Mai Thái
Lĩnh
04/10/2014
Đây
chỉ là câu chuyện của một thành phố nhỏ trên cao nguyên. Nhưng cũng như việc
tìm hiểu một tế bào hay một bộ phận có thể giúp ta hiểu được tình trạng chung
của một cơ thể, câu chuyện này có thể giúp độc giả hình dung được diện mạo của
cái gọi là “chủ nghĩa xã hội” trên đất nước ta trong gần ba thập niên vừa qua,
nghĩa là trong giai đoạn được mệnh danh “đổi mới”.
*
Sân
golf Đà Lạt trong các đồ án thời Pháp thuộc:
Mặc
dù người Pháp đã có ý định xây dựng một sân golf tại Đà Lạt từ rất sớm, mãi đến
đầu thập niên 1920 công việc này vẫn chưa được tiến hành. Trong đồ án đầu tiên
của Đà Lạt do kiến trúc sư Ernest Hébrard thiết kế vào năm 1923, địa điểm xây
dựng sân golf nằm ở phía đông-bắc của hồ nước lớn nhất (tức hồ Xuân Hương ngày
nay). Địa điểm này không nằm sát bờ hồ, như chúng ta thấy trong hình sau đây:
Hình
1 : Trích đồ án Hébrard 1923
Nhìn
vào bản đồ, chúng ta thấy địa điểm xây dựng sân golf (Golf Links) nằm trong Khu
đất dành cho thể thao (Terrain de sports), giữa Câu lạc bộ Thể thao (Club
sportif) và khu dành cho Bơi lội (Natation) - Chạy bộ (Courses). Đối diện phía
bên kia suối là Trường trung học dành cho nam sinh (Collège de garçons). So
sánh với các bản đồ sau này, chúng ta thấy vị trí này hầu như không thay đổi;
nhưng do hồ lớn ở trung tâm thành phố (tức hồ Xuân Hương ngày nay) được mở rộng
hơn so với ban đầu cho nên dòng suối chảy giữa sân golf và trường Trung học
Yersin (Grand Lycée) không còn là một dòng nước hẹp mà đã trở thành một phần
của hồ trung tâm.
Điều
đáng nói là nếu dựa theo đồ án Hébrard, trên khu đất phía bắc của hồ (hướng
tây-nam của sân golf) sẽ chỉ có một công viên (jardin public) nhỏ, phần còn lại
được dành để chia lô làm nhà (lotissements). Nói cách khác, nếu thực hiện đúng
đồ án của Hébrard, phần lớn khu vực Đồi Cù hiện nay đều là biệt thự hay nhà
dân, và Đà Lạt sẽ không có một thắng cảnh được gọi tên là Đồi Cù.
Trái
với ý kiến của nhiều người (kể cả một số chuyên gia trong ngành kiến trúc – xây
dựng ở nước ta), đồ án Hébrard không phải là đồ án duy nhất định hình cho Đà
Lạt trong nửa đầu của thế kỷ 20. Trong thực tế, công tác quy hoạch của Đà Lạt
trong giai đoạn này đã chịu ảnh hưởng của hai đồ án quan trọng: đồ án
Hébrard 1923 và đồ án Pineau 1932-33 (tên gọi đầy đủ là Đồ án
chỉnh trang và mở rộng Đà Lạt 1932-33).
Louis
Georges Pineau (1898-1987) tốt nghiệp bằng thiết kế đô thị (urbanisme) năm
1927, tốt nghiệp bằng kiến trúc sư vào năm 1928. Ông đến Đông Dương vào năm
1930, là kiến trúc sư hạng nhất của Nha Công chánh Đông Dương (Travaux publics
de l'Indochine) từ 1930 đến 1945, và từ 1941 đến 1944 là Phó giám đốc của Trung
tâm Kiến trúc và Thiết kế đô thị Hà Nội (Service central d'architecture et
d'urbanisme de Hanoï). Vào lúc được giao trách nhiệm quy hoạch lại đô thị Đà
Lạt, ông cho biết “chỉ có một phần nhỏ của đồ án (Hébrard) được thực hiện – bao
gồm cả việc phân lô và con đường tản bộ xung quanh hồ.”
Trong
đồ án mới, Pineau đặc biệt phê phán việc phân lô để làm nhà ở phía bắc hồ lớn.
