04:15:pm 14/08/12
Sự
sụp đổ của hệ thống Cộng Sản trong phạm vi thế giới từ cuối thập niên 1980 đã
tạo điều kiện cho các dân tộc vùng Đông Âu tìm về bản sắc văn hóa và cội nguồn
lịch sử của mình. Sự phục hưng và phát triển vượt bực của Slovakia, Estonia,
Czech, Slovenia, Latvia và Lithuania hiện nay cho thấy yếu tố văn hóa không
những là động lực chính của phong trào độc lập mà còn là nguồn thúc đẩy cho
phát triển kinh tế dù đó là những nước chật hẹp về đất đai và rất ít về dân số.
Sức sống dân tộc và đôi cánh tự do dân chủ đã giúp cho các quốc gia này ngày
càng thịnh vượng.
Nhưng
không phải lãnh đạo nào cũng đức độ như Vaclav Havel của Czech hay tài ba như
bà Vaira Vīķe của Latvia, từ Hitler với đảng Quốc Xã Đức đến Đặng Tiểu Bình với
đảng CS Trung Quốc, nhân loại đã chịu đựng nhiều tai họa chỉ vì giới lãnh đạo
độc tài tại các quốc gia này đã sử dụng chủ nghĩa dân tộc như một phương tiện
phục vụ cho mục tiêu bành trướng bá quyền.
Khi
Đặng Tiểu Bình chết, 17 tháng Hai, 1997, nhiều lãnh đạo quốc gia, chính khách
ca ngợi y như là một thiên tài kinh tế, nhà chính trị lỗi lạc, can đảm và cũng
là người giúp ngăn Trung Quốc khỏi rơi vào hố thẳm. Tuy nhiên, các thành tựu
kinh tế của Trung Quốc được đổi bằng sự chịu đựng, hy sinh, mồ hôi, xương máu
của nhiều dân tộc khác và ngay tại Trung Quốc hàng trăm triệu dân thiểu số vẫn
phải tiếp tục sống trong độc tài, nghèo đói, bất công và bạc đãi. Nhiều học giả
so sánh giữa Hitler và Statin, Hitler và Mao nhưng rất ít người so sánh giữa
Hitler và Đặng Tiểu Bình bởi vì họ chỉ nhìn những điểm sáng của Đặng Tiểu Bình mà
bỏ qua phía tối của y.
Các
điểm giống nhau giữa Hitler và Đặng Tiểu Bình
Hitler
và Đặng Tiểu Bình có nhiều chủ trương rất giống nhau: (1) Cả hai đều dùng yếu
tố chủng tộc để khích động lòng yêu nước cực đoan; (2) cả hai đều triệt để khai
thác hận thù trong quá khứ giữa các quốc gia (3) cả hai đều tận dụng các kỹ
thuật tuyên truyền tinh vi để tẩy não, đầu độc, vận dụng và điều khiển nhận
thức người dân; (4) cả hai đều chủ trương bành trướng, mở rộng biên giới để
chiếm đoạt tài nguyên nhằm phục vụ cho các mục đích kinh tế và bá quyền nước
lớn.
1. Yếu tố chủng tộc
ưu việt:
Giống như quan điểm của Hitler đề cao chủng tộc Aryan, Đặng Tiểu Bình và các
lãnh đạo kế thừa y đề cao chủ nghĩa dân tộc cực đoan Đại Hán. Edward Friedman,
một chuyên viên về Trung Quốc tại đại học Wisconsin phát biểu “Khi Đặng Tiểu
Bình nắm quyền 1977, chủ nghĩa dân tộc và tinh thần chống Nhật đã trở thành
chất keo giữ chặt xã hội lại với nhau”. Ngoài 1.2 tỉ người gốc Hán đang sống
tại lục địa còn có 22 triệu người gốc Hán tại Đài Loan, 6 triệu người gốc Hán
tại Hong Kong, 10 triệu người gốc Hán tại Nam Dương, gần 4 triệu người gốc Hán
tại Singapore và hầu như khắp nơi trên thế giới nước nào cũng có người gốc Hán.
Đặng Tiểu Bình khi đề cao chủng tộc Hán, y cũng không chỉ nhắm tới nhân dân Trung
Hoa lục địa mà ở bất cứ nơi nào trên thế giới. Theo họ Đặng “bất cần người Hoa
mặc áo quần màu gì hay có quan điểm chính trị gì” mà chỉ cần “yêu Trung Quốc”.
