Beina Xu
Tài liệu tham khảo đặc biệt của THÔNG TẤN XÃ VIỆT NAM
Posted by basamnews
on 17/11/2012
Ngày 8/11, Hội đồng Quan hệ Đối ngoại Mỹ đăng bài phân
tích “Đảng Cộng sản Trung Quốc” của tác giả Beina Xu, trong đó đáng chú ý có đề
cập đến các thách thức về quản trị đất nước và phân tích dự báo chính sách đối nội, đối ngoại của Trung Quốc sau Đại hội XIII, Đảng Cộng sản
Trung Quốc. Nội dung cụ thể như sau:
Đảng Cộng sản Trung Quốc (ĐCSTQ) với hơn 82 triệu đảng
viên đang trải qua thời kỳ chuyển giao quyền lực then chốt một lần trong mỗi
thập kỷ. Người ta sẽ chứng kiến thế hệ lãnh đạo thứ năm của nước này đưa ra
chương trình nghị sự trong tương lai cho nền kinh tế lớn thứ hai trên thế giới.
Trong khi Trung Quốc duy trì độc quyền chính trị kể từ khi thành lập, các tác
động của việc tăng trưởng kinh tế nóng của nước này đã làm gia tăng bất ổn
chính trị – xã hội, cản trở sự nổi lên của Trung Quốc như một cường quốc thế
giới. Một loạt các vụ bê bối chính trị cũng đã cho thấy những cuộc tranh giành
quyền lực mạnh mẽ trong nội bộ tổ chức đảng. Trong khi sự thay đổi lãnh đạo hầu
như không ảnh hưởng ngay lập tức đến chính sách và đường lối của ĐCSTQ, những
chỉ dấu về việc bổ nhiệm các vị trí lãnh đạo mới có thể làm sáng tỏ phương cách
mà Trung Quốc sử dụng để duy trì vị thế của mình trên trường quốc tế.
Đảng Cộng sản Trung Quốc triệu tập Đại hội Đảng 5 năm một
lần để xác định các chính sách lớn và bầu chọn Ban Chấp hành Trung ương bao gồm
khoảng 370 ủy viên trong đó có các bộ trưởng, các quan chức quản lý cấp cao,
lãnh đạo tỉnh và người đứng đầu quân đội. Ban Chấp hành Trung ương sẽ bầu chọn
Bộ Chính trị, trong đó có 25 thành viên.
Bộ Chính trị lựa chọn ủy ban thường vụ gồm 9 người có
chức năng là tâm điểm của quyền lực và sự lãnh đạo của ĐCSTQ. Hồ cẩm Đào, cựu
lãnh đạo của Đoàn Thanh niên Cộng sản có vị trí cao nhất là Tổng bí thư, Chủ
tịch nước và người đứng đầu quân đội. Thủ tướng Ôn Gia Bảo là người đứng đầu
chính phủ.
Diễn tiến được theo dõi sát sao nhất tại Đại hội 18 ĐCSTQ
vào tháng 11 là việc số lượng ủy viên Thường vụ Bộ Chính trị có thể giảm từ 9
xuống còn 7 thành viên. Phó Chủ tịch nước Tập Cận Bình được dự kiến sẽ thay vị
trí của Hồ Cẩm Đào, trong khi đó, Phó Thủ tướng thường trực Lý Khắc Cường sẽ
thay thế Ôn Gia Bảo. Việc khoảng 70% thành viên của ba cơ quan lãnh đạo quan
trọng nhất là ủy ban Thường vụ Bộ Chính trị, Chính phủ và Quân ủy Trung ương sẽ
được thay thế làm cho sự kiện chuyển giao lãnh đạo tại Đại hội này trở nên quan
trọng và có ý nghĩa nhất trong vòng ba thập niên qua.
Những thách thức về quản trị đất nước
Trong những thập kỷ gần đây, các sự kiện mang tính toàn
cầu và xung đột nội bộ đã một số lần đưa ĐCSTQ đến bên bờ sụp đổ. Cuộc bạo loạn
Thiên An Môn năm 1989 và sự sụp đổ của Liên Xô vào đầu thập niên 1990 đã gây ra
một loạt các cuộc khủng hoảng hiện hữu đối với ĐCSTQ. ĐCSTQ đã thực hiện các
đánh giá có hệ thống về nguyên nhân sụp đổ của Liên Xô và tiến hành cải cách
trong nội bộ hệ thống đảng, theo đó các nguyên nhân được xác định là một đảng –
nhà nước cứng nhắc với một hệ tư tưởng giáo điều, giới tinh hoa bảo thủ, các tổ
chức đảng không hoạt động và một nền kinh tế trì trệ.