Ông viết: “Đồ án Hébrard – được dự kiến cho một thành phố lớn, đã có một khuyết
điểm là chuyển đổi nhiều địa điểm thuận lợi cho việc cư trú thành các lô đất
làm nhà khá dày. Thắng cảnh biến mất giữa các công trình kiến trúc; những khu
đất phân lô đó bao quanh toàn bộ hồ; nếu sử dụng một cách diễn đạt của kiến
trúc sư, có thể nói hồ đã đánh mất kích thước (perdait son échelle) của
mình do nằm cạnh các công trình kiến trúc và trở thành một vũng nước hẹp và bị
thu nhỏ.”
Ông
đề ra giải pháp như sau : “Để chống lại nguy cơ đó, phần đất dành cho sân golf
hiện nay được gia tăng và nối liền với hồ bởi một công viên. Tất cả phần còn
lại của vùng đất phía bắc hồ (rất may là bao gồm các khu đất công của thị xã,
lại gặp khó khăn trong việc xây dựng) được bao gồm trong một vùng bất kiến
tạo rộng lớn (une vaste zone non œdificandi). Vùng đó tạo thành một
góc lớn hơn 90 độ - có đỉnh là trung tâm của trạm nghỉ dưỡng và kéo dài đến tận
các đỉnh của dãy Langbian – nghĩa là đến chân trời. Đó là khởi đầu của một công
viên quốc gia – nơi bảo vệ hàng loạt các loài phong lan đa dạng đang biến mất
nhanh chóng nếu chúng ta không chú ý giữ gìn, cũng như các loài thú như Nai
cà-tông[1] và gấu – đang chịu cùng chung số
phận.”[2]
Ý
tưởng độc đáo của Pineau về một công viên quốc gia ở phía Bắc Đà Lạt về sau đã
không thể trở thành hiện thực. Nhưng chính giải pháp “nối liền sân golf với hồ
bằng một công viên” đã tạo ra khu vực Đồi Cù nổi tiếng về sau này.
Trong
đồ án cuối cùng của người Pháp tại Đà Lạt (tức đồ án Lagisquet năm 1943),
phần đất phía bắc Hồ Lớn (Grand Lac – tức hồ Xuân Hương hiện nay) được ghi chú
số 24 (espaces libres, khoáng địa) và 19 (sports-stades, thể thao-sân vận
động). Viễn cảnh nhìn về phía núi Lang-Bian vẫn được bảo tồn như dự kiến của
Pineau. Tuy đồ án này không nói rõ về sân golf nhưng chúng ta có thể hiểu phần
đất dành cho sân golf không có gì thay đổi so với đồ án Pineau, vì phía bắc của
Hồ Lớn vẫn là một công viên tự nhiên. Cần lưu ý là vào thời điểm này (1943),
sân golf đã được xây dựng xong và đã trải qua 10 năm hoạt động.
Hình
2 : Trích đồ án Lagisquet 1943
Việc
xây dựng gân golf trong thực tế đã thể hiện đúng ý tưởng của Pineau: khu vực
phía bắc Hồ Lớn bao gồm một sân golf và một công viên nằm sát cạnh bờ hồ, như
chúng ta thấy trên tờ bản đồ dưới đây – được vẽ vào cuối thời Pháp thuộc:
Hình
3 : Trích bản đồ Đà Lạt (khoảng cuối thập niên 1940)
Quá
trình xây dựng sân golf Đà Lạt:
Trong
một cuốn sách hướng dẫn du lịch Đà Lạt viết bằng tiếng Pháp - xuất bản vào năm
1930, có đoạn ghi: “Sân golf đang được xây dựng sẽ có 18 lỗ (…). Khai trương
vào tháng 2 năm 1931.”[3]
Trong
thực tế, sân golf Đà Lạt không hoàn thành đúng kỳ hạn nói trên, bởi lẽ trong
các tháng 4 và 5 năm 1931, một số báo ở Hà Nội và Sài Gòn vẫn còn bàn cãi xung
quanh kinh phí dành cho việc xây dựng sân golf này. Vd: báo L’Éveil
économique de l’Indochine chỉ trích Toàn quyền Pasquier về việc lãng phí
một số tiền quá lớn (750 ngàn francs) để xây dựng một sân golf chỉ dành cho
những “vị khách quý tộc” (nguyên văn: “les nobles visiteurs”).[4] Mặt khác, chi tiết “sân golf gồm có
18 lỗ” là không chính xác, vì trong thực tế sân golf Đà Lạt dưới thời Pháp
thuộc chỉ là “sân golf với 9 lỗ” (golf à neuf trous), như đã được nói rõ trong
bài viết về Đà Lạt của Munier đăng trên tạp chí Indochine [5].