2. Khai thác hận thù
trong quá khứ giữa các quốc gia: Giống như chủ trương của Hitler khai thác
nội dung trừng phạt Đức nặng nề trong hiệp ước Versailles, Đặng Tiểu Bình từ
1977 đã đề cao chủ nghĩa dân tộc cực đoan bằng cách khích động lòng thù hận với
các nước Tây phương qua các hiệp ước bất bình đẳng dưới thời nhà Thanh. Đặng
Tiểu Bình nhiều lần nhắc đến “100 năm sỉ nhục”, thời gian Trung Quốc bị các đế
quốc khinh thường. Y nói: “Tôi là người Trung Hoa, và tôi quen thuộc với lịch
sử chịu đựng dưới sự xâm lược của ngoại bang”. Phần dẫn nhập của hiến pháp
Trung Quốc 1982 nhấn mạnh đến những vết nhục trong thời gian bị nước ngoài chia
năm, xẻ bảy và công lao thống nhất đất nước của đảng CS. Quá khứ “100 năm sỉ
nhục” đã để lại dấu ấn sâu đậm trong nhận thức của người dân và đã được đảng CS
khai thác tận tình. Bất cứ hành động nào trong quan hệ ngoại giao quốc tế, bất
lợi cho đảng CS Trung Quốc, câu chuyện “100 năm sỉ nhục” lại được nhắc đến.
Ngay cả việc chính phủ các nước tiếp đức Đạt Lai Lạt Ma, bán võ khí cho Đài
Loan, chỉ trích chính sách ngăn chận Internet của Trung Quốc, cũng được bộ máy
tuyên truyền CS giải thích cho nhân dân Trung Quốc đó những hành động khơi dậy
“100 năm sỉ nhục” và xúc phạm đến danh dự của Trung Quốc.
3. Tận dụng các kỹ
thuật tuyên truyền để đầu độc nhân dân: Giống như Hitler chủ trương “Một dân tộc,
một quốc gia, một lãnh tụ”, bộ máy tuyên truyền của đảng CS Trung Quốc lập đi
lập lại rằng chỉ có đảng CS mới là cứu tinh Trung Quốc, phục hồi Trung Quốc như
một cường quốc vốn từng vang danh năm ngàn năm. Một trong những lý luận quan
trọng trong Lý Thuyết Đặng Tiểu Bình là việc thay đổi khái niệm từ “trung thành
với giai cấp” sang “trung thành với quốc gia” nhưng “trung thành với quốc gia”
trước hết phải “trung thành với đảng Cộng Sản”. Thực chất của chủ nghĩa dân tộc
cực đoan trong quan điểm họ Đặng là một hình thức khác của chế độ độc tài toàn
trị Cộng Sản trong thời đại toàn cầu.
Tại
Trung Quốc không có báo chí đúng nghĩa để chuyển tải tin tức giữa hai nguồn một
cách khách quan nhưng chỉ là phương tiện tuyền truyền độc quyền của đảng. Không
giống như giai đoạn đầu của chính sách đổi mới chỉ có vài tờ báo đảng, năm
2005, Trung Quốc có trên hai ngàn tờ báo, chín ngàn tạp chí nhưng tất cả tập
trung vào mỗi một mục tiêu là củng cố vai trò lãnh đạo của đảng CS. Trang đầu
của các báo gần như giống nhau với khuôn mặt tươi cười của các lãnh đạo đảng và
nhà nước CS, với những thành tựu kinh tế chính trị. Không có tờ báo nào có bộ
phận tin quốc tế độc lập và tất cả đều trích từ bản tin thế giới tổng hợp hàng
ngày của Tân Hoa Xã. Bản tin quan trọng quốc nội và quốc tế lúc 7 giờ tối của
hệ thống truyền hình cũng đọc lại tin của Tân Hoa Xã. Để tiết giảm chi phí, sau
này nhà nước đã tư hữu hóa các đài truyền hình, tuy nhiên, các tin tức quan
trọng ảnh hưởng đến chính sách đối nội và đối ngoại vẫn bị kiểm duyệt và chi
phối bởi một cơ quan thông tin trực thuộc trung ương đảng CS.
4. Bành trướng, mở
rộng biên giới để chiếm đoạt tài nguyên nhằm phục vụ cho các mục đích kinh tế
và bá quyền nước lớn:
Giống như Hitler chiếm các nguồn tài nguyên năng lượng để nuôi dưỡng bộ máy
chiến tranh, Đặng Tiểu Bình mở rộng biên giới, độc chiếm tài nguyên để nuôi
dưỡng sự phát triển kinh tế. Song song với phát triển kinh tế, Trung Quốc, nơi
cư ngụ của một phần năm nhân loại, cũng chuyển mình từ một một nền kinh tế tự túc
xã hội chủ nghĩa để dần dần trở thành một xã hội tiêu thụ. Nhu cầu năng lượng,
vì thế, trở nên bức thiết.
