10-9-2013
Yêu
nước là yêu chủ nghĩa Xã hội như những người Cộng sản vẫn ra rả bấy lâu nay thì
chúng ta sẽ mất nước vào tay những kẻ bên kia biên giới nhân danh chủ nghĩa Xã
hội đã âm thầm lấm chiếm của ta từng mét đất ở biên cương, đã trắng trợn cướp
không của ta từng hải lí biển ở ngoài khơi. Và Nhà nước Việt Nam cộng sản cũng
vì chủ nghĩa Xã hội thản nhiên cắt đất đai hương hỏa của Cha Ông ta cho nước
cộng sản cùng ý thức hệ!
Yêu nước là yêu từ hơi may của đất trời Việt Nam: Sáng chớm lạnh trong lòng Hà Nội / Những phố dài xao xác hơi may (Nguyễn Đình Thi). Yêu từ mùi trầu thơm nồng của mẹ: Xin mẹ cứ nhai trầu / Cho buổi chiều yên tĩnh (Thanh Thảo). Thì đất nước Việt Nam mãi mãi còn là của người Việt Nam. Nguyễn Khuyến (1835 – 1909) là một người yêu nước như vậy.
Yêu từ cánh bèo trên mặt ao đìu hiu mùa thu, Nguyễn Khuyến đã từ chức quan thời đất nước đã rơi vào tay giặc Pháp để về giữ nước bằng cách hòa vào nhân dân, đắm trong thiên nhiên đất nước. Trở về vui buồn cùng dân là khi Nguyễn Khuyến đã ở vào mùa thu cuộc đời. Soi mùa thu đời mình vào mùa thu đất nước, Nguyễn Khuyến đã để lại những bài thơ đặc sắc nhất về mùa thu Việt Nam, để lại chiếc bóng lồng lộng trong mùa thu Việt Nam.
Mỗi lần nhận ra hơi may se se trong ngọn gió thu về, tôi lại bâng khuâng nhớ Nguyễn Khuyến. Nhìn màn sương bảng lảng chiều thu, tôi lại thấy chiếc bóng Nguyễn Khuyến đơn độc giữa những chiếc lá vàng tả tơi rụng rơi.
CHIẾC BÓNG NGUYỄN KHUYẾN
TRONG MÙA THU CỔ ĐIỂN VIỆT NAM
Sinh năm 1835, đỗ tiến sĩ năm 1871 khi mới ba mươi sáu tuổi, một con đường công danh rạng rỡ mở ra trước mặt ông Nghè trẻ tuổi, tài hoa và có chí là Nguyễn Khuyến. Nhưng Nguyễn Khuyến chỉ làm quan có mười hai năm rồi cáo bệnh rũ áo từ quan lui về Vườn Bùi chốn cũ vừa muốn buông xuôi mọi nhẽ, vừa canh cánh không yên: Lúc hứng uống thêm ba chén rượu / Khi buồn ngâm láo một câu thơ!
Chí bình sinh của kẻ làm trai được cửa Khổng sân Trình giáo dục là Tu thân – Tề gia – Trị quốc – Bình thiên hạ, học hành thấu đáo đạo lí ở đời, ổn định gia thất, đỗ đạt khoa bảng rồi gánh vác việc dân việc nước. Đó là cách bộc lộ lòng trung quân ái quốc, cách mang tài năng và chí trai ra giúp ích cho đời.
Con người đã dành gần ba mươi năm của cuộc đời vào việc học hành tích lũy kiến thức, rèn luyện đức độ và tài năng đâu phải để về nhà tựa gối buông cần! Con người đã vài lần thi hỏng Bốn khoa thi cử không đâu cả nhưng vẫn quyết chí lều chõng và đã đỗ cao không phải chỉ để lấy tiếng! Con người đã nhiều lần tỏ ra rất bằng lòng, rất kiêu hãnh về việc đỗ đạt và làm quan. Rất bằng lòng nên: Rằng lão, rằng quan tớ cũng ừ, và Rằng quan nhà Nguyễn cáo về đã lâu. Và rất kiêu hãnh: Cờ biển Vua ban cho ngày trước / Khi đưa thày con rước đầu tiên .
Thế mà con người ấy đã bỏ dở con đường hoạn lộ giữa tuổi bốn mươi tám suy nghĩ đã chín chắn, Tứ thập bất hoặc, lẽ đời đã thấu đáo, đã kín mọi đường mọi nhẽ, không còn điều gì phải hoang mang, nghi ngại, cái tuổi đã gần tới Ngũ thập tri thiên mệnh, tuổi thấu được mệnh trời đất, đã nhìn ra khắp thiên hạ. Tuổi trí lự đang chín, đang làm việc, suy xét tốt nhất lại rũ áo từ quan để trở về mà day dứt: Ơn Vua chưa chút báo đền / Cúi trông hổ đất, ngửa lên thẹn Trời! Trở về với nỗi buồn, nỗi phẫn của kẻ chưa thỏa chí: Khi buồn ngâm láo một câu thơ!
