Saturday, 18 July 2020

MỸ - TRUNG TÁI HIỆN CUỘC TRANH LUẬN BIỂN ĐÔNG 'ĐÓNG hay MỞ" (Nguyễn Hồng Thao)




16/07/2020    08:00 GMT+7

16/07/2020    08:00 GMT+7

Bốn năm sau phán quyết vụ kiện Biển Đông, Mỹ và Trung Quốc tái hiện cuộc tranh luận Mare liberum (biển mở - tự do cho tất cả) và Mare clausum (biển đóng - thuộc về quốc gia) có từ thế kỷ 17.


Trân trọng giới thiệu bài viết của Đại sứ Nguyễn Hồng Thao dành riêng cho Tuần Việt Nam.

Tuyên bố của Ngoại trưởng Mỹ Michael R. Pompeo về Lập trường của Hoa Kỳ về các yêu sách biển tại Biển Đông ngày 13/7 và phát biểu làm rõ của Trợ lý Ngoại trưởng David R. Stilwell, phụ trách Đông Á và Thái Bình Dương một ngày sau đó thể hiện quan điểm Biển Đông “tự do và rộng mở”, là “di sản chung của Đông Nam Á”. 

Ngoại trưởng Mỹ Michael R. Pompeo. Ảnh: AP

Lập trường nhất quán và lâu dài của Mỹ     

Mỹ “ủng hộ một trật tự thế giới dựa trên luật lệ”, phản đối “sự thống trị đơn phương và thay thế luật pháp quốc tế bằng “chân lý thuộc về kẻ mạnh” và “không cho phép Bắc Kinh coi Biển Đông như đế chế biển của riêng mình”. Mỹ “tuyên bố, và theo Công ước, phán quyết của Tòa Trọng tài là cuối cùng và mang tính ràng buộc về pháp lý với cả hai bên (Philippines và Trung Quốc)”.

Phản hồi của Đại sứ quán Trung Quốc tại Mỹ ngày 13/7 và họp báo của người phát ngôn Bộ Ngoại giao Trung Quốc Triệu Lập Kiên ngày 14/7 cho rằng “Trung Quốc đã thực thi quản lý hiệu quả đối với các đảo, đá và vùng biển liên quan ở “Nam Hải” (Biển Đông) ngàn năm nay”. 

Trung Quốc chủ trương “xử lý khác biệt thông qua quy tắc và cơ chế, hướng đến hợp tác cùng thắng, đôi bên cùng có lợi”. Trung Quốc cho rằng “Mỹ lợi dụng vụ kiện Tòa trọng tài để phục vụ cho lợi ích chính trị của mình là lạm dụng Luật biển quốc tế, Trung Quốc tuyệt đối không chấp nhận”.

Phát ngôn viên Bộ Ngoại giao Trung Quốc Triệu Lập Kiên. Ảnh: Reuters

Không nghi ngờ gì, các tuyên bố và phát biểu này đã đẩy cuộc chiến pháp lý trên Biển Đông lên tầm cao mới, tác động đến các nước trong và ngoài khu vực, có tác động lâu dài đến tập hợp lực lượng và giải quyết các tranh chấp biển ở Biển Đông.

Tuyên bố 13/7 thể hiện lập trường nhất quán và lâu dài của Mỹ về các yêu sách biển ở Biển Đông. Đây có thể được coi là một văn bản lập trường tổng hợp đầu tiên của Mỹ do Bộ Ngoại giao nước này phát hành để đáp lại các lập luận trong tài liệu lập trường của Trung Quốc năm 2014, Tuyên bố của chính phủ CHND Trung Hoa về chủ quyền lãnh thổ và các quyền và lợi ích biển trong Biển Đông năm 2016 hay các tuyên bố của Bộ Ngoại giao Trung Quốc từ 2016.

Tuyên bố này không thay đổi lập trường của Mỹ đã thể hiện trong Chính sách về quần đảo Trường Sa và Biển Đông (Policy on Spratly Islands and South China  Sea) được công bố năm 1995 sau vụ đá Vành Khăn song nó cụ thể hóa, chi tiết hơn 5 điểm cơ bản trong tài liệu này. 

