phan Khôi. Thật đáng
kinh ngạc vì tri thức bác học cả Đông lẫn Tây của ông, hầu như không có lĩnh vực
nào bị ông bỏ qua, không vấn đề lớn nhỏ nào không được ông quan tâm, đề cập và dù
chỉ một bài báo nhỏ của ông cũng là một công trình nghiên cứu công phu, trung
thực, thậm chí khá cơ bản. Ông cũng là người đầu tiên dịch Kinh Thánh. Vì sao
ông bỏ công sức lớn để làm công việc khó khăn và thoạt trông rất lạ đó, dầu ông
không hề là người Công giáo? Có thể, một là ông dịch để học, hai là, và điều
này còn quan trọng hơn, ông hiểu rất sâu rằng đấy là một tác phẩm lớn, cội nguồn
của văn hóa phương Tây. Ông muốn tìm đến văn hóa phương Tây ở tận cội nguồn của
nó…
Tôi cũng
thường chú ý đến Huỳnh Thúc Kháng, một
nhân vật có lẽ chúng ta cũng chưa để tâm nghiên cứu đầy đủ và đánh giá thật xác
đáng. Thường được nhắc đến giai thoại về việc Huỳnh Thúc Kháng học tiếng Pháp:
ông học trong nhà tù Côn Đảo, bằng cách học thuộc lòng từ đầu đến cuối toàn bộ cuốn
từ điển Larousse! Có điều đáng ngạc nhiên: văn quốc ngữ của Huỳnh Thúc Kháng rất
hay, tôi đọc đi đọc lại ông và cuối cùng nhận ra điều này: hoá ra đấy là lối viết
văn quốc ngữ mà chỉ có những người thông thạo Hán học chuyển sang Tây học mới
có được; một lối tư duy khúc chiết, chặt chẽ, sáng sủa của lý tính phương Tây
mà họ quyết chiếm lĩnh, kết hợp với một lối suy tư và diễn đạt súc tích đến
không thừa một chữ, nghĩa ẩn trong chữ, sau chữ, giữa các dòng của người phương
Đông. Nói về tính cách độc lập vô cùng mạnh mẽ của Phan Châu Trinh và việc Phan
Châu Trinh sáng suốt tìm ra con đường mới từ Tân thư chẳng hạn, Huỳnh Thúc
Kháng viết, cực gọn mà sắc, lại đầy hình ảnh: “Tiên sinh đọc sách có con mắt
riêng”. Và đây là tuyên ngôn dõng dạc của ông trên số báo Tiếng Dân đầu tiên
trong điều kiện làm báo dưới chế độ khắc nghiệt của thực dân Pháp: “Nếu không có quyền nói thì ít ra cũng giữ được cái quyền không nói những
điều người ta buộc nói”. Khí tiết và văn phong, cô lại đến đậm đặc
và sắc tựa gươm chỉ trong một dòng!...
Cũng không
thể không nhắc đến Phạm Quỳnh. Sau
nhiều tác phẩm viết bằng tiếng Việt, cuốn tiểu luận viết bằng tiếng Pháp từ năm
1922 đến năm 1932 của ông vừa được dịch và in là một hiện tượng xuất bản năm
qua. Mối ưu tư thống thiết của ông cố đi trên một con đường cho dân tộc trong
cuộc va chạm dữ dội và chấn động giữa hai thế giới Đông Tây, lạ thế, đọc cứ như
đang nghe ông nói về chính những vấn đề của hôm nay. Sức nghĩ của con người có
thể vượt thời gian đến thế, thật khó ngờ!...
Và về Nguyễn Văn Vĩnh, chỉ xin nói một khía cạnh
“nhỏ” này: sự nghiệp dịch thuật, cũng như tất cả các hoạt động sôi nổi của ông
trong mọi lĩnh vực khác, đều có tính tiên phong và ngay từ đầu đã rất đặc sắc
Nguyễn Văn Vĩnh có một quan niệm thâm thuý về dịch thuật. Ông dịch là để đem về
cho đồng bào mình những giá trị văn hóa lớn của nhân loại, điều vô cùng cần thiết,
thậm chí khẩn cấp trong công cuộc khai hoá dân tộc mà ông thống thiết theo đuổi
suốt đời. Nhưng không chỉ có thế: ông chủ trương đẩy mạnh dịch thuật một mặt là
để chứng minh khả năng giàu có của tiếng Việt đồng thời cũng còn là để góp phần
hiện đại hoá ngôn ngữ dân tộc, làm cho ngôn ngữ ấy - và qua đó, tất nhiên, cả
người Việt, dân tộc Việt - được tăng cường thêm các khả năng chiếm lĩnh những
thành quả văn hóa, văn minh cao nhất và cập nhật nhất của nhân loại. Hiện đại
biết bao quan niệm và tư duy đó, và tha thiết, sâu đậm biết bao tấm lòng yêu nước
của thế hệ dân tộc ta từng có được thời bấy giờ…
Quả
thực, hồi đầu thế kỷ XX, chúng ta từng có được một thế hệ vàng. Quả thật đấy là
thời kỳ của những người khổng lồ.
Để có được ngày hôm nay của đất nước, không phải chỉ có cách mạng và chiến
tranh. Hoặc nói cho đúng hơn, chính những con người như vậy, vào một thời điểm
chuyển động quan trọng của lịch sử, đã góp phần không hề nhỏ chuẩn bị tinh thần,
trí tuệ, cả chí khí nữa cho dân tộc để có được cách mạng thành công và chiến
tranh giải phóng thắng lợi. Thế hệ ưu tú đó đã đi qua. Cần tiếp tục sự minh định
công bằng của lịch sử đối với họ. Nhưng điều còn quan trọng hơn, cần tìm biết vì sao thời ấy
đất nước khó khăn hơn bây giờ biết bao nhiêu lần, mà lại xuất hiện được thế hệ
đặc sắc ấy. Và bây giờ thì chưa có lại được. Vì sao? Có quy luật gì ở đây
chăng? Tôi tin rằng có. Có một
quy luật: nhất thiết phải đa văn hóa. Phải tìm mọi cách để, như cha ông ta cách
đây đúng một thế kỷ, làm chủ được những đỉnh cao của văn hóa cả phương Đông lẫn
phương Tây. Không
thể, như do cạn cợt và thiển cận suốt một thời gian khá dài, chúng ta đã làm thế
nào đó để mà cuối cùng đánh mất cả Đông lẫn Tây, Đông không còn
mà Tây cũng vứt đi hết, Đông không ra Đông - Tây không ra Tây. Chỉ còn trơ khất cái được gọi là “dân tộc” kỳ thực là tước đi hết của
dân tộc tất cả những tiếp thụ phong phú và cần thiết cho chính cái “dân tộc” đó
là một dân tộc giàu có vì liên thông với những đỉnh cao nhất của tinh thần và
trí tuệ nhân loại. Cải cách giáo dục, cả cải cách xã hội nữa, phải
được đặt trên nền tảng của một tầm nhìn lớn, rất xa và rất rộng, những lạ thay
và kỳ diệu thay, những người khổng lồ đầu thế kỷ XX của chúng ta đã thật anh
minh nhìn ra và thiết kế cho đất nước này.
N.N.
https://www.facebook.com/photo/?fbid=1743768062648906&set=a.123350561357339
Chân dung Nguyên Ngọc
.
No comments:
Post a Comment