Khi Nguyễn Khuyến phải rũ áo từ quan là lúc triều đình nhà Nguyễn ươn hèn khiếp nhược đã nhục nhã kí với Pháp hòa ước Harmand đặt Việt Nam dưới sự bảo hộ của Pháp. Kí hòa ước này, một lần nữa triều đình Huế đã kí bản giao kèo đánh đổi cả sinh mạng đất nước, cả số phận dân tộc cho Pháp để giữ lấy cái ngai vàng mục ruỗng của mình. Từ đấy dải đất Việt Nam ngàn lần yêu thương đã thuộc về người Pháp. Từ đấy vua quan nhà Nguyễn chỉ là một đám bù nhìn, một lũ tay sai cho bọn cướp nước, chỉ còn là một lũ hề của lịch sử, của sân khấu chính trị: Vua chèo còn chẳng ra gì / Quan chèo vai nhọ khác chi thằng hề!
Không thể trơ mặt ra mà cố đấm ăn xôi, không thể nhẫn tâm làm thứ hề ấy: Nếu trơ như đá thì đâu khổ / Còn chút lương tâm mới khó nguôi!
Lương tâm này với cái chính trường đã thành sân khấu hề kia chẳng thể chấp nhận nhau được nữa: Cờ đương dở cuộc không còn nước / Bạc chửa thâu canh đã chạy làng!
Thôi về đi để khỏi bán mình cho danh lợi, để lánh xa chốn bon chen! Về đi để giữ trọn tấm lòng trung trinh với nuí sông đất nước, giữ sạch lương tâm với đời: Về nơi vườn rộng lòng ta thỏa / Việc thế nghe qua chỉ mỉm cười!
Cả những ai còn chút lương tâm, còn chút lòng yêu nước thương dân, còn chút lòng tự trọng, thôi cũng về đi: Thu qua bác Huyện bỏ về rồi / Nay đến ông Thương cũng tháo lui.
Về sống với nhân dân, với bà con làng xóm, với những con người bình dị, chân chất, những người nếu có tên gọi riêng thì cũng chỉ là những chú Đáo, mẹ Mốc, ông Từ. Về sống với thiên nhiên đất nước, với ngõ trúc, ao thu. Bây giờ chỉ có những thứ quan như Nguyễn Hữu Độ, Hoàng Cao Khải cam tâm làm tay sai cho giặc. Làm quan như thế là đối lập với nhân dân. Trở về để hòa vào với đất nước, hòa vào với nhân dân, quan nhất thời, dân vạn đại, hòa vào với cái vạn đại, cái vĩnh cửu. Từ đây Nguyễn Khuyến gắn bó cả đời mình với những người dân Sớm trưa dưa muối cho qua bữa, gửi cả hồn mình vào cảnh sắc thiên nhiên Song thưa để mặc bóng trăng vào.
Có trở về như thế Nguyễn Khuyến mới nhận ra được ở cảnh sắc quê hương cái riêng biệt, cái hồn vía Việt Nam. Vì thế chỉ đến Nguyễn Khuyến, cái hồn của thiên nhiên Việt Nam mới được nhận ra, mới được ghi nhận bằng ngôn ngữ nôm na của những người dân bình dị. Trước Nguyễn Khuyến, mùa thu Việt Nam đã đi vào thơ ca khá nhiều nhưng mùa thu trong thơ vịnh của những nhà thơ khoa bảng còn quá xa lạ với hiện thực thiên nhiên Việt Nam, lại càng xa lạ với lời ăn tiếng nói đầy biểu cảm của người dân Việt Nam khi mùa thu Việt Nam đầy bâng khuâng gợi cảm lại diễn tả bằng hình ảnh ước lệ vay mượn xa lạ, bằng ngôn từ khoa trương, hào nhoáng, sáo rỗng và vô hồn: Lác đác ngô đồng. Nhạn về ải Bắc. Giếng ngọc sen tàn. Rừng phong lá rụng. Tuyết đưa hơi lạnh. Gió phẩy mưa băng. Bên hoa triện ngọc. Dưới lệ rèm châu . . . Những cảnh sắc không có trong không gian nhiệt đới Việt Nam. Những ngôn từ không có trong từ vựng của người dân nước Việt chân chất, mộc mạc. Có sự trở về với dân gian của Nguyễn Khuyến, thơ ca Việt Nam mới thực sự có mùa thu Việt Nam.
