Luật sư Vũ Đức Khanh và ông Võ Tấn Huân
Gửi cho BBC từ Canada
Cập nhật: 11:52 GMT -
thứ hai, 8 tháng 7, 2013
Việt Nam đã và đang thiết lập nhiều mối quan hệ chiến
lược với nhiều nước trên thế giới nhằm hội nhập vào cộng đồng quốc tế nhưng
những mối quan hệ này rất khó bền vững vì thiếu nền tảng cơ bản: lòng tin.
Nếu Việt Nam muốn các nước khác
nghiêm túc xem xét đòi hỏi của mình thì trước tiên cần phải cân nhắc lại và đề
ra những ưu tiên đối với các vấn đề quốc nội cũng như quốc tế.
Suốt những năm cuối thập niên
1990, và đặc biệt là đầu thế kỷ 21, Việt Nam trở thành điểm đến lý tưởng cho
các nhà đầu tư nước ngoài, và nhanh chóng trở thành một điển hình cho sự giàu
có ở Đông Nam Á với nền kinh tế tăng trưởng mạnh dù cuối cùng sụp đổ trong thời
kỳ khủng hoảng kinh tế toàn cầu từ năm 2007 vì sự quản lý yếu kém của chính
phủ.
Với mô hình “kinh tế thị trường
định hướng xã hội chủ nghĩa”, rõ ràng Việt Nam hay Trung Quốc ngày nay không
phải là những đất nước cộng sản mà Hồ Chí Minh hoặc Mao Trạch Đông đã vẽ ra, và
chắc hẳn cũng không phải những gì Karl Marx đã tưởng tượng.
Đặc biệt, với những tòa nhà cao
chọc trời và tầng lớp trên là thiểu số nhưng nắm phần lớn tài sản của toàn bộ
quốc gia, thì rõ ràng Việt Nam không phải là thiên đường xã hội chủ nghĩa như
nhiều ngưởi tưởng tượng.
Thay vào đó, độc quyền nhà nước
của một đảng tại Việt Nam đã tạo ra tình trạng lạm dụng quyền lực; thậm chí
hiến pháp và pháp luật do một đảng tự ý sửa đổi và áp dụng tùy tiện.
Nhà nước độc quyền của một đảng
chính trị hiển nhiên không phải nhà nước dân chủ.
Việc khẳng định sự lãnh đạo của
Đảng Cộng sản Việt Nam không qua sự đồng thuận của nhân dân là nguyên nhân dẫn
đến sự không chính danh của bản hiến pháp và chế độ hiện hành.
Tính chính danh của một nhà
nước chỉ được thể hiện khi được nhân dân trao quyền thông qua bản hiến pháp dân
chủ và các cuộc bầu cử tự do, công bằng.
Do đó, mặc dù các nhà lãnh đạo
hiện tại có khẳng định rằng “Việt Nam là một người bạn và đối tác tin cậy của
tất cả các nước trong cộng đồng quốc tế” thì nhiều người cũng không khỏi lo
ngại và tỏ vẻ thận trọng về tính chính danh của chế độ hiện hành.
Đối tác khác bạn bè
Việt Nam đã thiết lập ngoại
giao với 178 nước trên thế giới, đồng thời là thành viên của Liên Hiệp Quốc, Tổ
chức Thương mại Thế giới (WTO), ASEAN và nhiều tổ chức quốc tế khác.
Hiện nay, Việt Nam đang thúc
đẩy các mối quan hệ chiến lược với khoảng hơn một chục nước, bao gồm cả Anh
Quốc, Nga, Trung Quốc và Ấn Độ; và những ngày tới thì Hà Nội muốn thêm cả
Singapore, Pháp và Hoa Kỳ vào danh sách này.
Về khía cạnh nào đó thì những
mối quan hệ này có ý nghĩa nhưng chúng thiếu vắng “sự cam kết” cần thiết trong
mối quan hệ an ninh song phương giữa các bên. Và chắc chắn các mối quan hệ này
rất khó để nâng cấp lên thành mối quan hệ đồng minh đầy tin cậy.
Trong trận chiến Việt–Trung vào
năm 1979, Liên Xô – đồng minh thân cận của Việt Nam, đã quyết định đứng bên
ngoài.
Việc này cho thấy các mối quan
hệ đối tác chiến lược không kèm theo các hiệp ước phòng thủ chung, vì vậy, khác
rất nhiều so với mối quan hệ đồng minh.
Mối quan hệ chiến lược chỉ đơn
thuần dựa trên những lợi ích chung và có tính toán giữa hai nước. Nhưng về lâu
về dài thì những lợi ích này có thể sẽ thay đổi, và vì vậy, các mối quan hệ
chiến lược buộc phải chuyển hướng cho phù hợp.
Cho nên, dù rằng Việt Nam có
rất nhiều các đối tác chiến lược thì cũng không nên xem đây là thước đo về số
lượng bạn bè hay đồng minh mà Việt Nam có được trên trường quốc tế. Bạn bè và
đối tác là hai thứ khác nhau rất xa.