Kể từ đó đến nay, ĐCSTQ đã thể hiện một khả năng kỹ trị
nhằm thích ứng đối với các áp lực phát triển của xã hội do sự tăng trưởng kinh
tế chóng mặt của Trung Quốc mang lại. Đảng của ngày hôm nay “đang gia nhập vào
luồng cao tốc của quá trình toàn cầu hóa. Richard McGregor viết trong cuốn sách
“The Party” vào năm 2010 rằng điều này đến lượt nó đem lại hiệu quả kinh tế lớn
hơn, tỷ lệ lợi nhuận cao hơn và an ninh chính trị lớn hơn”.
Tuy nhiên, các nhà lãnh đạo cao nhất trong cơ cấu quyền
lực của Trung Quốc ngày hôm nay thiếu tầm nhìn dài hạn cho đảng, điều mà các
nhân vật cải cách như Hồ Diệu Bang của thập niên 1980 đã có được hay như Hồ Cẩm
Đào thúc đẩy sự minh bạch lớn hơn trong đảng hay việc cải cách thị trường tự do
của Đặng Tiểu Bình, điều đã hiện đại hóa nền kinh tế của Trung Quốc.
Quản trị thực tế của Trung Quốc có thể cực kỳ phân cấp.
Trong khi các ủy viên Bộ Chính trị giữ trách nhiệm đưa ra các chính sách và bổ
nhiệm nhân sự các bộ, họ không quản lý danh mục đầu tư hàng ngày mà Chính phủ
thực hiện. Các tỉnh của Trung Quốc được quyền tự chủ rất lớn, và các quan chức
lãnh đạo cấp dưới tỉnh được chính quyền trung ương bố nhiệm gần như có toàn
quyền kiểm soát. Chính sách có thể bắt nguồn “ngẫu nhiên” từ các cơ quan và các
bộ hoặc từ các viện nghiên cứu chính sách và các cố vấn. Ông Pei cho biết
“Không có một cách được cài đặt sẵn đưa ra chính sách ở Trung Quốc”.
Có thể phải mất từ 2 đến 3 năm các luật và quy định mới
được thực hiện. Đôi khi các chính sách như vậy phải trải qua quá trình thử
nghiệm, trong đó một số tỉnh phải thực hiện việc này. cấu trúc cũng thiếu một
hệ thống kiểm tra và đối trọng mà ở đó các quan chức địa phương phải có trách
nhiệm giải trình về việc thực hiện chính sách.
Việc thiếu trách nhiệm giải trình đã làm tích tụ các bất
bình, khiếu nại về bất bình đẳng thu nhập, thiếu bảo vệ người tiêu dùng, chiếm
đoạt đất đai và các vấn đề nhân quyền. Nhiều người trong số này đã công khai
đưa các vấn đề này trên Internet, làm xói mòn mạnh mẽ sự kiểm soát của ĐCSTQ về
truyền thông chính trị. Vụ việc Trần Quang Thành và việc người tiêu dùng Trung
Quốc bày tỏ sự phẫn nộ xung quanh vụ hàng ngàn trẻ em bị nhiễm độc do sữa có
chất melamine, về lâu dài chính quyền trung ương đã buộc phải có hành động đối
với những lo ngại về tính an toàn của các sản phẩm Trung Quốc.
Chính sách đối nội và đối ngoại
Có lẽ cấp bách nhất đối vói ĐCSTQ là xử lý vấn đề bất
bình đẳng thu nhập rất lớn do sự bùng nổ kinh tế của Trung Quốc tạo ra. Vào
giữa năm 2012, ĐCSTQ đã công bố một khuôn khổ phân phối thu nhập mới được thiết
lập để khắc phục khoảng cách ngày càng tăng. Sự nổi lên của Trung Quốc như một
siêu cường kinh tế đã gia tăng thách thức về quản trị khi tầng lóp trung lưu
của Trung Quốc ngày càng mở rộng. Đặc biệt, Trung tâm nghiên cứu Pew cho biết
“các tác dụng phụ của sự tăng trưởng kinh tế nhanh chóng, bao gồm cả khoảng
cách giữa người giàu và người nghèo, giá cả tăng cao, ô nhiễm, sự suy giảm của
nền văn hóa truyền thống là mối quan tâm lớn, và cũng có những lo ngại ngày
càng gia tăng về tham nhũng chính trị”.