Nguyễn Khuyến có đến ba bài thơ mùa thu Việt Nam. Thu vịnh là buổi sáng chớm thu. Trời thu xanh ngắt mấy tầng cao, vòm trời mấy tầng cao và xanh ngắt là vẫn còn không gian của mặt trời sáng chói huy hoàng từ mùa hè rớt lại. Thu điếu là buổi chiều thu tàn, không khí đìu hiu và lạnh lẽo của Thu điếu chỉ có ở cuối thu. Thu ẩm là buổi tối giữa thu, Ngõ tối đêm sâu đóm lập lòe. Buổi tối mùa thu gợi cảm quá nên phải có rượu, Độ năm ba chén đã say nhè. Mỗi bài là một bức tranh khá tiêu biểu về mùa thu. Mỗi bài là một cung bậc tình cảm của một tâm hồn đa cảm trước tiết thu gợi cảm. Mỗi bài là một chiếc bóng Nguyễn Khuyến soi vào thiên nhiên đất nước. Mỗi bài có một vị trí tình cảm, một giá trị nghệ thuật riêng. Bài nào cũng hay. Bài nào cũng thấm đẫm tình yêu của Nguyễn Khuyến với đất trời quê hương. Tiêu biểu hơn cả cho mùa thu ở làng quê Việt Nam là bài Thu điếu:
Ao thu lạnh lẽo nước trong veo,
Một chiếc thuyền câu bé tẻo teo.
Sóng biếc theo làm hơi gợn tí,
Lá vàng trước gió khẽ đưa vèo.
Tầng mây lơ lửng trời xanh ngắt,
Ngõ trúc quanh co khách vắng teo.
Tựa gối, buông cần lâu chẳng được,
Cá đâu đớp động dưới chân bèo.
Đây là mùa thu ở làng quê miền Bắc bởi vì chỉ ở làng quê miền Bắc mới thực sự có sự khác biệt xuân, hạ, thu, đông, mỗi mùa một sắc thái riêng biệt. Miền Trung mùa thu là mùa mưa lũ lụt lội, nước sông cuồn cuộn phù sa và nước mưa làm đục ngầu ao hồ nên không thể có Ao thu lạnh lẽo nước trong veo. Ở miền Nam chỉ có hai mùa phân biệt theo mưa nắng, mùa mưa và mùa khô. Mùa khô đã chang chang nắng nhưng mùa mưa cũng nắng mưa đan xen, chợt mưa, chợt nắng. Dù có mùa mưa, mùa khô nhưng mùa nào cũng nắng nóng. Mưa đã ồn ào, nắng lại càng nồng nàn, không thể có không gian sâu lắng và tĩnh lặng của Ao thu lạnh lẽo nước trong veo.
Xuân, hạ, thu, đông, mỗi mùa một không gian tâm linh, mỗi mùa một thế hiệu tình cảm. Mùa xuân náo nức. Mùa hạ khắc khoải. Mùa thu bâng khuâng. Mùa đông hiu hắt. Ao thu lạnh lẽo nước trong veo. Bâng khuâng quá! Bâng khuâng vì không gian yên tĩnh đến hoang vắng! Không có gì khuấy động nước ao mới trong veo đến thế! Những gì là vẩn, là đục đã chìm xuống, lắng lại cả rồi! Những gì khuấy động trong lòng cũng đã chìm xuống, lắng lại cả rồi nên mới có thể Việc thế nghe qua chỉ mỉn cười! Mùa thu của đất trời nhưng cũng là mùa thu của tâm hồn, mùa thu của cuộc đời Nguyễn Khuyến. Nguyễn Khuyến nhìn mùa thu của đất trời cũng là nhìn vào mùa thu của hồn mình, mùa thu của đời mình.
Mùa thu ấy yên tĩnh lắm, thanh thản lắm! Thuyền chỉ một chiếc thôi chứ không phải là hai, ba để mà xôn xao đối đáp. Phần động cũng chỉ động ở mức thấp nhất. Mặt nước chỉ hơi gợn. Chiếc lá chỉ khẽ đưa. Những nhịp dao động này như những hơi thở cố nén xuống càng làm tăng thêm sự tĩnh mịch của không gian. Người ngồi câu là một người đã từng trải, đã vượt qua mọi sự nhốn nháo trường đời, đã rũ bỏ mọi bon chen ham hố chốn danh lợi mới có thể thanh thản và điềm tĩnh đến thế, mới có thể tựa gối buông cần im phắc đã lâu chẳng được gì vẫn không bận tâm, vẫn không sốt ruột. Xem như thế đủ biết người đi câu không phải vì mục đích kiếm cá mà chỉ là để được đắm mình vào thiên nhiên đất nước, đắm mình trong tiết thu sâu lắng và say đắm.