“Sân golf 9 lỗ” này tồn tại mãi cho đến tháng 4 năm 1975 và chỉ trở thành “sân
golf 18 lỗ” khi bắt đầu được “thương mại hóa” vào đầu thập niên 1990.
Sân
golf Đà Lạt hoàn thành vào năm nào?
Trong
Tập san hành chính Trung kỳ (Bulletin administratif de l’Annam) số
2 năm 1933 (ngày 21 tháng 2 năm 1933) có ghi trích đoạn từ một quyết định ngày
20-1-1933 cho phép thành lập một hội có tên là “Câu lạc bộ Golf Đà Lạt” (Golf
Club de Dalat).
Hình
4 : Trích đoạn từ quyết định cho phép thành lập Câu lạc bộ golf Đà Lạt
20-1-1933
Như
vậy, chúng ta có thể ước đoán sân golf Đà Lạt hoàn thành trong năm 1932. Và mặc
dù chưa tìm ra bản điều lệ kèm theo quyết định nói trên, với nội dung của đoạn
trích (giấy phép có thể bị thu hồi, mọi sửa đổi về điều lệ về sau buộc hội phải
xin giấy phép mới), chúng ta cũng có thể hiểu : sân golf Đà Lạt không phải là
tài sản của tư nhân hay của một hiệp hội mà là một tài sản công được giao cho
một hiệp hội (Câu lạc bộ Golf Đà Lạt) để sử dụng, nhưng hoạt động của hội này
phải dựa trên một bản điều lệ do chính quyền phê duyệt.
Tóm
lại, khu vực về sau được người dân gọi tên là “Đồi Cù” thật ra bao gồm hai bộ
phận: một sân golf 9 lỗ được giao cho Câu lạc bộ Golf Đà Lạt sử dụng (mà người
dân thường gọi là “sân cù”) và một công viên (jardin public) dành cho toàn thể
nhân dân thành phố và khách du lịch. Vì công viên này không được đặt tên, lại
gắn liền với sân cù (sân golf), cho nên người dân gọi tên là “Đồi Cù”. Như vậy,
“Đồi Cù” có thể được hiểu bằng hai nghĩa: toàn bộ khu vực Đồi Cù - bao gồm cả
công viên và sân golf (nghĩa rộng) hoặc chỉ bao gồm công viên “Đồi Cù” (nghĩa
hẹp).
Sự
sống chung giữa một sân golf (một tài sản công được giao cho một tập thể sử
dụng) và một công viên (tài sản công phục vụ lợi ích chung) đã được tuân thủ
suốt thời Pháp thuộc. Những người tham gia Câu lạc bộ Golf Đà Lạt có quyền chơi
golf – một môn thể thao của giới thượng lưu, nhưng không gây trở ngại gì cho
người dân Đà Lạt cũng như khách du lịch trong việc sử dụng công viên “Đồi Cù”.
Đồi Cù không hề bị rào lại để dành cho những người có tiền, toàn bộ hai tài sản
quý giá ấy cũng không trở thành tài sản để kinh doanh của bất cứ “đại gia” hay
tập đoàn tư bản nào cả.
Hình
5 : Trích bản đồ Đà Lạt tỷ lệ 1 : 10.000 phát hành năm 1960
Từ khi Đà Lạt được giao trả lại cho nhà Nguyễn với
quy chế “Hoàng triều cương thổ” (Domaine de la Couronne) - vào năm 1950, cho
mãi đến tháng 4 năm 1975, không có một đồ án thiết kế nào của Đà Lạt được chính
thức phê duyệt - do biến động về chính trị và do tình trạng chiến tranh. Quy
chế của khu vực Đồi Cù được coi như kế thừa từ các đồ án thiết kế thời Pháp
thuộc, như chúng ta có thể nhìn thấy trên tấm bản đồ của Nha Địa dư Quốc gia Đà
Lạt phát hành năm 1960 (hình 5). Trên tấm bản đồ này, sân golf Đà Lạt (được ghi
là Sân Cù) nằm ở phía bắc con lạch nhỏ chảy theo hướng tây-bắc –
đông-nam, đổ nước vào hồ Xuân Hương tại địa điểm được đặt tên là “Vườn Bích
Câu”. Sân Cù không hề bao gồm khu đồi phía bắc hồ Xuân Hương.