Sáng tỏ 3 loại vùng biển mà Trung Quốc yêu sách bất hợp pháp 

Trong Tuyên bố, Mỹ thể hiện lập trường đã có đối với các yêu sách trên biển của Trung Quốc tại Biển Đông với cùng quan điểm như phán quyết của Tòa Trọng tài. Phán quyết có hai đóng góp quan trọng trong giải thích Công ước. Đó là yêu sách quyền lịch sử dựa trên đường 9 đoạn không có cơ sở pháp lý sau khi Công ước có hiệu lực và không thực thể nào của quần đảo Trường Sa có quyền mở rộng vùng biển vượt quá các danh nghĩa địa lý mà Công ước đã quy định. 

Bộ Quốc phòng Mỹ phản đối Trung Quốc tập trận trên Biển Đông. Ảnh: SCMP

Tuyên bố của Mỹ làm sáng tỏ 3 loại vùng biển mà Trung Quốc đang yêu sách bất hợp pháp theo phán quyết:

1)  Bất kỳ yêu sách vùng đặc quyền kinh tế (EEZ) nào từ bãi Scarborough và quần đảo Trường Sa ở trong các khu vực mà Tòa Trọng tài đã phán quyết là nằm trong EEZ hoặc thềm lục địa của Philippines, bao gồm cả đá Vành Khăn và bãi Cỏ Mây, là bất hợp pháp.

2) Bất kỳ yêu sách các vùng biển nào mà CHND Trung Hoa đưa ra nằm ngoài lãnh hải 12 hải lý tính từ các đảo tại quần đảo Trường Sa là bất hợp pháp. Điều này có nghĩa là Mỹ công nhận các yêu sách biển tính từ đất liền của các nước xung quanh phù hợp với nguyên tắc Đất thống trị biển. Quần đảo Trường Sa, dù là từng thực thể hay được coi là một đơn vị đất liền, đều không có quyền có vùng đặc quyền kinh tế và thềm lục địa riêng. 

Vì vậy, mọi hoạt động nhằm quấy rối đánh bắt cá hay phát triển dầu khí của các quốc gia có yêu sách các vùng biển phù hợp với Công ước Luật biển như các vùng biển xung quanh bãi Tư Chính (ngoài khơi Việt Nam), cụm bãi Luconia (ngoài khơi Malaysia), vùng biển thuộc EEZ của Brunei và Natuna Besar (ngoài khơi Indonesia) đều là bất hợp pháp.

3) Yêu sách bãi ngầm Tăng Mẫu, chìm dưới nước 20m và cách 1.000 hải lý như “lãnh thổ cực nam của Trung Quốc” là vi phạm luật quốc tế: Một cấu trúc dưới nước như bãi ngầm Tăng Mẫu không phải là đối tượng để bất cứ quốc gia nào tuyên bố chủ quyền và không thể tạo ra các vùng biển, kể cả nội thủy hay lãnh hải.

Cáo buộc của Trung Quốc 

Trung Quốc cho rằng “Tuyên bố của Mỹ bất chấp sự thật lịch sử khách quan, đi ngược lại với cam kết công khai của Mỹ về việc “không tỏ lập trường” (take no position) đối với tranh chấp chủ quyền ở “Nam Hải” (Biển Đông), vi phạm và bóp méo luật pháp quốc tế, cố tình kích động tranh chấp lãnh thổ và biển, phá hoại hòa bình, ổn định ở khu vực, là hành động rất “vô trách nhiệm”.

Trong khi đó, Tuyên bố của Mỹ ngay từ đầu đã xác định chỉ liên quan đến các yêu sách biển “mà không phương hại đến yêu sách chủ quyền của các quốc gia khác đối với các đảo đó”.

Tàu sân bay USS Ronald Reagan, USS Theodore Roosevelt và USS Nimitz trong một cuộc diễn tập tại Thái Bình Dương tháng 11/2017. Ảnh: Reuters

Đây không phải là sự xa rời hay điều chỉnh chính sách về Biển Đông được tuyên bố từ năm 1995 như các đại diện ngoại giao Trung Quốc cáo buộc. Điểm 1 Tuyên bố 1995 nêu rõ: “Mỹ không có quan điểm về các nội dung pháp lý của các yêu sách chủ quyền trên các đảo, đá, san hô và bãi khác nhau trong Biển Đông’. Tuyên bố 13/7 chỉ “ủng hộ các đồng minh và đối tác của Mỹ tại Đông Nam Á trong việc bảo vệ quyền chủ quyền của họ đối với các nguồn tài nguyên ngoài khơi, thống nhất với các quyền và nghĩa vụ của họ theo luật pháp quốc tế”.