Ao thu lạnh lẽo nước trong veo. Đọc một câu đã thấy đìu hiu cô quạnh. Đọc cả bài càng thấy cô quạnh đìu hiu. Đây là mùa thu đã gần tàn, mùa đông đang gần đến. Trong tiết trời lạnh lẽo, se xắt, mọi vật như cố thu nhỏ lại còn vòm trời thì cứ rộng mãi ra. Cảnh vật hiện ra đều ở dạng đơn chiếc, đều thu vào cá thể. Một mảnh ao. Một chiếc thuyền. Một người ngồi câu lặng lẽ. Một chiếc lá khẽ rơi. Con thuyền bé tẻo teo, đến con sóng cũng chỉ hơi gợn tí. Mọi vật đều nhỏ nhoi, bé bỏng giữa cái mênh mông quạnh vắng của không gian cao rộng Tầng mây lơ lửng trời xanh ngắt và sâu hút Ngõ trúc quanh co khách vắng teo. Sau mùa xuân ồn ào của tuổi thơ bầy đàn, sau mùa hạ rạo rực của tuổi thanh niên lứa đôi mới đến mùa thu yên tĩnh của ý thức cá nhân. Đó là mùa thu của cuộc đời Nguyễn Khuyến.
Trong bài giới thiệu cho tập Thơ văn Nguyễn Khuyến của nhà xuất bản Văn Học in năm 1971, nhà thơ Xuân Diệu viết: Sao lắm ao thế? Cả huyện Bình Lục là xứ đồng chiêm rất trũng kia mà. Nhiều ao cho nên ao nhỏ, ao nhỏ thì thuyền câu cũng theo đó mà bé tẻo teo. (trang 44) Xuân Diệu là người bình thơ hay nhất Việt Nam ở thời của ông. Với tất cả lòng kính trọng đối với một nhà thơ có tài và một người thẩm thơ tinh tế, tôi phải xin thưa lại rằng Xuân Diệu viết như thế là mới thấy phần vật chất, phần thể xác của câu thơ Nguyễn Khuyến, của cảnh sắc trong thơ Nguyễn Khuyến. Rõ ràng ao thì phải nhỏ. Nếu lớn đã gọi là hồ. Ở ao không thể có thuyền lớn. Nhưng vấn đề không phải ở phần xác cụ thể, thô thiển đó. Trong không gian đất trời bâng khuâng cô quạnh của mùa thu, trong cõi lòng yên tĩnh, sâu lắng của Nguyễn Khuyến, dù có chiếc thuyền lớn có sức chở hàng nghìn tấn đi nữa thì nó cũng chỉ bé tẻo teo mà thôi!
Cô quạnh, yên tĩnh, sâu lắng của không gian mùa thu. Cô quạnh, yên tĩnh, sâu lắng tự trong lòng người tựa gối buông cần: Đời loạn đi về như hạc độc / Tuổi già hình bóng tựa mây côi! Cõi lòng Nguyễn Khuyến trong mùa thu đất nước, trong mùa thu cuộc đời ông đấy! Đọc câu thơ Nguyễn Khuyến viết về cõi lòng mình càng thấy bóng ông đơn độc mà lồng lộng trong mùa thu Việt Nam. Mùa thu ở làng quê Việt Nam thật đồng điệu với cõi lòng Nguyễn Khuyến. Ta mới hiểu vì sao Nguyễn Khuyến có cả thơ về mùa xuân, mùa hè, mùa đông nhưng thơ mùa thu của ông nhiều hơn cả, hay hơn cả. Nguyễn Khuyến là một mùa thu Việt Nam cô quạnh và se buồn. Mùa thu ấy đã trở thành cổ điển và bất tử trong văn chương Việt Nam.
Bây giờ mỗi khi nghĩ đến Nguyễn Khuyến tôi vẫn hình dung ra một ông già ôm cần câu ngồi bó gối trên chiếc thuyền nan mỏng manh như một chiếc lá đậu chếch trên mặt nước ao lặng lẽ. Lòng thuyền sau lưng ông già không có một con cá nào, cũng chẳng hề có giỏ đựng cá, chỉ có mấy chiếc lá vàng rụng xuống đó tự bao giờ, mặt lá vẫn còn láng bóng, vàng hoe. Mấy chiếc lá vàng nhắc ta biết mùa thu đã về. Mấy chiếc lá vàng cũng cho ta biết rằng ông ngồi đó đã lâu lắm rồi. Và ông còn ngồi đó không biết đến bao giờ nữa.
Bóng Nguyễn Khuyến cứ lồng lộng trong mọi mùa thu buồn Việt Nam ở cái thuở nhân dân chưa được làm chủ đất nước của mình, chưa được làm chủ vận mệnh của chính mình. Ông ngồi đó có u buồn nhưng thật điềm tĩnh bởi ông hiểu và tin ở đất nước này, nhân dân này. Ông là phần yên tĩnh của đất nước đang trong cơn xáo động, vật vã quyết liệt. Cõi lònh yên tĩnh đến thế, tâm hồn cao cả sáng trong đến thế Nguyễn Khuyến mới có thể chối bỏ chức quan trông coi viện Sử trong cung đình nhà Nguyễn để trở về với Thu điếu, với Khổ nhiệt, với Hung niên. . . , trở về với cuộc sống gian nan vất vả của người dân thường để giữ cho mình vẫn còn là con người Việt Nam chân chính, được yêu đất nước của mình, được yêu nhân dân của mình và được sống giữa tình yêu của nhân dân: Chú Đáo làng bên lên với tớ / Ông Từ xóm chợ lại cùng ta.