Tuy nhiên, vì ranh giới giữa sân golf và công viên
Đồi Cù không được xác định rõ ràng cho nên trong một số tấm bản đồ khác, đã có
sự nhầm lẫn về phần đất dành cho sân golf. Vd: trên tấm bản đồ Đà Lạt tỷ lệ
1:12,500 do Quân đội Hoa Kỳ phát hành năm 1963, chữ Golf course (Sân Cù)
được ghi hai lần - cả trên phần đất của sân golf lẫn trên phần đất của công
viên.[6] Sự nhầm lẫn này có lẽ là do những
người lập bản đồ đã không hiểu rõ cách thức quy hoạch của các kiến trúc sư
người Pháp. Mặt khác, cũng có thể sự nhầm lẫn bắt nguồn từ chỗ người dân gọi cả
hai phần đất là “Đồi Cù”.
Dẫu sao thì sự nhầm lẫn này vẫn chưa gây phương hại
một khi cả hai còn là tài sản công của “thị xã Đà Lạt”. Sự nhầm lẫn chỉ trở nên
tai hại khi toàn bộ khu vực Đồi Cù bị “thương mại hóa” vào đầu thập niên 1990,
như chúng ta sẽ thấy ở phần sau.
Khi toàn bộ Đồi Cù biến thành sân golf:
Sau tháng 4 năm 1975, tất cả những tài sản quan
trọng (nhất là đất đai) đều lọt vào tay “Nhà nước xã hội chủ nghĩa”. Cả sân
golf lẫn công viên “Đồi Cù” đương nhiên cũng thuộc quyền quản lý của “Nhà nước
xã hội chủ nghĩa”. Nhưng trong giai đoạn thường được mệnh danh là “tập trung
quan liêu-bao cấp”, chỉ có những nhu cầu căn bản như “ăn, mặc, ở, đi lại” mới
được coi là nhu cầu thiết thân, còn môn đánh golf dành cho người có tiền đương
nhiên bị xếp vào loại xa xỉ. Hơn thế nữa, vào lúc đó kinh tế thị trường còn bị
xếp vào phạm trù “kinh tế tư bản chủ nghĩa”, khái niệm ”tấc đất tấc vàng” chưa
phát huy tác dụng; do đó khu vực Đồi Cù chưa trở thành miếng mồi béo bở của các
nhà đầu tư, và cũng chưa trở thành tâm điểm chú ý của những người có thẩm
quyền.
Trong giai đoạn đó, sân golf trở thành hoang vắng,
còn cái công viên “trời cho” ấy tuy không được chăm sóc nhưng vẫn còn là tài
sản công, chưa trở thành sở hữu của riêng ai. Người dân Đà Lạt và du khách vẫn
có thể đến Đồi Cù để ngoạn cảnh, chụp ảnh; thanh thiếu niên có thể đến đó để
cắm trại, những cặp trai gái yêu nhau vẫn còn có chỗ để tự tình, trẻ con có thể
đến đó để chạy nhảy, thả diều, v.v…
Chỉ đến đầu thập niên 1990, nghĩa là sau khi Đảng
Cộng sản Việt Nam đã thực sự bước vào giai đoạn “đổi mới kinh tế”, thì Đồi Cù
mới bắt đầu trở thành một miếng mồi ngon để thu hút vốn đầu tư của nước ngoài.
Vào hạ tuần tháng 4 năm 1992, một cách hết sức đột
ngột, toàn bộ khu vực Đồi Cù bị rào lại và sau đó các xe cơ giới rầm rộ san ủi
mặt bằng, đào đắp để biến toàn bộ khu vực này (bao gồm cả sân golf cũ và công
viên Đồi Cù) thành một sân golf hiện đại. Hành động vội vã và thiếu minh bạch
này đã gây ra một làn sóng phản đối thể hiện trên báo chí – nhất là các báo
phát hành ở miền Nam. Một bài viết đăng trên báo Phụ nữ TP.HCM có nhận
xét như sau : “Như vậy, có thể nhận thấy việc khởi công xây dựng tại Đồi Cù
không những đã tỏ ra vội vàng, thiếu cân nhắc trước dư luận khá tập trung và
rất chính đáng của quần chúng mà còn được thực hiện trước khi có các thủ tục
pháp lý cần thiết. Dư luận tại Lâm Đồng cho rằng, việc thực hiện cập rập công
trình này có liên quan đến chuyến đi thăm Thái Lan của 6 vị chức sắc của tỉnh
Lâm Đồng vào tháng 12/1991, mọi chi phí do Công ty DANAO LTD đài thọ. Trong số
đó có những vị là chủ tịch tỉnh và phó chủ tịch tỉnh… ”[7]
Trong một bài báo đăng trên báo Lao động Chủ