Mỹ đã kiên nhẫn kêu gọi Trung Quốc xem xét lại các yêu sách biển của mình. Công hàm ngày 28/12/2016 yêu cầu Trung Quốc “điều chỉnh hoặc làm rõ yêu sách biển của mình tại Biển Đông cho phù hợp với luật biển quốc tế được phản ánh trong Công ước luật biển, nhất là các điều khoản liên quan đến đường cơ sở và các vùng biển”. Công thư ngày 1/6/2020 yêu cầu Trung Quốc làm “phù hợp các yêu sách biển của mình với luật quốc tế được phản ánh trong Công ước luật biển, tuân theo phán quyết của Tòa trọng tài ngày 12/7/2016 và chấm dứt các hành động khiêu khích ở Biển Đông”.

Dịch chuyển lớn trong lập trường của Mỹ   

Tuyên bố 13/7 là một bước dịch chuyển lớn trong lập trường của Mỹ khi lần đầu tiên coi “các yêu sách của Bắc Kinh đối với các nguồn tài nguyên ngoài khơi tại hầu hết Biển Đông, cũng như chiến dịch bắt nạt để kiểm soát các nguồn tài nguyên đó, là hoàn toàn bất hợp pháp”.  

Các chính quyền Mỹ và các phát biểu trước thường chỉ dừng lại tố cáo các hành vi khiêu khích, xâm lược, làm mất ổn định hay yêu sách quá mức. Mỹ đã chuyển từ ngôn từ ngoại giao, kiềm chế sang trực diện phê phán. Tuyên bố này đánh dấu thời điểm tới hạn của cuộc chiến công hàm về Biển Đông gửi qua Liên hợp quốc. Trung Quốc đã lấy cớ đệ trình chung thềm lục địa mở rộng Malaysia - Việt Nam ngày 6/5/2009 để công khai yêu sách đường 9 đoạn và mở rộng cải tạo đảo ở Biển Đông.  Cuộc chiến công hàm 1.0 (2009-2011) đó không có sự tham gia của Mỹ.  

Đến nay, cuộc chiến công hàm về thềm  lục địa mở rộng do Malaysia khởi xướng từ tháng 12/2019 (cuộc chiến công hàm 2.0)  đã có 13 công hàm và công thư được trao đổi giữa Trung Quốc (4 công hàm, 1 công thư), Philippines (2), Indonesia (2), Việt Nam (3), Mỹ (1). 

Tuyên bố của Mỹ được đưa ra sau khi các bên liên quan đã thể hiện đầy đủ lập trường là khẳng định khách quan chấm hết cho các yêu sách biển bất hợp pháp tại Biển Đông mà Tòa Trọng tài đã bác bỏ. Nhật đã lên tiếng ủng hộ và các đồng minh khác đang chuẩn bị thể hiện tiếp lập trường.


--------------------

17/07/2020    05:58 GMT+7

Trung Quốc cho rằng, Mỹ từ chối gia nhập Công ước LHQ về Luật biển 1982 và mới là kẻ gây rối hòa bình ổn định khu vực. Trái lại, Mỹ tuyên bố ‘ủng hộ một trật tự thế giới dựa trên luật lệ’.


Tuần Việt Nam trân trọng giới thiệu phần 2 bài viết của Đại sứ Nguyễn Hồng Thao:

Trung Quốc muốn thay đổi luật quốc tế

Bắc Kinh nêu lập luận, Mỹ nhiều lần hủy bỏ hiệp ước và rút khỏi các tổ chức quốc tế; áp dụng có chọn lọc luật pháp quốc tế, cái gì có lợi thì dùng, không có lợi thì bỏ; liên tiếp cử tàu chiến, máy bay quân sự tiên tiến, quy mô lớn tiến hành “quân sự hóa” tại “Nam Hải” (Biển Đông), thực thi “logic cường quyền” và “hành vi bá quyền”, từ chối gia nhập Công ước LHQ về Luật biển 1982. Mỹ mới chính là kẻ phá hoại và gây rối hòa bình, ổn định ở khu vực”.