Ảnh:
Yêu nước là yêu từ hơi may của đất trời Việt Nam: Sáng chớm lạnh trong lòng Hà Nội / Những phố dài xao xác hơi may (Nguyễn Đình Thi). Yêu từ mùi trầu thơm nồng của mẹ: Xin mẹ cứ nhai trầu / Cho buổi chiều yên tĩnh (Thanh Thảo). Thì đất nước Việt Nam mãi mãi còn là của người Việt Nam. Nguyễn Khuyến (1835 – 1909) là một người yêu nước như vậy.
Yêu từ cánh bèo trên mặt ao đìu hiu mùa thu, Nguyễn Khuyến đã từ chức quan thời đất nước đã rơi vào tay giặc Pháp để về giữ nước bằng cách hòa vào nhân dân, đắm trong thiên nhiên đất nước. Trở về vui buồn cùng dân là khi Nguyễn Khuyến đã ở vào mùa thu cuộc đời. Soi mùa thu đời mình vào mùa thu đất nước, Nguyễn Khuyến đã để lại những bài thơ đặc sắc nhất về mùa thu Việt Nam, để lại chiếc bóng lồng lộng trong mùa thu Việt Nam.
Mỗi lần nhận ra hơi may se se trong ngọn gió thu về, tôi lại bâng khuâng nhớ Nguyễn Khuyến. Nhìn màn sương bảng lảng chiều thu, tôi lại thấy chiếc bóng Nguyễn Khuyến đơn độc giữa những chiếc lá vàng tả tơi rụng rơi.
CHIẾC BÓNG NGUYỄN KHUYẾN
TRONG MÙA THU CỔ ĐIỂN VIỆT NAM
Sinh năm 1835, đỗ tiến sĩ năm 1871 khi mới ba mươi sáu tuổi, một con đường công danh rạng rỡ mở ra trước mặt ông Nghè trẻ tuổi, tài hoa và có chí là Nguyễn Khuyến. Nhưng Nguyễn Khuyến chỉ làm quan có mười hai năm rồi cáo bệnh rũ áo từ quan lui về Vườn Bùi chốn cũ vừa muốn buông xuôi mọi nhẽ, vừa canh cánh không yên: Lúc hứng uống thêm ba chén rượu / Khi buồn ngâm láo một câu thơ!
Chí bình sinh của kẻ làm trai được cửa Khổng sân Trình giáo dục là Tu thân – Tề gia – Trị quốc – Bình thiên hạ, học hành thấu đáo đạo lí ở đời, ổn định gia thất, đỗ đạt khoa bảng rồi gánh vác việc dân việc nước. Đó là cách bộc lộ lòng trung quân ái quốc, cách mang tài năng và chí trai ra giúp ích cho đời.
Con người đã dành gần ba mươi năm của cuộc đời vào việc học hành tích lũy kiến thức, rèn luyện đức độ và tài năng đâu phải để về nhà tựa gối buông cần! Con người đã vài lần thi hỏng Bốn khoa thi cử không đâu cả nhưng vẫn quyết chí lều chõng và đã đỗ cao không phải chỉ để lấy tiếng! Con người đã nhiều lần tỏ ra rất bằng lòng, rất kiêu hãnh về việc đỗ đạt và làm quan. Rất bằng lòng nên: Rằng lão, rằng quan tớ cũng ừ, và Rằng quan nhà Nguyễn cáo về đã lâu. Và rất kiêu hãnh: Cờ biển Vua ban cho ngày trước / Khi đưa thày con rước đầu tiên .
Thế mà con người ấy đã bỏ dở con đường hoạn lộ giữa tuổi bốn mươi tám suy nghĩ đã chín chắn, Tứ thập bất hoặc, lẽ đời đã thấu đáo, đã kín mọi đường mọi nhẽ, không còn điều gì phải hoang mang, nghi ngại, cái tuổi đã gần tới Ngũ thập tri thiên mệnh, tuổi thấu được mệnh trời đất, đã nhìn ra khắp thiên hạ. Tuổi trí lự đang chín, đang làm việc, suy xét tốt nhất lại rũ áo từ quan để trở về mà day dứt: Ơn Vua chưa chút báo đền / Cúi trông hổ đất, ngửa lên thẹn Trời! Trở về với nỗi buồn, nỗi phẫn của kẻ chưa thỏa chí: Khi buồn ngâm láo một câu thơ!