Chăm sóc y tế cũng là một chủ trương lớn của ĐCSTQ khi
lực lượng dân số đang già đi ngày càng lớn, đã thúc đẩy chính phủ phải nỗ lực
mở rộng chi trả bảo hiểm. Chi tiêu về chăm sóc sức khỏe sẽ tăng gần gấp ba lần,
đạt 1 nghìn tỷ USD mỗi năm vào năm 2020 từ mức 116 tỉ USD năm 2011. Bảo hiểm y
tế hiện nay chi trả cho hơn 95% dân số Trung Quốc. ĐCSTQ cũng đã điều chỉnh
chính sách năng lượng, trong đó đề ra các chủ trương của Trung Quốc trong 5 năm
tới bao gồm việc phát triển năng lượng sạch để giảm khí cácbon.
Trong khi đó, quyền lực đang lên của Trung Quốc trên
trường quốc tế đã làm cho họ nhiều lần không nhượng bộ trên mặt trận chính sách
đối ngoại và tạo ra nhận thức mang tính phổ biến về một quốc gia với sức mạnh
bành trướng, hung hăng. Nước này đã đặt cược vào tuyên bố kiên quyết về chủ
quyền lãnh thổ đối với các đảo ở Biển Hoa Đông và Hoa Nam (Biển Đông) – một
động thái đẩy Trung Quốc vào vị trí chống lại các nước láng giềng ASEAN và đã
gây ra sự rạn nứt và bế tắc ngoại giao tại khu vực láng giềng này. Trung Quốc
đã thể hiện tiếp tục hỗ trợ cho các chế độ thù địch với Mỹ trong đó có Xyri và
Iran. Bắc Kinh cũng đã phản đối kế hoạch hợp tác hải quân Mỹ – Hàn Quốc ở Biển
Hoàng Hải, đồng thời phản ứng kịch liệt đối với việc Mỹ bán vũ khí cho Đài
Loan, đình chỉ đối thoại an ninh cấp cao nhất và công bố các biện pháp trừng
phạt chưa từng có tiền lệ đối với các công ty Mỹ có quan hệ với Đài Loan.
Một số chuyên gia cho rằng trong khi quyền lực tương đối
của Trung Quốc đã phát triển đáng kể so với tăng trưởng kinh tế của nước này,
các nhiệm, vụ chính trong chính sách đối ngoại của Trung Quốc vẫn còn tính chất
phòng thủ, chống lại các can thiệp từ nước ngoài, tránh thiệt hại lãnh thổ,
đồng thời duy trì tăng trưởng kinh tế. Andrew J. Nathan và Andrew Scobell viết trên tờ “Foreign Affairs” rằng
điều đã thay đổi là “Trung Quốc hiện đang hộinhập sâu vào hệ thống kinh tế thế
giới mà các ưu tiên đối nội và khu vực đã trở thành một phần của nhiệm vụ lớn
hơn: xác định một vai trò toàn cầu phục vụ các lợi ích của Trung Quốc, mà không
phải chỉ là giành được sự thừa nhận từ các cường quốc khác”.
Các chuyên gia cho rằng nhìn chung, mục tiêu hợp lý cho
lãnh đạo mới ở Trung Quốc là tránh một mối quan hệ đối nghịch với Mỹ, mặc dù sự
thay đổi lãnh đạo tới đây không đủ đưa ra những thay đổi đáng kể hoặc ngay lập
tức trong lĩnh vực này. Một số người khác cho rằng quan hệ Mỹ – Trung sẽ bị ảnh
hưởng cho đến khi Trung Quốc điều chỉnh chính sách đối ngoại và cấu trúc chính
trị cấp tiến hơn, bắt đầu với việc bình thường hóa các mối quan hệ trone khu
vực của nước này.
***
Chênh lệch về thu nhập ở Trung Quốc
TTXVN (Bắc Kinh 13/11)
Tại thời điểm diễn ra kỳ họp Lưỡng hội (Quốc hội và Chính
hiệp) năm 2010, Cửu tam học xã – một trong 8 đảng phái dân chủ tham chính ở
Trung Quốc có thành phần nòng cốt là các phần tử trí thức thuộc giới khoa học
công nghệ – đã công bố kết quả một cuộc điều tra nghiên cứu cho thấy chênh lệch
về thu nhập ở Trung Quốc lúc đó là hơn kém nhau 24 lần. Tuy nhiên, cho đến nay,
sau 8 năm chuẩn bị nhưng phương án cải cách phân phối thu nhập ở nước này vẫn
chưa được triển khai.
Ngày 17/10 vừa qua, Thủ tướng Ôn Gia Bảo xác nhận phương
án tổng thể về cải cách phân phối thu nhập sẽ được công bố trong quý IV này.
