Friday, June 21, 2013
Bản tiếng Anh ở phía
dưới. Scroll down for the English translation.
Như đã nói trong bài trước, “hơn ai hết, Đảng – mà đại diện ở đây là bộ máy
tuyên giáo và an ninh – ý thức được sức mạnh của sự bí mật. Công khai, minh
bạch là tự làm mất mặt mình, tự giết mình”. Chính vì vậy, để bảo vệ chế độ,
điều tối quan trọng là phải bảo đảm… bí mật, từ bí mật công tác đến an ninh
quốc gia. Để làm được điều đó, nguyên tắc căn bản chỉ là “làm tốt công tác tư
tưởng” và quản lý báo chí thật chặt chẽ, sát sao.
Nhưng đến khi Internet và nhất là mạng xã hội xuất
hiện, thì nhiệm vụ trở nên khó khăn hơn. Từ đây, bộ máy tuyên giáo và an ninh
vừa phải quản lý báo chí chính thống, vừa phải kiểm soát truyền thông “phi
chính thống”, tức thế giới mạng.
Duy
trì chế độ thẻ nhà báo
Một phương thức tinh vi để kiểm soát báo chí dưới mỹ
từ “quản lý” là sử dụng chế độ thẻ nhà báo. Sáng kiến này được áp dụng đã từ
lâu, tới năm 2007 thì được luật hoá trong một thông tin gọi là Thông tư số 07/2007/TT-BVHTT
hướng dẫn cấp, đổi và thu hồi thẻ nhà báo, Bộ Văn hóa - Thông tin, ngày
20/3/2007. Theo đó, người được xét cấp thẻ nhà báo phải bảo đảm các điều kiện
và tiêu chuẩn sau đây:
a) Tốt nghiệp đại học; trường hợp là người dân tộc
thiểu số đang công tác tại cơ quan báo chí miền núi hoặc chương trình phát
thanh, truyền hình tiếng dân tộc thiểu số phải có bằng tốt nghiệp trung học phổ
thông trở lên;
b) Có thời gian công tác liên tục theo chế độ biên
chế hoặc hợp đồng dài hạn tại cơ quan báo chí đề nghị cấp Thẻ từ ba năm trở
lên, tính đến thời điểm xét cấp thẻ;
c) Hoàn thành nhiệm vụ chuyên môn, nghiệp vụ của cơ
quan báo chí phân công;
d) Không vi phạm quy định về phẩm chất, đạo đức nghề
nghiệp báo chí; không bị xử lý kỷ luật từ khiển trách trở lên trong thời hạn 12
tháng tính đến thời điểm xét cấp thẻ;
e) Ðược cơ quan báo chí, cơ quan chủ quản báo chí,
Sở Văn hóa - Thông tin (đối với báo chí các tỉnh, thành phố) và Hội Nhà báo
cùng cấp thống nhất đề nghị cấp thẻ nhà báo.
Các điều kiện trên (trừ khoản a) đều khó thực hiện
trong thực tế. Xét bản chất, nghề báo là nghề có tính lưu động cao, các phóng
viên “nhảy việc” gần như liên tục, khó mà có người “công tác liên tục theo chế
độ biên chế hoặc hợp đồng dài hạn (…) từ ba năm trở lên”. Cho nên khoản b là
khó đáp ứng. Các khoản còn lại thì đương nhiên chỉ nhằm khuyến khích các phóng
viên biết chấp hành, chịu khó tuân theo chủ trương, định hướng của Đảng và Nhà
nước; không có chỗ cho những phóng viên sáng tạo, nhiệt huyết, có tinh thần
phản biện và luôn luôn sẵn sàng “xé rào”, chống lại định hướng của Đảng. (Xin
lưu ý, đạo đức nghề nghiệp báo chí, theo quy định về đạo đức nghề nghiệp của
người làm báo Việt Nam, đưa ra tại Đại hội VIII Hội Nhà báo là: “Tuyệt đối
trung thành với sự nghiệp xây dựng và bảo vệ Tổ quốc Việt Nam xã hội chủ nghĩa
dưới sự lãnh đạo của Đảng Cộng sản Việt Nam”.)