Khi Nguyễn Khuyến phải rũ áo từ quan là lúc triều đình nhà Nguyễn ươn hèn khiếp nhược đã nhục nhã kí với Pháp hòa ước Harmand đặt Việt Nam dưới sự bảo hộ của Pháp. Kí hòa ước này, một lần nữa triều đình Huế đã kí bản giao kèo đánh đổi cả sinh mạng đất nước, cả số phận dân tộc cho Pháp để giữ lấy cái ngai vàng mục ruỗng của mình. Từ đấy dải đất Việt Nam ngàn lần yêu thương đã thuộc về người Pháp. Từ đấy vua quan nhà Nguyễn chỉ là một đám bù nhìn, một lũ tay sai cho bọn cướp nước, chỉ còn là một lũ hề của lịch sử, của sân khấu chính trị: Vua chèo còn chẳng ra gì / Quan chèo vai nhọ khác chi thằng hề!
Không thể trơ mặt ra mà cố đấm ăn xôi, không thể nhẫn tâm làm thứ hề ấy: Nếu trơ như đá thì đâu khổ / Còn chút lương tâm mới khó nguôi!
Lương tâm này với cái chính trường đã thành sân khấu hề kia chẳng thể chấp nhận nhau được nữa: Cờ đương dở cuộc không còn nước / Bạc chửa thâu canh đã chạy làng!
Thôi về đi để khỏi bán mình cho danh lợi, để lánh xa chốn bon chen! Về đi để giữ trọn tấm lòng trung trinh với nuí sông đất nước, giữ sạch lương tâm với đời: Về nơi vườn rộng lòng ta thỏa / Việc thế nghe qua chỉ mỉm cười!
Cả những ai còn chút lương tâm, còn chút lòng yêu nước thương dân, còn chút lòng tự trọng, thôi cũng về đi: Thu qua bác Huyện bỏ về rồi / Nay đến ông Thương cũng tháo lui.
Về sống với nhân dân, với bà con làng xóm, với những con người bình dị, chân chất, những người nếu có tên gọi riêng thì cũng chỉ là những chú Đáo, mẹ Mốc, ông Từ. Về sống với thiên nhiên đất nước, với ngõ trúc, ao thu. Bây giờ chỉ có những thứ quan như Nguyễn Hữu Độ, Hoàng Cao Khải cam tâm làm tay sai cho giặc. Làm quan như thế là đối lập với nhân dân. Trở về để hòa vào với đất nước, hòa vào với nhân dân, quan nhất thời, dân vạn đại, hòa vào với cái vạn đại, cái vĩnh cửu. Từ đây Nguyễn Khuyến gắn bó cả đời mình với những người dân Sớm trưa dưa muối cho qua bữa, gửi cả hồn mình vào cảnh sắc thiên nhiên Song thưa để mặc bóng trăng vào.
Có trở về như thế Nguyễn Khuyến mới nhận ra được ở cảnh sắc quê hương cái riêng biệt, cái hồn vía Việt Nam. Vì thế chỉ đến Nguyễn Khuyến, cái hồn của thiên nhiên Việt Nam mới được nhận ra, mới được ghi nhận bằng ngôn ngữ nôm na của những người dân bình dị. Trước Nguyễn Khuyến, mùa thu Việt Nam đã đi vào thơ ca khá nhiều nhưng mùa thu trong thơ vịnh của những nhà thơ khoa bảng còn quá xa lạ với hiện thực thiên nhiên Việt Nam, lại càng xa lạ với lời ăn tiếng nói đầy biểu cảm của người dân Việt Nam khi mùa thu Việt Nam đầy bâng khuâng gợi cảm lại diễn tả bằng hình ảnh ước lệ vay mượn xa lạ, bằng ngôn từ khoa trương, hào nhoáng, sáo rỗng và vô hồn: Lác đác ngô đồng. Nhạn về ải Bắc. Giếng ngọc sen tàn. Rừng phong lá rụng. Tuyết đưa hơi lạnh. Gió phẩy mưa băng. Bên hoa triện ngọc. Dưới lệ rèm châu . . . Những cảnh sắc không có trong không gian nhiệt đới Việt Nam. Những ngôn từ không có trong từ vựng của người dân nước Việt chân chất, mộc mạc. Có sự trở về với dân gian của Nguyễn Khuyến, thơ ca Việt Nam mới thực sự có mùa thu Việt Nam.
Nguyễn Khuyến có đến ba bài thơ mùa thu Việt Nam. Thu vịnh là buổi sáng chớm thu. Trời thu xanh ngắt mấy tầng cao, vòm trời mấy tầng cao và xanh ngắt là vẫn còn không gian của mặt trời sáng chói huy hoàng từ mùa hè rớt lại. Thu điếu là buổi chiều thu tàn, không khí đìu hiu và lạnh lẽo của Thu điếu chỉ có ở cuối thu. Thu ẩm là buổi tối giữa thu, Ngõ tối đêm sâu đóm lập lòe. Buổi tối mùa thu gợi cảm quá nên phải có rượu, Độ năm ba chén đã say nhè. Mỗi bài là một bức tranh khá tiêu biểu về mùa thu. Mỗi bài là một cung bậc tình cảm của một tâm hồn đa cảm trước tiết thu gợi cảm. Mỗi bài là một chiếc bóng Nguyễn Khuyến soi vào thiên nhiên đất nước. Mỗi bài có một vị trí tình cảm, một giá trị nghệ thuật riêng. Bài nào cũng hay. Bài nào cũng thấm đẫm tình yêu của Nguyễn Khuyến với đất trời quê hương. Tiêu biểu hơn cả cho mùa thu ở làng quê Việt Nam là bài Thu điếu:
Ao thu lạnh lẽo nước trong veo,
Một chiếc thuyền câu bé tẻo teo.