nhật ngày 6-9-1992, nhà báo Phạm Thái đã phỏng vấn một số nhân vật như :
Chủ tịch Hội đồng Nhân dân TP. Đà Lạt Trần Trọng Bình, Phó Chủ tịch Ủy ban Nhân
dân TP. Đà Lạt Hoàng Đức Long, bà Đặng Việt Nga - Chủ tịch Hội kiến trúc sư
tỉnh; v.v… Tất cả đều cho biết họ không nắm được thông tin gì về công trình
“nâng cấp sân golf” trước khi công trình này được khởi công.[8]
Việc thi công hấp tấp đó lại càng tỏ ra thiếu minh
bạch khi về sau, người ta được biết giấy phép đầu tư đã được Ủy ban Nhà nước về
Hợp tác Đầu tư ký từ ngày 8-8-1991 và giấy phép rào Đồi Cù đã được Ủy ban Nhân
dân Tỉnh ký từ ngày 31-1-1992. Hơn thế nữa, chủ trương tiến hành thương mại hóa
toàn bộ khu vực Đồi Cù hoàn toàn không thông qua Hội đồng Nhân dân Thành phố Đà
Lạt – cơ quan được mệnh danh là “đại biểu của nhân dân” tại địa phương. Trong
một kỳ họp của Hội đồng Nhân dân TP. Đà Lạt diễn ra vào hạ tuần tháng 5 năm
1992, nhiều đại biểu đã phát biểu ý kiến bày tỏ sự phản đối trước việc triển
khai dự án xây dựng sân golf 18 lỗ mà không thông qua cơ quan đại biểu của nhân
dân thành phố, và những người có thẩm quyền của cấp Tỉnh đã tỏ ra hết sức lúng
túng trước các câu chất vấn này. Mặc dù vậy, bất chấp sự phản đối từ phía quần
chúng địa phương, từ các đại biểu dân cử cũng như từ phía báo chí, dự án “sân
golf 18 lỗ” vẫn được tiến hành; bởi lẽ dưới chế độ cộng sản, một khi dự án đã
được lãnh đạo Đảng quyết định - lại được sự hỗ trợ của đồng đô-la từ nước
ngoài, thì không ai có thể ngăn cản, cho dù dự án đó mang tính phiêu lưu hay
điên rồ.
Vào lúc đó, khái niệm “sân golf hiện đại” vẫn còn
khá xa lạ đối với người Việt trong nước. Người dân chưa hình dung được sự khác
nhau giữa một sân golf tự nhiên với một sân golf “nhân tạo” kiểu hiện đại, cũng
như sự khác biệt giữa một sân golf hoạt động theo kiểu “câu lạc bộ” thời Pháp
thuộc với một sân golf “thương mại hóa”. Do đó, khi Đồi Cù bị xới lên để đào
đắp thành một sân golf tuy đẹp đẽ hơn nhưng không giấu được vẻ “giả tạo”, nhất
là khi toàn bộ khu vực này bị rào lại như một lãnh địa riêng, mọi người dân Đà
Lạt “chính cống” đều cảm thấy như chính mình bị xúc phạm. (Nói người dân Đà Lạt
“chính cống” là để phân biệt với những người tuy sống ở Đà Lạt nhưng không hề
có tâm hồn của người Đà Lạt, hoàn toàn thờ ơ, vô cảm trước sự tàn phá những nét
đẹp thiên nhiên hay những giá trị văn hóa.)
Để che giấu việc “chiếm công viên để mở rộng sân
golf”, biến toàn bộ 65 hecta của khu vực Đồi Cù thành một cơ sở làm ăn về kinh
tế, công trình này được mệnh danh là “công trình nâng cấp sân cù Đà Lạt”. Theo
thông tin do nhà cầm quyền địa phương cung cấp cho báo chí, công trình này nằm
trong một kế hoạch “liên doanh” (joint venture) giữa chính quyền tỉnh Lâm Đồng
với một công ty có tên gọi là Công ty Danao Ltd. British Virgin Islands có trụ
sở tại Hong Kong. Phạm vi liên kết kinh doanh bao gồm sân golf rộng 65 hecta,
và hai khách sạn nổi tiếng nhất của Đà Lạt trước năm 1975 – khách sạn Dalat
Palace và khách sạn Du Parc; ngoài ra còn có biệt điện số 1 (Dinh I) và một số
biệt thự ở đường Trần Hưng Đạo. Về sau, phạm vi liên doanh bị thu hẹp lại, chủ
yếu chỉ bao gồm sân golf Đà Lạt và hai khách sạn: Dalat Palace (được đặt tên
lại là Sofitel) và Hotel Du Parc (đặt tên lại là Novotel).