Tin cho biết phương án sẽ bao gồm thời gian biểu và lộ trình cải cách, trong đó
điều chỉnh lại kết cấu thu nhập ban đầu sẽ là trọng tâm trong cải cách phân
phối thu nhập thời gian tới.
Mới đây, Mạng Nhân dân thuộc Nhân dân nhật báo ở Trung
Quốc đã triển khai đợt điều tra nghiên cứu chuyên đề về phân phối thu nhập,
điều tra và phân tích từ nhiều góc độ khác nhau. Mạng Tân Hoa ngày 2/11/2012 đã
đăng bài tổng hợp của Tô Hải Nam, Phó Chủ tịch Hiệp hội lao động kiêm Chủ tịch
Hội đồng chuyên nghiệp lương lao động Trung Quốc, phân tích những ý kiến bất
đông đã gây trì trệ trong cải cách phân phối thu nhập, từ đó đề xuất xã hội cần
sớm đạt được tiếng nói chung, đẩy nhanh cải cách phân phối thu nhập trong bối
cảnh cấp bách.
Bước vào thế kỷ 21, trong quá trình “chiếc bánh” kinh tế
của Trung Quốc nhanh chóng lớn thêm, làm thế nào để phân phối “chiếc bánh” đó
cho hợp lý ngày càng trở thành vấn đề dân sinh to lớn được các giới trong xã
hội bàn luận như một đề tài nóng. Trung ương Cửu tam học xã đã đề xuất một loạt
yêu cầu về đi sâu cải cách, điều chỉnh hợp lý quan hệ phân phối thu nhập, và đã
đưa ra phương án triển khai chiến lược của mình. Giới học giả và các giới khác
trong xã hội, bao gồm đông đảo quần chúng nhân dân cũng đã thảo luận một cách
nhiệt tình và sâu sắc, trình bày các quan điểm, trong đó không ít quan điểm,
còn đi đến đối lập và va chạm nhau.
Một số năm gần đây số lượng sách chuyên đề, báo cáo điều
tra, các bài báo, bình luận rất nhiều, đề cập đến nhiều phương diện, tính hệ
thống tăng lên, có thể khái quát phân thành ba loại: Một là, đã đạt hoặc cơ bản
đã đạt tiếng nói chung; hai là, qua thảo luận hy vọng đạt tiếng nói chung; ba
là, khó đạt tiếng nói chung.
I. Quan tâm cả gốc đến ngọn, cải cách đồng bộ đi đến nhất
trí
Xét theo tình hình thứ nhất, hiện nay nội dung đã đạt
được chủ yếu có một số phương diện sau:
Thứ nhất, nhận định về mức độ vấn đề phân phối thu nhập,
vấn đề phân phối thu nhập và phân phối của cải ở Trung Quốc tồn tại các sai sót
nghiêm trọng, đã đến lúc phải được giải quyết, đặc biệt là đã muộn mất vài năm
so với yêu cầu “cùng giàu có” mà đồng chí Đặng Tiểu Bình đã nêu ra từ 20 năm
trước đây là “khi đã đạt được mức sống khá giả vào cuối thế kỷ này (thế kỷ 20),
vấn đề này sẽ dứt khoát phải được nêu ra như một vấn đề nổi cộm và cần được
giải quyết”.
Thứ hai, nhận thức về các vấn đề nổi bật trong phân phối
thu nhập, vấn đề nổi bật trong phân phối thu nhập ở Trung Quốc biểu hiện ở chỗ
quan hệ phân phối thu nhập và phân phối của cải không hợp lý, khoảng cách thu
nhập và chênh lệch về tài sản có xu hướng không ngừng mở rộng, điều này đã đi
ngược lại với tính chất “cùng giàu có” của Chủ nghĩa xã hội ở Trung Quốc, về
vấn đề này, dù là quan điểm nào cũng đều không có gì khác biệt.
Thứ ba, phân tích nguyên nhân của vấn đề thu nhập, vấn đề
phân phối thu nhập ở Trung Quốc là do nguyên nhân ở nhiều phương diện tạo nên
như chế độ phân phối chưa được kiện toàn, tệ nạn trong thể chế kinh tế xã hội
và những bất hợp lý trong phương thức phát triển kinh tế và trong cơ cấu kinh
tế.
Thứ tư, tư duy trong giải quyết vấn đề. Phải có cách suy
nghĩ mang tính chất hệ thống từ những vấn đề dưới tầng sâu, nhằm vào những
nguyên nhân thuộc nhiều phương diện dẫn đến vấn đề phân phối thu nhập và phân
phối của cải, dựa vào tư duy cải cách đồng bộ, trị cả gốc lẫn ngọn mới có thể
từng bước giải quyết vấn đề tồn tại.