Riêng khoản e, “Được cơ quan báo chí, cơ quan chủ
quản báo chí, Sở Văn hóa - Thông tin (đối với báo chí các tỉnh, thành phố) và
Hội Nhà báo cùng cấp thống nhất đề nghị cấp thẻ nhà báo” còn cho thấy sự nhập nhằng giữa khu vực nhà
nước và khu vực xã hội dân sự. Báo chí về bản chất là một khái niệm thuộc về xã
hội, và cơ quan báo chí không phải là cơ quan thực thi công vụ. Nhà nước không
thể đứng ra cấp thẻ nhà báo để định danh cho người tiến hành hoạt động nghề
nghiệp này; nói cách khác, Nhà nước không được lấn sân, chiếm lấy một lĩnh vực
không phải của mình. Nhưng Nhà nước lại cứ giành lấy quyền ấy, thậm chí còn cẩn
thận quy định rõ trong luật, rằng báo chí có nhiệm vụ “tuyên truyền, phổ biến
đường lối, chủ trương, chính sách của Đảng, pháp luật của Nhà nước, thành tựu
văn hoá, khoa học, kỹ thuật trong nước và thế giới theo tôn chỉ, mục đích của
cơ quan báo chí…”.
Chính điều này dẫn đến việc nhiều nhà báo buộc phải
“chấp nhận sự định hướng của một lực lượng mà năng lực truyền thông hẳn nhiên
là thua xa họ” (“Giọt nước mắt củalề phải”).
“Nhà
báo tự do” = phản động
Nhiều người thường nói rằng thẻ nhà báo chỉ là một
cái thẻ, không quan trọng. Nhưng trên thực tế, nó rất quan trọng, vì trong luật
pháp cũng như trong nhận thức của xã hội, nhà báo phải là người “đang hoạt động
hoặc công tác thường xuyên với một cơ quan báo chí Việt Nam và được cấp thẻ nhà
báo” (Điều 14 Luật Báo chí).
Người chưa/không được cấp thẻ thì không được công
nhận là nhà báo. Từ đây dẫn đến việc họ đương nhiên bị gạt ra khỏi bất kỳ sự
kiện nào mà ban tổ chức, cơ quan an ninh, chính quyền… không muốn bị báo chí
biết. Ở rất nhiều hội thảo, hội nghị, sự kiện chính trị - xã hội, ban tổ chức
luôn đặt điều kiện “phải có thẻ nhà báo” mới gửi giấy mời. Bằng cách này, ban
tổ chức đã loại ra ngoài đông đảo phóng viên, là những người hoạt động báo chí
y hệt như nhà báo nhưng không được cấp thẻ.
Công an, an ninh, hơn ai hết, là những người được
quán triệt chặt chẽ rằng phải có thẻ do Nhà nước cấp mới được gọi là nhà báo,
điều này đồng nghĩa với việc tất cả những người đang hoạt động báo chí mà không
có thẻ thì đều là “phóng viên tự do”, “tự xưng/ mạo nhận”, và đều có thể bị
ngăn chặn triệt để, không được phép tiếp cận thông tin. Ngày 30/10/2012, khi
phóng viên Truyền thông Dòng Chúa Cứu Thế Việt Nam, Huyền Trang, bị công an đưa
về đồn thẩm vấn, cô nói cô là phóng viên. Nhân viên công an liền quát: “Ai công
nhận chúng mày là nhà báo hả? Thẻ tác nghiệp của chúng mày đâu? Một lũ ăn không
ngồi rồi, rồi rủ nhau phản động hả?”.