Vào tháng 9 năm 1992, giải thích với báo chí để phủ
nhận luồng dư luận cho rằng “Đồi Cù đã bị bán”, ông V.L. - Giám đốc Công ty Du
lịch Lâm Đồng (một trong hai thành viên của Liên doanh DRI) cho biết : “Về dự
án đầu tư theo hình thức góp vốn, mỗi bên 50%. Tổng giá trị công trình là 40
triệu USD, trong đó Công ty Du lịch Lâm Đồng góp vốn bằng nhà, đất hiện có trị
giá 20 triệu USD và đầu tư nước ngoài 20 triệu USD bằng tiền mặt và nguyên vật
liệu. Trong 10 năm đầu chúng ta thu lợi nhuận qua tỷ lệ doanh thu từ 5-7%, và
số thấp nhất bên đối tác bảo kê là 400.000 USD/năm. Mười năm sau, ăn chia theo
thực lãi, mỗi bên năm mươi phần trăm. Sau 20 năm, bên đối tác phải bàn giao
toàn bộ tài sản cho phía Việt Nam. Sau mỗi năm giá trị thương mại của cơ sở du
lịch sẽ tăng lên. Nhiều đồng chí lãnh đạo Đảng và Nhà nước đã có ý kiến: “Tham
gia dự án liên doanh này, chúng ta không có gì để mất!”.
Vị giám đốc này (đồng thời cũng là một tỉnh ủy
viên) còn long trọng hứa: “Riêng về sân Golf Đà Lạt chúng tôi sẽ chịu trách
nhiệm trong việc gìn giữ cảnh quan thiên nhiên, khí hậu và môi trường. Cũng cần
nói thêm : khi sân Golf hoạt động, mọi du khách và nhân dân Đà Lạt được quyền
vào tham quan, xem đánh golf hoặc đi dạo chơi ngắm cảnh thoải mái. Dĩ nhiên, du
khách phải tuân theo nền nếp văn minh, lịch sự hơn. Chúng tôi luôn mong muốn
mang lợi ích đến cho nhiều người chứ chúng tôi không biến Đồi Cù trở thành một
biệt khu – chỉ dành riêng phục vụ cho một giới thượng lưu.” [9]
Thân phận trôi nổi của Đồi Cù:
Đồi Cù với tư cách là một công viên tự nhiên đã tồn
tại trong phần lớn thế kỷ 20. Thế nhưng kể từ khi bị “thương mại hóa”, thân
phận trôi nổi của nó chẳng khác gì số phận của nàng Kiều.
Người chủ đầu tiên của sân golf Đà Lạt từ năm 1992
là công ty DRI (Dalat Resort Incorporation) – một hình thức liên doanh giữa
Công ty Du lịch Lâm Đồng (một công ty quốc doanh) và công ty Danao Ltd. British
Virgin Islands có trụ sở tại Hong Kong. Nhưng Danao thực ra chỉ là một tấm bình
phong để “lách” lệnh cấm vận của Hoa Kỳ . Người chủ thực tế của Danao là một
nhà tỷ phú người Mỹ tên là Larry L. Hillblom (1943-1995) – người đồng sáng lập
công ty vận chuyển bưu kiện nổi tiếng DHL. Sân golf Đà Lạt khánh thành chưa
được bao lâu thì Hillblom mất tích trong một tai nạn máy bay ngoài khơi Thái
Bình Dương – gần đảo Saipan[10], nơi ông ta cư trú từ thập niên
1980. Trong thời gian sau đó, báo chí đăng vô số những bản tin và bài báo xung
quanh việc chia gia tài của Hillblom. Vấn đề gây tranh cãi là vì lúc còn sống,
ông tỷ phú không có ý định giao gia tài cho bất cứ ai trong gia đình, nhưng lại
có di chúc hiến tặng tài sản cho một viện đại học nhằm mục đích nghiên cứu về y
tế - đặc biệt là các nghiên cứu do Viện Đại học California (University of
California, UC) tiến hành. Mặc dù không có vợ con chính thức, ông tỷ phú này
lại có sở thích “mua dâm” đối với các cô gái còn trinh của vùng Đông Nam Á –
nhất là gái vị thành niên. Vì thế sau khi ông ta qua đời, đã xảy ra một vụ kiện
tụng kéo dài khoảng hai năm tại Tòa án Saipan, trong đó 8 người phụ nữ thuộc
nhiều nước ở Đông Nam Á đòi quyền thừa kế cho 8 đứa trẻ được “khẳng định” là
con của Larry Hillblom trong lúc ăn nằm với họ.