II. Đâu là vấn đề chưa đạt tiếng nói chung – bất đồng chủ
yếu
Xét theo tình hình thứ hai và thứ ba, về đại thể có thể
phân tích từ ba phương diện sau:
1. Bất đồng trong nhận
thức về vấn đề cơ bản cần được loại bỏ
- Một là xuất phát điểm trong nhận thức cơ bản về phân phối thu
nhập và cải cách phân phối thu nhập là giống nhau. Trên cơ sở phân tích lý luận
về kinh tế thị trường tự do, đã có một bộ phận trong giới học giả bàn luận,
chứng minh vấn đề phân phối thu nhập và đối sách trong vấn đề này ở Trung Quốc.
Những người khác chủ yếu vận dụng lý luận phân tích xuất phát từ tình hình thực
tế của Trung Quốc, kết luận rút ra được từ hai phương diện cách nhau rất xa. Bộ
phận thứ nhất nhấn mạnh vai trò của cơ chế thị trường, phản đối hoặc không tán
thành việc chính phủ can thiệp; Những người ở diện thứ hai cho rằng cơ chế thị
trường không hiệu quả và coi trọng vai trò điều tiết của chính phủ.
Nghiên cứu sâu hơn sẽ thấy hệ thống kinh tế thị trường do
chính phủ chủ đạo xây dựng chứ không phải sinh ra một cách tự nhiên, không để
cho chính phủ phát huy vai trò là không thể giải quyết được vấn đề, nhưng nếu
tránh để cho chính phủ quản lý những việc không nên quản, quản không được và
quản không tốt thì quả thực sẽ là một đề tài lớn cần phải đi sâu nghiên cứu. Vì
thế, hai phương diện nhận thức nói trên có điểm dung hòa và tiếp nhận lẫn nhau,
cần dung hòa một cách thích hợp, kết hợp giữa cánh tay vô hình và cánh tay hữu
hình.
- Hai là phán đoán những bất đồng về trọng tâm của vấn đề phân
phối. Một số người cho rằng vấn đề phân phối ở Trung Quốc chủ yếu là phân phối
của cải không hợp lý, phân phối thu nhập, đặc biệt là phân phối trả công lao
động không được rõ ràng. Còn lại đa số cho rằng phân phối thu nhập và phân phối
của cải đều có vấn đề, hơn nữa phân phối thu nhập, nhất là phân phối trả công
lao động và mở rộng lợi ích của người lao động là có liên quan trực tiếp và
người dân hết sức quan tâm nên không thể coi thường.
Trên thực tế, hai kiểu nhận thức nói trên không hề mâu
thuẫn, cách mà chúng ta gọi phân phối thu nhập hiện nay là nói đến phương thức
phân phối lớn, hàm nghĩa bao gồm phân phối thu nhập và phân phối của cải, có
phân phối thu nhập mang tính bề nổi và mang tính tiềm ẩn, có dạng lưu chuyển
(lưu lượng) và dạng dự trữ (tồn lượng), phải coi chúng như một hệ thống lớn để
phân tích và nghiên cứu đối sách chứ không phải cắt chúng ra thành nhiều mảnh,
chỉ làm nổi bật phương diện nào đó nhưng lại coi thường phương diện khác.
- Ba là nhận thức khác nhau về phân tích nguyên nhân trọng điểm
tạo nên vấn đề phân phối thu nhập. Có một số người cho rằng do chính phủ can thiệp
quá nhiều vào hoạt động kinh tế vi mô đã tạo nên vấn đề phân phối, và chúng
cũng được tạo nên do các hình thức lũng đoạn, bao gồm lũng đoạn trong các lĩnh
vực hành chính, quyền lực, tài nguyên và thị trường. Một kiểu quan điểm khác
cho rằng nguyên nhân liên quan đến nhiều phương diện, nhiều tầng nấc, nếu chỉ
nhấn mạnh một phương diện nào đó là không toàn diện.
Quan điểm thứ nhất có lý ở mức độ nhất định, còn quan
điểm thứ hai kỳ thực cũng không mâu thuẫn. Nguyên nhân mà quan điểm thứ hai nói
đến về những tệ nạn trong thể chế kinh tế xã hội đã bao hàm cả nguyên nhân mà
quan điểm thứ nhất đề cập tới, vì thế cả hai loại quan điểm có thr dung hợp lẫn
nhau.