Trái lại, Mỹ tuyên bố ‘ủng hộ một trật tự thế giới dựa trên luật lệ”.  Thực tế, các quy định về đường cơ sở và các vùng biển, cũng như quy chế các đảo, đá, bãi cạn nửa nổi nửa chìm, các bãi chìm đều mang tính tập quán và được pháp điển hóa trong Công ước Luật biển cũng như được giải thích rõ trong  Phán quyết. Mỹ, không phải thành viên Công ước, song là thành viên của cộng đồng quốc tế, có nghĩa vụ tôn trọng các quy phạm mang tính tập quán đó và yêu cầu các nước cùng thực hiện nghĩa vụ đó.

Trợ lý Ngoại trưởng Mỹ đặc trách vấn đề Đông Á và Thái Bình Dương David R. Stilwell. Ảnh: Bộ Ngoại giao Mỹ

David R. Stilwell nhận xét: “Bằng yêu sách 'chủ quyền không thể tranh cãi' trên một vùng rộng hơn cả Địa Trung Hải và cản trở các quyền của các quốc gia khác, Bắc Kinh đang đe dọa trật tự đã được thiết lập từng mang lại cho châu Á hàng thập kỷ phồn vinh. Trật tự dựa trên tự do và rộng mở này, là các tư tưởng mà Bắc Kinh chống lại… Bắc Kinh muốn thống trị toàn bộ, muốn thay đổi luật quốc tế bằng các quy tắc dựa trên đe dọa và cưỡng chế”.

Bốn thách thức Biển Đông phải đối mặt

Nhận xét của David R. Stilwell cụ thể hóa 4 thách thức mà Biển Đông phải đối mặt. 

Thứ nhất là việc Trung Quốc sử dụng các doanh nghiệp nhà nước như công cụ cưỡng chế kinh tế và lạm dụng quốc tế. Tập đoàn xây dựng và thông tin Trung Quốc (CCCC) đã dẫn đầu trong việc phá san hô, cải tạo đá, xây dựng các căn cứ quân sự hay Tập đoàn dầu khí ngoài khơi Trung Quốc CNOOC đã đưa giàn khoan HD-981 đe dọa Việt Nam ở ngoài khơi quần đảo Hoàng Sa năm 2014.

Thứ hai, việc thúc đẩy thông qua một Bộ quy tắc ứng xử của các bên trên Biển Đông (COC) chỉ nhằm hợp pháp các hành động cải tạo đá, quân sự hóa, hay yêu sách biển bất hợp pháp sẽ gây tác hại nghiêm trọng và không thể chấp nhận với nhiều quốc gia. Mỹ kêu gọi sự minh bạch lớn nhất trong quá trình đàm phán COC để đảm bảo hiệu quả và hoàn toàn phù hợp với các nguyên tắc của Luật biển.

Tàu hải cảnh Trung Quốc đe dọa hoạt động thăm dò, khai thác dầu khí của các nước láng giềng ở Biển Đông

Trung Quốc lại cho rằng “Hiện nay, với nỗ lực chung của Trung Quốc và ASEAN, tình hình “Nam Hải” (Biển Đông) về tổng thể ổn định, Trung Quốc và ASEAN không chỉ tuân thủ DOC, mà còn đang đẩy nhanh trao đổi COC mang tính ràng buộc hơn, cùng duy trì hòa bình, ổn định và tự do hàng hải ở “Nam Hải” (Biển Đông)”. Thế nhưng Tuyên bố của Chủ tịch Hội nghị cấp cao ASEAN 36 lại lần đầu sử dụng ngôn từ nghiêm khắc “bày tỏ quan ngại về các hoạt động cải tạo đảo, những diễn biến gần đây, trong đó có những hành động và vụ việc hết sức nghiêm trọng, làm xói mòn lòng tin, gia tăng căng thẳng và có thể làm ảnh hưởng đến hòa bình, an ninh, và ổn định trong khu vực”. 

Ngày 14/7, Malaysia công bố tàu hải cảnh và tàu chiến Trung Quốc 89 lần xâm nhập vùng biển nước họ từ 2016 đến 2019, chưa kể vụ đụng độ với tàu West Capella trong tháng 4 năm nay. Cũng trong ngày, tàu hải cảnh 5402 của Trung Quốc lần thứ tư xâm nhập lô 06.01 thềm lục địa Việt Nam trong một tháng qua.