Sóng biếc theo làm hơi gợn tí,
Lá vàng trước gió khẽ đưa vèo.
Tầng mây lơ lửng trời xanh ngắt,
Ngõ trúc quanh co khách vắng teo.
Tựa gối, buông cần lâu chẳng được,
Cá đâu đớp động dưới chân bèo.
Đây là mùa thu ở làng quê miền Bắc bởi vì chỉ ở làng quê miền Bắc mới thực sự có sự khác biệt xuân, hạ, thu, đông, mỗi mùa một sắc thái riêng biệt. Miền Trung mùa thu là mùa mưa lũ lụt lội, nước sông cuồn cuộn phù sa và nước mưa làm đục ngầu ao hồ nên không thể có Ao thu lạnh lẽo nước trong veo. Ở miền Nam chỉ có hai mùa phân biệt theo mưa nắng, mùa mưa và mùa khô. Mùa khô đã chang chang nắng nhưng mùa mưa cũng nắng mưa đan xen, chợt mưa, chợt nắng. Dù có mùa mưa, mùa khô nhưng mùa nào cũng nắng nóng. Mưa đã ồn ào, nắng lại càng nồng nàn, không thể có không gian sâu lắng và tĩnh lặng của Ao thu lạnh lẽo nước trong veo.
Xuân, hạ, thu, đông, mỗi mùa một không gian tâm linh, mỗi mùa một thế hiệu tình cảm. Mùa xuân náo nức. Mùa hạ khắc khoải. Mùa thu bâng khuâng. Mùa đông hiu hắt. Ao thu lạnh lẽo nước trong veo. Bâng khuâng quá! Bâng khuâng vì không gian yên tĩnh đến hoang vắng! Không có gì khuấy động nước ao mới trong veo đến thế! Những gì là vẩn, là đục đã chìm xuống, lắng lại cả rồi! Những gì khuấy động trong lòng cũng đã chìm xuống, lắng lại cả rồi nên mới có thể Việc thế nghe qua chỉ mỉn cười! Mùa thu của đất trời nhưng cũng là mùa thu của tâm hồn, mùa thu của cuộc đời Nguyễn Khuyến. Nguyễn Khuyến nhìn mùa thu của đất trời cũng là nhìn vào mùa thu của hồn mình, mùa thu của đời mình.
Mùa thu ấy yên tĩnh lắm, thanh thản lắm! Thuyền chỉ một chiếc thôi chứ không phải là hai, ba để mà xôn xao đối đáp. Phần động cũng chỉ động ở mức thấp nhất. Mặt nước chỉ hơi gợn. Chiếc lá chỉ khẽ đưa. Những nhịp dao động này như những hơi thở cố nén xuống càng làm tăng thêm sự tĩnh mịch của không gian. Người ngồi câu là một người đã từng trải, đã vượt qua mọi sự nhốn nháo trường đời, đã rũ bỏ mọi bon chen ham hố chốn danh lợi mới có thể thanh thản và điềm tĩnh đến thế, mới có thể tựa gối buông cần im phắc đã lâu chẳng được gì vẫn không bận tâm, vẫn không sốt ruột. Xem như thế đủ biết người đi câu không phải vì mục đích kiếm cá mà chỉ là để được đắm mình vào thiên nhiên đất nước, đắm mình trong tiết thu sâu lắng và say đắm.
Ao thu lạnh lẽo nước trong veo. Đọc một câu đã thấy đìu hiu cô quạnh. Đọc cả bài càng thấy cô quạnh đìu hiu. Đây là mùa thu đã gần tàn, mùa đông đang gần đến. Trong tiết trời lạnh lẽo, se xắt, mọi vật như cố thu nhỏ lại còn vòm trời thì cứ rộng mãi ra. Cảnh vật hiện ra đều ở dạng đơn chiếc, đều thu vào cá thể. Một mảnh ao. Một chiếc thuyền. Một người ngồi câu lặng lẽ. Một chiếc lá khẽ rơi. Con thuyền bé tẻo teo, đến con sóng cũng chỉ hơi gợn tí. Mọi vật đều nhỏ nhoi, bé bỏng giữa cái mênh mông quạnh vắng của không gian cao rộng Tầng mây lơ lửng trời xanh ngắt và sâu hút Ngõ trúc quanh co khách vắng teo. Sau mùa xuân ồn ào của tuổi thơ bầy đàn, sau mùa hạ rạo rực của tuổi thanh niên lứa đôi mới đến mùa thu yên tĩnh của ý thức cá nhân. Đó là mùa thu của cuộc đời Nguyễn Khuyến.