- Bốn là nhận thức khác nhau về con đường cơ bản để giải quyết
vấn đề phân phối thu nhập. Một kiểu nhận thức cho rằng con đường cơ bản đế giải
quyết vấn đề là đặt trọng tâm vào cải cách thể chế kinh tế xã hội, thậm chí là
cả chế độ chính trị tương ứng, đặc biệt là loại bỏ sự can thiệp quá sâu của
chính phủ vào nền kinh tế vi mô, dẫn đến tệ độc quyền trong các lĩnh vực hành
chính, quyền lực, tài nguyên, thị trường…, chế độ phân phối thu nhập, đặc biệt
là cải cách chế độ phân phối tiền công lao động trong đó có thể bỏ qua không
tính, nhất là không thể coi đó là phương hướng chủ đạo; Một kiểu nhận thức khác
cho rằng con đường cơ bản là phải chú trọng cả gốc lẫn ngọn, vừa cải cách chế
độ phân phối thu nhập, vừa chú trọng cải cách hoặc điều chỉnh trong các phương
diện liên quan đến tệ nạn trong thể chế kinh tế xã hội và kết cấu kinh tế ở
tầng sâu. Cách nhận thức thứ nhất có lý ở mức độ nào đó nhưng lại quá nhấn mạnh
đến khả năng thoát ra khỏi cải cách tự thân của chế độ phân phối thu nhập, hơn
nữa có thể thu hút toàn bộ sự chú ý của mọi người vào các lĩnh vực ngoài xây
dựng kinh tế như xây dựng xã hội, xây dựng chính trị, khó khăn vừa lớn lại vừa
không thuận lợi để thao tác, có thể sẽ biến thành một thứ giả tưởng về cải cách
vô thời hạn. Hơn nữa, kiểu nhận thức này cũng không mâu thuẫn với kiểu nhận
thức sau về bản chất, mà chỉ là nhấn mạnh hơn đến việc trị tận gốc. Còn trong
kiểu nhận thức thứ hai, về cải cách ở tầng sâu là đã bao hàm nội dung trị gốc
trong kiểu nhận thức thứ nhất, vì thế hai kiểu nhận thức này cũng có thể kết
hợp lại với nhau được.
2. Quan điểm khác nhau về vấn đề cụ thể có hy vọng đạt tiếng nói chung
Có rất nhiều nhận thức khác nhau liên quan đến vấn đề cụ
thể, trong bài này chỉ lựa chọn phân tích sơ lược vấn đề chủ yếu.
Thứ nhất, liệu có phải tỉ trọng thu nhập của cư dân, tỉ trọng về
trả công lao động đang có xu hướng giảm, và sẽ còn tiếp tục giảm? Một quan điểm
cho rằng đó là phán đoán sai, một quan điểm khác lại cho rằng nếu xét trên tổng
thể thì hai loại tỉ trọng đó ở Trung Quốc đang thể hiện xu hướng giảm. Sở dĩ có
những kết quả tính toán khác nhau là do liên quan đến các số liệu hiện hành
được hoàn thiện một cách không có hệ thống, chênh lệch độ tính toán không thống
nhất. Để có những kết quả tính toán như nhau đòi hỏi phải thông qua những số
liệu giống nhau được sử dụng thống nhất, đồng thời bổ sung sử dụng số liệu khác
thông qua điều tra điểm, lựa chọn những con đường khác để tính toán, kiêm
nghiệm lẫn nhau để xác nhận. Trên cơ sở mọi người đều nhận thức được về sự bất
hợp lý trong quan hệ phân phối thu nhập và phân phối của cải, khoảng cách chênh
lệch không ngừng lớn thêm, từ đó vấn đề đặt ra là: Cách tính toán mới bị nghi
ngờ liệu hai tỉ trọng nói trên có phải đang có xu hướng thấp đi, cách tính này
phải không ảnh hưởng đến cách nhận định về tính chất nghiêm trọng trong vấn đề
phân phối ở Trung Quốc, không được vì thế mà làm chao đảo đối sách của trung
ương về đẩy nhanh cải cách thu nhập.