Theo một bài báo trên tờ Chicago Tribune vào
cuối tháng 5 năm 1999, vụ kiện kết thúc vào cuối năm 1997 bằng một sự dàn xếp,
qua đó 60% tài sản được giao cho bốn đứa con được công nhận qua xét nghiệm DNA
(trong đó có một đứa bé là con của một cô hầu phòng người Việt ở Phan Thiết),
còn 40% được giao cho Quỹ Larry L. Hillblom (Larry L. Hillblom Foundation) -
quỹ từ thiện được thành lập năm 1996 dựa theo di chúc của Hillblom. Điều đó có
nghĩa là bốn đứa con rơi của Hillblom được nhận tổng cộng 300 triệu đô-la –
nghĩa là 180 triệu đô-la sau khi trừ thuế. Quỹ Hillblom được nhận 200 triệu
đô-la miễn thuế. Số tiền còn lại thu được do bán các tài sản của Hillblom – bao
gồm các sân golf và các khách sạn ở Đông Nam Á, sẽ được tiếp tục phân chia giữa
những đứa con rơi và Quỹ Hillblom.[11]
Những tin tức rất ít ỏi cho chúng ta biết Công ty
Danao Ltd. British Virgin Islands (tức công ty sở hữu 50% vốn trong Công ty
liên doanh DRI) vẫn tiếp tục hoạt động tại Việt Nam dưới cái tên Danao
International Holdings, Ltd. Do kinh doanh thua lỗ, phía Việt Nam đã bán toàn
bộ cổ phần trong DRI cho Danao; do đó số tài sản mà Công ty du lịch Lâm Đồng
góp vốn (bao gồm sân golf Đà Lạt, khách sạn Dalat Palace và khách sạn Du Parc)
trở thành tài sản riêng của Danao. Theo một số nguồn tin thông thạo, để tạo
điều kiện cho việc sang nhượng tài sản cho nước ngoài, phía Việt Nam đã ký giấy
phép nâng thời hạn sử dụng sân golf Đà Lạt từ 20 năm lên 40 năm!
Hình
6 : Sân golf hiện nay – một cảnh đẹp nằm ngoài tầm tay của người dân Đà Lạt
(nguồn: Dalat Palace Golf Club)
Vào năm 2007, báo chí đưa tin Indochina Land
Holdings– một chi nhánh của tập đoàn Indochina Capital (Hoa Kỳ) đã nắm được đa
số cổ phần của công ty Danao. Và đến tháng 6 năm 2010, một bản tin của báo Tuổi
Trẻ cho biết : sau cùng thì sân golf Đà Lạt cùng với hai khách sạn Sofitel
(tức Dalat Palace) và Mercure (tức Hotel du Parc) đã được Indochina Capital bán
lại cho một tập đoàn kinh doanh bất động sản của người Việt có tên là Vina
Properties Development Group (VPD) – chủ tịch là Phạm Trịnh Phương. Người
ta không rõ sân golf 18 lỗ được định giá bao nhiêu, chỉ biết trị giá của toàn
bộ tài sản nhượng lại cho Công ty VPD (bao gồm sân golf và hai khách sạn) là 47
triệu USD.[12]
Như vậy là một chu trình chuyển đổi quyền sở hữu đã
hoàn tất : từ chỗ là một tài sản công, Đồi Cù Đà Lạt biến thành một loại tài
sản “hỗn hợp” dưới danh nghĩa “liên doanh” (nửa công - nửa tư, nửa quốc nội -
nửa ngoại quốc), sau đó biến thành tài sản 100% của các nhà tư bản ngoại quốc
và cuối cùng lại được “Việt Nam hóa” để trở thành tài sản riêng của các “đại
gia” Việt Nam. Khi nói đến “đại gia”, chúng ta phải hiểu đây là các nhà “tư bản
đỏ” hoặc ít nhất cũng là các nhà “tư bản thân hữu”, vì dưới sự chi phối của chủ
nghĩa tư bản thân hữu (crony capitalism), các nhà đầu tư bình thường không có
mối quan hệ gắn bó với các quan chức trong Đảng rất khó lòng chiếm hữu các tài
sản quan trọng này. Điều đáng nói là : toàn bộ quy trình chuyển đổi hình thức
sở hữu này đều diễn ra dưới sự lãnh đạo của Đảng Cộng sản Việt Nam, và đều nhân
danh “chủ nghĩa xã hội”, “vì lợi ích của nhân dân”.