Riêng trong hai năm 2011 và 2012, trên cả nước đã xảy ra hàng chục vụ phóng viên bị đánh. Thủ phạm là lưu manh côn đồ, bảo vệ, vệ sĩ, công an, và cả dân thường. Nhưng trong tư duy của chính quyền, nạn nhân nếu chưa có thẻ thì không phải là nhà báo, do vậy sự việc không nghiêm trọng tương đương với “hành hung nhà báo.”
Với blogger, tình hình còn tệ hại hơn: Họ không
những không được pháp luật bảo vệ mà ngược lại, còn bị xử lý. Điếu Cày, Tạ
Phong Tần, và tất cả các thành viên của Câu lạc bộ Nhà báo Tự do đều “không
phải là nhà báo”, nên bị cơ quan công an, an ninh xua đuổi, đàn áp thẳng tay
khi họ có mặt tại các điểm nóng để đưa tin, dù chỉ là lên blog của họ.
Một mặt, Đảng và Nhà nước xiết chặt việc “nắm tư
tưởng”, “định hướng” báo chí chính thống. Mặt khác, Đảng và Nhà nước nhất định
không công nhận blogger là nhà báo.
Làng báo chính thống và blog chính trị ở Việt Nam
đều biết đến Trương Duy Nhất, người từng bỏ nghề báo để trở thành blogger, chủ
trang mạng “Một góc nhìn khác”. Sau khi ông Nhất bị bắt ngày 26/5/2013, nhà báo
Đức Hiển (Facebooker Bố Cu Hưng) bình luận trên Facebook cá nhân rằng “vấn đề
của một nhà báo là phải có thông tin. Khi thiếu khả năng hoặc cơ hội tiếp cận
thông tin thì góc nhìn nếu khác là chửi đổng mà nếu giống là a dua…”.
Cộng đồng FB và blog chính trị rộ lên một đợt chỉ
trích nhà báo Đức Hiển. Tuy nhiên, nhìn từ góc độ của chính quyền thì ông Đức
Hiển nói đúng. Khả năng và cơ hội tiếp cận thông tin chính là cái khác biệt
giữa nhà báo và blogger, giữa nhà báo chính thống và nhà báo tự do. Blogger
không thể nào có mặt ở các sự kiện chính trị-xã hội quan trọng do Nhà nước tổ
chức, không thể nào tham dự hội thảo, hội nghị quốc gia, quốc tế, không thể nào
tiếp cận quan chức cấp cao của Đảng và Nhà nước. Và chính quyền ý thức được
rằng phải khoét sâu vào điểm yếu ấy của blogger thì mới giữ nền báo chí công
dân ở thế yếu hơn báo chí cách mạng được. Song song với đó là việc tạo cuộc
chiến vô hình “lề phải – lề trái” để ngăn chặn mọi sự hợp tác, bắt tay nhau
giữa nhà báo quốc doanh và nhà dân báo.
Thay
cho lời kết
Để kết thúc hai bài viết sơ lược về tự do báo chí
kiểu Việt Nam, xin sử dụng một đoạn hội thoại – thẩm vấn điển hình cho tư duy
của chính quyền về báo chí và hoạt động của nhà báo trong chế độ xã hội chủ
nghĩa:
AN: Anh Y. ạ, hiện chúng tôi đang làm rõ động cơ,
mục đích đằng sau một số bài viết trên blog của anh.
Blogger: Tôi phản đối việc bắt giữ tuỳ tiện. Như tôi
đã nói, các bài viết của tôi chỉ có mục đích xây dựng, đóng góp cho Đảng một ý
kiến phản biện ôn hoà.
AN: Không ai cấm anh phản biện, đóng góp ý kiến xây
dựng Đảng. Nhưng anh có thể chọn những cách khác, hiệu quả hơn.
Blogger: Tôi không đồng ý. Thế nào là hiệu quả hơn?
Tôi là blogger, tôi nói lên ý kiến của mình qua công cụ blog của tôi thì
sao?