Thứ hai là liệu có phải các khoản thuế trong tầm vĩ mô ở Trung
Quốc đang có chiều hướng tăng lên? về điểm này có một quan điểm cho rằng xét
theo chiều ngang thì đều không nặng so với chiều dọc, một quan điểm khác lại
cho rằng đang có chiều hướng nặng thêm. Bất đồng ở đây cũng liên quan đến chênh
lệch tính toán có phải đã bao gồm cả các khoản thu nhập tài chính ngoài dự toán
hay không, có thể tiếp tục phải định lượng những số liệu này để phân tích, rút ra
kết luận mới chuẩn xác hơn; nhưng hiện nay ít nhất cũng phải đạt nhận thức
chung cơ bản về những nội dung như kết cấu giữa thuế thu và chịu thuế ở Trung
Quốc không hợp lý, cần phải điều chỉnh, thuế thu phải thể hiện tốt hơn nữa vai
trò chức năng trong việc điều tiết quan hệ phân phối bất hợp lý hiện hành, thu
chi tài chính cần phải gia tăng tỉ trọng, về dân sinh, khống chế và giảm thiểu
chi tài chính “tam công” (nhà nước chi trả ba khoản về chiêu đãi khách, phương
tiện đi lại và đi nước ngoài đều bằng tiền công), thông qua phân phối lại để
gia tăng tỉ trọng thu nhập của cư dân, tiếp tục rút ngắn khoảng cách giàu
nghèo…. Ở đây cũng cần nhấn mạnh là không được vì tranh luận để ảnh hưởng đến
quyết tâm cải cách phân phối.
Thứ ba, khoảng cách giàu nghèo ở Trung Quốc được tạo ra bởi khác
biệt về thu nhập hay khác biệt về tài sản? Vấn đề này có thể tiếp tục tính
toán, không nhất thiết phải phân định rõ cần chú trọng loại nào hơn, chỉ cần
đưa ra được định nghĩa về phân phối lớn, sẽ không ảnh hưởng đến việc chúng ta
quan tâm tìm kiếm toàn diện vấn đề phân phối và nguyên nhân thực sự của vấn đề
phân phối.
Thứ tư, giải quyết khoảng cách chênh lệch trong phân phối chủ
yếu phải đầu tư vào việc phân phối lần một hay phân phối lần hai (phân phối lần
thứ nhất là tiền lương chính được trả do công sức bỏ ra theo quy luật thị
trường; phân phối lần hai là nhà nước hỗ trợ theo diện chính sách bằng nguồn
tiền thu thuế tăng lên). Một quan điểm cho rằng chủ yếu chỉ cần bỏ công sức vào
phân phối lần hai, một quan điểm khác lại cho rằng cần đồng thời đầu tư vào cả
hai lần. Chỉ cần xem những yếu tố sản xuất tham gia phân phối lần một hiện nay,
trong đó bao gồm đất đai, vốn, nhân công lao động, quản lý, công nghệ… đã tồn
tại rất nhiều bất công là sẽ có thể rút ra được kết luận cần thiết phải có biện
pháp để giải quyết những vấn đề này như thế nào. Có thể nói những vấn đề thuộc
lĩnh vực phân phối lần hai về cơ bản đều liên quan đến phân phối lần một. Vì
thế, những tồn tại về phân phối lần một hay phân phối lần hai cũng đều cần
thiết phải giải quyết bằng cách áp dụng biện pháp cải cách, cần nhấn mạnh trong
phân phối lần một chính phủ không được vượt giới hạn, chủ yếu thông qua nguyên
tắc kiện toàn các yếu tố sản xuất, loại bỏ ngăn cách thị trưòng, cải cách chế
độ tài chính thuế vụ, giám sát xử lý những hành vi vi phạm pháp luật trong phân
phối thị trường yếu tố sản xuất… để giải quyết vấn đề tồn tại, đồng thời nắm
được một giới hạn: Tất cả những việc gì thuộc về người dân kiếm tiền theo đúng
pháp luật sẽ không được can thiệp, không phân chia lời lãi, còn những gì thuộc
về những việc gây nguy hại công bằng chính nghĩa trong xã hội sẽ phải quản lý.
Đồng thời, trong phân phối lần hai phát huy tốt hơn nữa tác dụng của việc tái
phân phối, điều tiết khoảng cách giàu nghèo, cùng thúc đẩy từng bước giải quyết
vấn đề.
Thứ năm, nâng cao mức lương tối thiểu, thi hành chính sách cụ thể
như cùng bàn bạc về vấn đề lương, về vấn đề này, một quan điểm cho rằng những
chính sách như vậy không có tác dụng, mà tác dụng phụ có thể còn lớn hơn; Một
quan điểm khác cho rằng việc thi hành những chính sách đó là rất cần thiết.
Trong quan điểm thứ nhất, xuất phát từ lo lắng chính phủ thông qua những chính
sách như vậy để can thiệp quá sâu vào thị trường sức lao động là có lý ở mức độ
nào đó, quả có hiện tượng là địa phương cá biệt cưỡng chế quy định trong thời
kỳ nhất định phải nâng mức lương tối thiểu lên đến bao nhiêu, hoặc mở rộng diện
bàn bạc tập thể về lương đến đâu. Trên thực tế, việc nâng cao mức lương tối
thiểu, theo “Quy định mức lương tối thiếu” là liên quan đến cách tính, đến căn
cứ và trình tự để tính. Quy hoạch 5 năm lần thứ 12 cũng chỉ xác định chỉ tiêu
mang tính dự kiến chứ không phải chỉ tiêu mang tính ràng buộc đối với việc nâng
cao mức lương tối thiểu, Việc tiến hành bàn bạc tập thể, theo quy định của pháp
luật hữu quan là có điều kiện mang tính tiền đề và là yêu cầu liên quan chứ
không phải do chính phủ cưỡng chế thúc đẩy.