Điều mà các nhà lãnh đạo cộng sản đã hứa trước đây
hai mươi năm (tức là: toàn bộ khối tài sản sẽ được bên đối tác bàn giao lại cho
phía Việt Nam) đã trở thành một lời hứa rỗng tuếch, bởi vì khối tài sản đó đã
được “bán lại” cho tư nhân người Việt chứ không phải “bàn giao” cho phía chính
quyền Việt Nam để trở lại thành một công viên như xưa.
Hình
7 : Hàng rào bao quanh Đồi Cù biến công viên thành tài sản của tư nhân (ảnh
NVP)
Thay
lời kết:
Ngày
nay, sau hơn 20 năm kể từ khi Đồi Cù bị thương mại hóa, du khách đến Đà Lạt khi
đi trên con đường vòng quanh hồ Xuân Hương có thể nhìn thấy một hàng giậu bao
quanh sân golf, biến toàn bộ khu vực này thành môt lãnh địa riêng biệt. Các thế
hệ người Đà Lạt sinh ra từ thập niên 1990 trở về sau không hề biết Đồi Cù như
một công viên, nơi đã từng chất chứa những kỷ niệm của các thế hệ người Đà Lạt
trước đó. Đồi Cù ngày nay - cho dù mượt mà hơn vì được phủ một lớp cỏ nhân tạo
xanh mướt để thay cho lớp cỏ tự nhiên ngày xưa, đã không còn là tài sản chung
của nhân dân thành phố. Hàng rào bao quanh thắng cảnh này trở thành một niềm
đau, một nỗi ô nhục mà người dân Đà Lạt phải gánh chịu trong suốt hai thập niên
và còn kéo dài không biết đến bao giờ…
Cuối
cùng là một câu hỏi được đặt ra cho tất cả những người dân Đà Lạt và cả những
người yêu Đà Lạt trên khắp thế giới : Đến lúc nào thì Đồi Cù được hoàn trả
về cho người dân Đà Lạt, nghĩa là trở lại thành một công viên?
Câu
hỏi nhức nhối này còn có liên quan đến một câu hỏi khác – còn nhức nhối hơn
nữa: Đến khi nào người Đà Lạt mới trở thành người chủ thật sự ngay trên quê
hương mình?
Đà
Lạt, những ngày cuối năm Quý Tỵ chờ đón Xuân Giáp Ngọ 2014,
MAI
THÁI LĨNH (tức HOÀNG THÁI LĨNH, THĐ 1964)
(Bài
viết dành riêng cho đặc san Thông Reo, Đại hội Cựu học sinh Bùi Thị Xuân
– Trần Hưng Đạo, San Jose, California, tháng 6 năm 2014)
[1] Nai Cà-tông (Cerf
d’Eld, tên khoa học là Cervus eldii hay Panolia eldii) là một
động vật của vùng Đông Nam Á, ngày nay trở thành quý hiếm và có nguy cơ tuyệt
chủng.
[2] Louis-Georges
Pineau, “Le plan d’aménagement et d’extension de Dalat”, La vie urbaine,
Numéro 49 (Nouvelle série), Janvier-Février 1939, Paris, p.42.
[5] P. Munier, “Dalat”,
Indochine Jeudi 13 Mars 1941, page 8. Nguyên văn: “(A Dalat on a prévu
le besoin de sport des hivernants: grenouillère, cercle sportif, cercle
nautique, tennis, golf à neuf trous, etc…”)
[6] Map of Dalat
1:12,500, Edition 1-AMS, Series L909, U.S. Army Map Service, 1963 (12MB): http://www.lib.utexas.edu/maps/world_cities/txu-pclmaps-da_lat-1963.jpg
[10] Saipan là hòn đảo
lớn nhất và là thủ đô của Quần đảo Northern Mariana (Northern Mariana
Islands), nằm trong vùng biển Tây Thái Bình Dương, cách căn cứ hải quân
Guam 190 km về phía bắc. Là lãnh thổ ủy trị của Liên Hiệp Quốc (United Nations
trust territories) giao cho Hoa Kỳ quản lý, từ năm 1976 quần đảo này từng bước
trở thành một lãnh thổ tự trị nằm trong một “liên hiệp chính trị” (political
union) với Hoa Kỳ.
[11] Vincent J.
Schodolski, “Estate Of Courier Tycoon Finally Delivers For 4 Heirs”, Chicago
Tribune May 31, 1999:
Được
đăng bởi bauxitevn vào lúc 07:26
No comments:
Post a Comment