Thứ ba, bằng việc sử dụng lập luận “Chủ quyền thuộc Trung Quốc, gác tranh chấp cùng khai thác”, Trung Quốc đang tìm cách thống trị các nguồn tài nguyên dầu khí ở Biển Đông. Trung Quốc đang ép buộc các quốc gia nhỏ không được tiếp xúc các nguồn tài nguyên dầu khí của chính họ trên thềm lục địa của họ được xác định phù hợp với Công ước Luật biển, như các vụ việc vừa qua đối với Việt Nam hay Malaysia.

Trung Quốc đang ép buộc các nước chấp nhận “khai thác chung” theo kiểu “nếu anh muốn phát triển các nguồn tài nguyên ngoài bờ nước anh, anh chỉ có một lựa chọn làm việc với chúng tôi”. David R. Stillwell gọi đó là một chiến thuật găng tơ.  

Thứ tư là vấn đề cần lựa chọn những người xứng đáng, khách quan, trung thực cho các cơ quan tài phán quốc tế như Tòa trọng tài Luật biển.

Máy bay chiến đấu cất cánh từ tàu sân bay Mỹ. Ảnh: AP

Cạnh tranh khốc liệt 

Các tuyên bố và phát biểu trên cần được đặt trong bối cảnh cạnh tranh toàn diện Mỹ - Trung từ thương mại, y tế, Biển Đông, an ninh mạng… Nó báo hiệu thời kỳ hai siêu cường ráo riết tập hợp lực lượng, ra đòn với nhau và cạnh tranh khốc liệt. Tuyên bố làm tăng thêm ý nghĩa của phán quyết 2016. Tuyên bố làm rõ các yêu sách vùng biển sẽ tạo điều kiện cho Mỹ tiến hành các chiến dịch tuần tra tự do hàng hải tại các vùng biển nằm ngoài 12 hải lý tính từ các thực thể ở Trường Sa. 

Trong cùng ngày ra tuyên bố, tàu chiến Mỹ USS Ralph Jonhson (DDG-114) đã thực hiện hoạt động Chiến dịch tuần tra tự do hàng hải (FONOP) đi qua các vị trí đóng quân của Trung Quốc tại quần đảo Trường Sa. Tuyên bố của Mỹ, tuy giữ trung lập về vấn đề chủ quyền, đã thể hiện sự đoàn kết với các quốc gia đang phải đối phó với các hoạt động đe dọa và cưỡng bức trên các vùng biển hợp pháp của họ. Nó tạo cơ sở cho các quốc gia nhỏ tiếp tục đấu tranh bác bỏ toàn bộ các quy định cấm đánh bắt cá và chiến dịch Blue Code của Trung Quốc cấm tất cả các hoạt động thăm dò đáy Biển Đông.

Độc lập, tự chủ và tôn trọng luật pháp quốc tế   

Mỹ và các nước có cơ sở để áp đặt các lệnh trừng phạt lên các công ty và cá nhân tiến hành các hành động cưỡng chế, đe dọa và làm phức tạp tình hình Biển Đông. Trung Quốc cũng có thể đưa ra các biện pháp trả đũa. Không loại trừ có xung đột nhưng đó là điều các bên đều nhận thức muốn tránh. Hơn 4 nghìn tỷ USD hàng hóa thương mại qua Biển Đông hàng năm, trong đó 1 nghìn tỷ là liên quan đến thị trường Mỹ. Biển Đông có giá trị 2,6 nghìn tỷ USD dầu khí và là ngư trường lớn nhất thế giới cho 3,7 triệu người ở Đông Nam Á.    

Trong biến chuyển khó lường của thời cuộc, các nước nhỏ càng cần giữ vững tinh thần độc lập, tự chủ, tôn trọng và yêu cầu thực thi luật pháp quốc tế, vì một trật tự thế giới đã được xây dựng dựa trên luật pháp, bao gồm cả Công ước Luật biển 1982. 

Mọi quyết định đều căn cứ những gì mà chân lý yêu cầu, luật quốc tế quy định và lợi ích quốc gia mách bảo. 







No comments:

Post a Comment

View My Stats