Nếu không tìm hiểu tình hình mà phủ nhận toàn bộ những
chính sách đó thì hiển nhiên sẽ là phiến diện. Thông qua tranh luận về quan điểm,
chúng ta có thể đi đến được nhận thức chung: Vừa không biến những chính sách
trên thành thần dược linh đơn trong giải quyết phân phối thu nhập, cũng không
được phủ nhận một cách đơn giản tính chất cần thiết và tính khả thi của những
chính sách đó, phải coi đó là biện pháp cấu thành trong công trình cải cách
phân phối của cả hệ thống, xác định đúng vị trí và vai trò của những chính sách
này.
3. Quan điểm khác nhau khó đạt tiếng nói chung
Một số nhóm lợi ích đã phản đối việc điều chỉnh liên quan
đến lợi ích của mình, hoặc các nhóm lợi ích do ở các vị trí khác nhau trong kết
cục lợi ích hiện hành nên đã hình thành nhận thức đối lập nhau khi nhận định về
một số quan hệ lợi ích và biện pháp điều chỉnh lợi ích. Ví dụ như không thừa
nhận có ngành nghề độc quyền, hay như ví dụ khác cho rằng phân phối thu nhập có
chênh lệch là rất bình thường, hơn nữa chênh lệch hiện không lớn, mà vẫn còn
phải tiếp tục mở rộng V.V.. Với những nhận thức như vậy những người đương sự
hoặc nhóm đương sự sẽ không thể hoặc rất khó đi đến được tiếng nói chung, hơn
nữa lại thường gây khó khăn cho việc hình thành dòng nhận thức chủ lưu trong xã
hội, đồng thời sẽ cản trở sự ra đời của những quyết sách lớn.
III. Thời gian không đợi – Đẩy nhanh cải cách phân phối
thu nhập
Với loại quan điểm thứ nhất, cần tăng cường nhận thức về
cải cách, cụ thể hóa cách phân tích định lượng, đem lại cơ sở nhận thức tư
tưởng chắc chắn hơn cho việc điều chỉnh hợp lý quan hệ phân phối thu nhập và
phân phối của cải.
Với loại quan điểm thứ hai, cần tăng cường trao đổi hiểu
biết lẫn nhau, sớm hình thành nhận thức chung về cải cách; đối với một bộ phận
trong đó mà trước mắt tranh luận chưa đi đến kết quả, hơn nữa không ảnh hưởng
đến nhận định cơ bản, có thể tạm gác lại tranh luận, nhẩt là phải đề phòng
không để những tranh luận như vậy ảnh hưởng đến nhận định cơ bản về vấn đề phân
phối ở Trung Quốc hiện nay, làm chao đảo quyết tâm đi sâu cải cách phân phối.
Với loại quan điểm thứ ba, nếu công tác điều chỉnh quan
hệ lợi ích được đông đảo quần chúng nhân dân chấp nhận hoặc bị phản đối thì cần
thiết phải do cấp lãnh đạo trên cao hạ quyết tâm chính trị, cho ra đời quyết
sách mang tính chất công bằng và quyền uy; Nếu các bên lợi ích liên quan không
thỏa thuận được, hơn nữa nếu ý kiến của quần chúng nhân dân không mạnh lắm thì
cũng có thể gác lại tranh luận để tránh gây cản trở cho việc xác định những
quyết sách và chính sách lớn.
Trước mắt, không còn thòi gian chờ đợi đi sâu cải cách
phân phối thu nhập, vì thế, chúng ta phải nhanh chóng quy tụ tiếng nói chung,
tìm điểm đồng gác lại bất đồng, đặt nền tảng nhận thức tư tưởng đẩy nhanh cải
cách phân phối thu nhập và phân phối của cải. Chúng ta đã muộn hơn 10 năm so
với yêu cầu “dứt khoát phải được nêu ra như một vấn đề nổi cộm và giải quyết”
vấn đề phân phối mà lãnh tụ Đặng Tiểu Bình đã đề xuất. Bước tiến cải cách phân
phối tuyệt đối không thể tiếp tục trì hoãn.
No comments:
Post a Comment