AN (cười độ lượng): Đấy, anh lại thế rồi. Tôi đã nói
rồi, không ai cấm anh phản biện, đóng góp ý kiến xây dựng cả. Nhưng mình là trí
thức, là người có ăn có học, nói gì thì nói, phải có cơ sở anh ạ, phải có lý có
lẽ, có thông tin, thuyết phục, chứ không phải thích gì nói nấy. Cứ thích thì
nói nấy thì anh thành ra mấy cái đứa blogger phản động trên mạng à?
Blogger: Tôi
là nhà báo. Tôi có cách tiếp cận và xử lý thông tin của tôi.
AN (nhấn mạnh): Anh không phải nhà báo. Anh làm gì
có thẻ tác nghiệp, hả? Nhà báo tự do à? Điếu Cày à?
Blogger: Nhà báo thì sao mà không là nhà báo thì
sao? Không lẽ chỉ nhà báo mới được viết? Mà luật nào cấm blogger được viết?
Hiến pháp của chúng ta cũng đã quy định…
AN (ngắt lời): Khổ. Anh lại cực đoan rồi, anh Y. Tôi
đã nói rất rõ là nói gì thì nói, viết gì thì viết, phải có thông tin xác thực,
lập luận thuyết phục trên cơ sở xây dựng anh ạ. Anh xưng anh là nhà báo thì lại
càng phải thế, phải có trách nhiệm với những gì mình viết chứ. Anh xem lại các
bài viết của mình mà xem, toàn là những bài hết sức cực đoan, phiến diện vì
thiếu thông tin.
Blogger: Thế anh nói “có những cách hiệu quả hơn để
đóng góp ý kiến” là những cách gì?
AN: Nếu thực sự anh có tinh thần xây dựng, muốn đóng
góp ý kiến xây dựng Đảng thì anh sẽ tìm ra cách. Thiếu gì cách. Ví dụ – đây là
tôi lấy ví dụ thôi nhé – anh có thể gửi thư riêng đến các đồng chí lãnh đạo cao
cấp. Chứ ai lại đi đưa lên blog công cộng như thế cho mấy đứa trên mạng nó đọc,
rồi nó lợi dụng, nó bàn ra tán vào này nọ. Mình thấy nó hưởng ứng mình, mình
tưởng thế là hay, chứ thực ra bọn nó chỉ lợi dụng mình thôi. Anh xem đấy, đến
lúc anh bị bắt thì đứa nào giúp anh? Từ giờ phút này là chỉ có anh mới cứu được
anh thôi, anh Y…
Kỳ trước
Kỳ trước
A police state:
Police standing outside the trial of legal activist Cu Huy Ha Vu, 2011.
(source unknown)
* * *
THE
VIETNAMESE STYLE OF MEDIA CONTROL (PART 2)
As written in the first part, “more than anyone
else, the Communist Party – herein represented by the propagandists and public
security machinery – is aware of the power of secrecy. Transparency only means
self-defamation and suicide.” Therefore it is crucial to ensure secrecy in a
variety of areas, ranging from work secret to national security. This can be
done via the implementation of a basic principle, that is “to do good in
propaganda of the communist ideology” and to keep the press under tight
surveillance.
With the advent of the Internet and especially
social media networks, however, the task becomes more difficult. Given such
context, the propaganda and public security machinery must deal with
controlling official media and, at the same time, suppressing the unofficial
one, ie. the Internet media.
Press
cards
A subtle measure taken by the Party to control the
media in the name of “media management” is to maintain the so-called “press
card” (not press badges which are issued to journalists covering a specific
event). A Vietnamese press card is granted by the Ministry of Information and
Communication to a reporter only when he/she meets a set of requirements
imposed by a circular titled 07/2007/TT-BVHTT, including “not to be rebuked in
the previous 12 months” and “to be recommended by the media agency, the line
ministry, the Department of Culture and Information and the Association of the
Press.” All the requirements are hard to meet, especially for reporters who
tend to criticize the Party.