Trong bài giới thiệu cho tập Thơ văn Nguyễn Khuyến của nhà xuất bản Văn Học in năm 1971, nhà thơ Xuân Diệu viết: Sao lắm ao thế? Cả huyện Bình Lục là xứ đồng chiêm rất trũng kia mà. Nhiều ao cho nên ao nhỏ, ao nhỏ thì thuyền câu cũng theo đó mà bé tẻo teo. (trang 44) Xuân Diệu là người bình thơ hay nhất Việt Nam ở thời của ông. Với tất cả lòng kính trọng đối với một nhà thơ có tài và một người thẩm thơ tinh tế, tôi phải xin thưa lại rằng Xuân Diệu viết như thế là mới thấy phần vật chất, phần thể xác của câu thơ Nguyễn Khuyến, của cảnh sắc trong thơ Nguyễn Khuyến. Rõ ràng ao thì phải nhỏ. Nếu lớn đã gọi là hồ. Ở ao không thể có thuyền lớn. Nhưng vấn đề không phải ở phần xác cụ thể, thô thiển đó. Trong không gian đất trời bâng khuâng cô quạnh của mùa thu, trong cõi lòng yên tĩnh, sâu lắng của Nguyễn Khuyến, dù có chiếc thuyền lớn có sức chở hàng nghìn tấn đi nữa thì nó cũng chỉ bé tẻo teo mà thôi!
Cô quạnh, yên tĩnh, sâu lắng của không gian mùa thu. Cô quạnh, yên tĩnh, sâu lắng tự trong lòng người tựa gối buông cần: Đời loạn đi về như hạc độc / Tuổi già hình bóng tựa mây côi! Cõi lòng Nguyễn Khuyến trong mùa thu đất nước, trong mùa thu cuộc đời ông đấy! Đọc câu thơ Nguyễn Khuyến viết về cõi lòng mình càng thấy bóng ông đơn độc mà lồng lộng trong mùa thu Việt Nam. Mùa thu ở làng quê Việt Nam thật đồng điệu với cõi lòng Nguyễn Khuyến. Ta mới hiểu vì sao Nguyễn Khuyến có cả thơ về mùa xuân, mùa hè, mùa đông nhưng thơ mùa thu của ông nhiều hơn cả, hay hơn cả. Nguyễn Khuyến là một mùa thu Việt Nam cô quạnh và se buồn. Mùa thu ấy đã trở thành cổ điển và bất tử trong văn chương Việt Nam.
Bây giờ mỗi khi nghĩ đến Nguyễn Khuyến tôi vẫn hình dung ra một ông già ôm cần câu ngồi bó gối trên chiếc thuyền nan mỏng manh như một chiếc lá đậu chếch trên mặt nước ao lặng lẽ. Lòng thuyền sau lưng ông già không có một con cá nào, cũng chẳng hề có giỏ đựng cá, chỉ có mấy chiếc lá vàng rụng xuống đó tự bao giờ, mặt lá vẫn còn láng bóng, vàng hoe. Mấy chiếc lá vàng nhắc ta biết mùa thu đã về. Mấy chiếc lá vàng cũng cho ta biết rằng ông ngồi đó đã lâu lắm rồi. Và ông còn ngồi đó không biết đến bao giờ nữa.
Bóng Nguyễn Khuyến cứ lồng lộng trong mọi mùa thu buồn Việt Nam ở cái thuở nhân dân chưa được làm chủ đất nước của mình, chưa được làm chủ vận mệnh của chính mình. Ông ngồi đó có u buồn nhưng thật điềm tĩnh bởi ông hiểu và tin ở đất nước này, nhân dân này. Ông là phần yên tĩnh của đất nước đang trong cơn xáo động, vật vã quyết liệt. Cõi lònh yên tĩnh đến thế, tâm hồn cao cả sáng trong đến thế Nguyễn Khuyến mới có thể chối bỏ chức quan trông coi viện Sử trong cung đình nhà Nguyễn để trở về với Thu điếu, với Khổ nhiệt, với Hung niên. . . , trở về với cuộc sống gian nan vất vả của người dân thường để giữ cho mình vẫn còn là con người Việt Nam chân chính, được yêu đất nước của mình, được yêu nhân dân của mình và được sống giữa tình yêu của nhân dân: Chú Đáo làng bên lên với tớ / Ông Từ xóm chợ lại cùng ta.
Ảnh:
• Tranh của Phạm Đình Trọng
. Chân dung Nguyễn Khuyến
. Chân dung Nguyễn Khuyến
• Bài “Chiếc Bóng Nguyễn Khuyến . . .” trên báo Văn Nghệ, hơn 20 năm trước
No comments:
Post a Comment