Ví dụ, Việt Nam và Trung Quốc
đã thiết lập mối quan hệ đối tác chiến lược vào năm 2008, nhưng trên thực tế
việc này không mang nhiều ý nghĩa khi xét tới các vụ xung đột ở Biển Đông trong
thời gian qua.
Giữa lúc các lợi ích của hai
nước thay đổi và chính sách đối phó trong khu vực cũng ngày càng khác biệt thì
thử hỏi mối quan hệ đối tác của hai nước này liệu có mang lại hiệu quả?
Dù rằng hai nước có chung đường
biên giới, cùng thể chế chính trị, nhưng họ chỉ có vậy mà thôi!
Việt Nam đã liên tục quay sang
cộng đồng quốc tế nhằm tìm kiếm đối tác để đối trọng lại với Trung Quốc, và hy
vọng đưa những chính sách ngang ngược của Trung Quốc trong vấn đề Biển Đông ra
trước ánh sáng.
Những việc trên chưa kể đến
những trận đụng độ trên biển giữa hai nước và kết quả đã mang lại không ít
thương vong.
Thành quả lớn nhất mà hai nước
này đạt được dựa trên tinh thần quan hệ chiến lược, là thiết lập và cải thiện
các kênh liên lạc thông tin giữa các cấp nhà nước. Nhưng đó chỉ về mặt hình
thức, và trong thực tế thì hai nước tuy gần nhưng lại rất xa.
Không cùng giá trị
Rất khó để thiết lập các đối
tác chiến lược mang ý nghĩa sâu đậm khi không cùng chung các giá trị tư tưởng
và niềm tin.
Liệu Việt Nam tìm kiếm điều gì
ở Pháp hay Hoa Kỳ nếu không cùng ý chí thượng tôn pháp luật và tôn trọng các ý
kiến khác biệt của người dân?
Nếu Việt Nam chỉ đơn thuần sử
dụng Pháp hay Hoa Kỳ để thực hiện các kế hoạch khác mà không quan tâm đến việc
các nước này tin tưởng vào điều gì, thì có lý do gì để họ trở thành đối tác
chiến lược của Việt Nam?
Tại sao Hoa Kỳ phải trở thành
đối tác chiến lược với Việt Nam khi mà Việt Nam thiếu thiện chí với những lo
ngại của Hoa Kỳ về vấn đề nhân quyền, tù nhân chính trị và thượng tôn pháp
luật?
Chế độ cộng sản đã làm Việt Nam
suy yếu và cô độc trên trường quốc tế. Đây nên là một mối lo lớn đối với các
lãnh đạo tại Hà Nội. Cần phải nhận ra rằng lặp đi lặp lại cùng một chính sách
không thể mang lại những kết quả khác nhau.
Việt Nam cần thay đổi, và sự
thay đổi này không phải tới từ ‘lòng tin chiến lược’ như Thủ tướng Nguyễn Tấn
Dũng phát biểu mà phải tới từ những hành động cụ thể.
Muốn trở thành một người bạn và
đối tác đáng tin cậy của tất cả các nước trên thế giới thì Việt Nam cần thực sự
tạo dựng lòng tin. Quan trọng hơn hết, hội nhập và “xây dựng lòng tin chiến
lược” trước hết đòi hỏi các lãnh đạo Việt Nam phải thật tâm tạo dựng lòng tin
đối với nhân dân trong nước và có khả năng hội nhập với cộng đồng người Việt ở
hải ngoại.
Không có nhiều cách để thực
hiện điều này ngoài việc cần phải làm đầu tiên là cải cách hệ thống chính trị
bị lạm dụng để tạo lập xã hội bình đẳng cũng như xây dựng một nhà nước chính
danh.
Cần phát huy dân chủ bao gồm
việc tháo gỡ hệ thống độc quyền nhà nước của một đảng để xây dựng nhà nước
thượng tôn pháp luật, đa nguyên, bắt đầu từ bản hiến pháp dân chủ của toàn dân.
Nhà nước pháp quyền của dân hay
nhà nước thượng tôn pháp luật là nền móng nhất thiết không chỉ quan trọng cho
việc xây dựng lòng tin mà còn là nhu cầu của mọi xã hội trong mọi thời đại.
Đó là nhu cầu không thể thiếu
bên cạnh một nền báo chí khai phóng, trung thực, chế độ tòa án độc lập, và hệ
thống bầu cử tự do, dân chủ.
Tác giả Vũ Đức Khanh là luật sư
và giáo sư luật bán thời gian tại Đại học Ottawa, chuyên nghiên cứu về chính
trị Việt Nam, quan hệ quốc tế và luật pháp quốc tế. Ông Võ Tấn Huân là bác sỹ
dược khoa tại Hoa Kỳ.
No comments:
Post a Comment