In particular, the requirement that the reporter
must be “recommended by the media agency, the line ministry, the Department of
Culture and Information and the Association of the Press” manifests the vague
boundary between the state sector and civil society. The press per se is part
of the realm of civil society, and the media agency is not an agency performing
official duties.
Accordingly, the government is not entitled to grant
press cards to identify those who work in media area; in other words, it cannot
make invention in an area beyond its jurisdiction. However, the government in
reality keeps exercising this authority, even prescribes that “The media
operating within the Socialist Republic of Vietnam is the essential means of
providing public information in relation to social life; is the mouth piece of
Party organizations, State bodies and social organizations, and a forum for the
people” (Article 1 on role and function of the media, Vietnam’s Law on Media,
1999) and the media must “disseminate, publicize and contribute to the
establishment and protection of the strategies and policies of the Party, the
laws of the State, and the achievements of the country and the world in accordance
with the guiding principles and aims of media organizations; to contribute to
political stability” (Article 6 on the responsibilities and rights of the
media).
As a result, a great many journalists are subject to
the direction of the machinery of government whose capacity of communication is
decidedly inferior to them.
“Free
journalist” = reactionary element
Some may say press card itself is no more than a
card, thus it is of not much significance. However, press cards are very
important. A journalist is someone “who is granted a press card” in law as well
as in social perception. Those without press cards are not recognized as
journalists. Consequently, they will evidently be barred from any event that
the organizers, the police, and the authorities, dislike the press to attend.
“Press card bearing” is often referred to as one condition for journalists who
want to attend state-organized, high level meetings. With this requirement, the
organizers succeed in blocking hundreds of reporters and, of course, bloggers.
More than anyone else, the police insist that only
those granted with press cards are recognized as journalists and that those
without press cards are just “self-proclaimed” reporters or freelance writers
who must not be given access to “authorized information”. On October 30th 2012,
Catholic blogger Huyền Trang was detained and interrogated for nearly one day
in a Ho Chi Minh City police station. When she told the police that she worked
as a reporter for Redemptorist News, an online Catholic news service, they
shouted at her, “Who recognized you? Where is your press card? You all are a
band of reactionary parasites!”
In 2011 and 2012 alone, dozens of journalists
reported being harassed or even assaulted by the police, ruffians and even civilians.
However, their denunciations and complaints simply went ignored because they
were not “journalists performing duties” in the eyes of the authorities.
Being unrecognized may cause much more trouble to bloggers because they do not receive protection. Dieu Cay and Ta Phong Tan, the two members of the Free Journalist Club, were severely persecuted when they came to hot spots to report for their personal blog. Both were given harsh sentences in the end: 12 years of imprisonment for Dieu Cay and 10 years for Ta Phong Tan.
On the one hand, the Party and the state tightly
control official media. On the other hand, they keep denying the existence of
“citizen journalists”.
Both the mainstream media and the blogosphere heard
of Truong Duy Nhat, who quit his journalistic career to become a blogger. He is
now the owner of the blog “A Different Viewpoint”. Following his arrest on May
26, 2013, journalist Duc Hien (aka. Bo Cu Hung) commented on his FB page, “the
thing is that a journalist must be able to access information. If he or she
lacks the ability or opportunity to access information, his or her different
viewpoint will be either insults, or libels, or talking along the same line as
someone else…”
Ironically while political bloggers harsly
criticized Hien, he was right from the viewpoint of the authorities. The
ability and opportunity to access information remain a huge difference between
a journalist and a blogger, or a state-recognized journalist and an independent
(free) one. There is no way for a blogger to attend major social or political
state-organized events and gatherings, international and national conferences,
or interview high ranking officials of the Party and the
government.
The authorities are fully aware that they must
employ this disadvantage of the bloggers to keep them in the disadvantageous
position to the press. At the same time, they deliberately create an invisible
war between “right side” and “left side” media to curb any form of cooperation
between state-owned and citizen journalists.
Previous part
Previous part
No comments:
Post a Comment