Tại
Phi châu, Trung Quốc khai thác mọi bất đồng giữa các nước phương Tây và các
quốc gia nghèo nhưng giàu tài nguyên. Trung Quốc ngày nay đã thay thế vai trò
của các đế quốc Anh, Pháp, Bồ Đào Nha đã từng đóng tại Châu Phi thế kỷ 19. Để
hút cạn nguồn dầu hỏa châu Phi, Trung Quốc không những nuôi dưỡng các tầng lớp
lãnh đạo độc tài mà còn tiếp tay cho chúng để đàn áp các thành phần đối lập,
tàn sát các tầng lớp nhân dân da đen thiếu học, không một tấc sắt trong tay
bằng những phương tiện vô cùng ác độc. Giống như chế độ thực dân đế quốc trước
đây, Trung Quốc bao che giới lãnh đạo, cung cấp cho chúng tiền bạc, súng đạn,
che chở an ninh cá nhân và bảo vệ chế độ bằng quyền phủ quyết trong các cơ quan
quốc tế như Liên Hiệp Quốc.
Đối
với các nước Á Châu, trong giai đoạn từ 1979 và sau chiến tranh biên giới với
Việt Nam, Trung Quốc tập trung mọi nỗ lực để theo đuổi Bốn Hiện Đại Hóa. Cuối
thập niên 1980, Đặng Tiểu Bình thực hiện chính sách hòa hoãn và quan hệ ngoại
giao tốt đối với các nước láng giềng Á Châu qua việc tái lập quan hệ ngoại giao
với hàng loạt quốc gia như Ấn Độ (1988), Mongolia (1989), Indenosia (1990),
Singapore (1990), Brunei (1991). Trung Quốc cũng tái lập quan hệ với Cộng Sản
Việt Nam năm 1991. Như vậy vào thời điểm 1991, Trung Quốc đã thiết lập quan hệ
ngoại giao với cả mười quốc gia thuộc khối ASEAN.
Về
mặt ngoài, Đặng Tiểu Bình chủ trương mở rộng quan hệ láng giềng tốt chỉ vì y
không muốn các quốc gia nhỏ cảm thấy bị đe dọa và kết thành một khối chung
quanh Mỹ như họ đã làm trước đây trong thời kỳ Chiến tranh lạnh giữa Mỹ và Liên
Xô, nhưng đối với từng quốc gia, Đặng Tiểu Bình áp dụng một chính sách riêng
biệt tùy thuộc vào điều kiện chính trị, thế mạnh thế yếu của quốc gia đó. Phía
sau của chính sách hòa hoãn, ổn định để phát triển, giới lãnh đạo CS Trung Quốc
luôn xem các nước nhỏ trong vùng thuộc vòng đai kiểm soát của họ. Trung Quốc
cũng dùng các nước Á Châu nhỏ như là hàng rào an ninh bao bọc lục địa Trung Hoa
và sẵn sàng dùng võ lực để bảo vệ vòng đai an ninh này như trường hợp đối với
Việt Nam từ 1974 đến nay.
Đặng
Tiểu Bình và quá trình xiển dương chủ nghĩa dân tộc cực đoan tại Trung Quốc
Giai đoạn đổi mới
1978:
Sau khi nắm toàn bộ quyền hành sau Hội Nghị Ban Chấp Hành Trung Ương Đảng Lần
vào tháng 12, 1978, Đặng Tiểu Bình vận dụng chủ nghĩa dân tộc để đẫy mạnh Bốn
Hiện Đại Hóa (Công Nghiệp, Nông Nghiệp, Quốc Phòng, và Khoa Học Kỹ Thuật). Từ
sau hội nghị Lư Sơn và rõ nhất là sau Hội Nghị Trung Ương Đảng tại Bắc Kinh
1961, quan điểm của Đặng Tiểu Bình gần giống với Lưu Thiếu Kỳ, dùng mọi cách để
nâng cao sản xuất bất chấp các nguyên tắc kinh tế xã hội chủ nghĩa tập trung.
Câu nói “Mèo đen hay mèo trắng không quan trọng miễn là nó bắt được chuột” của
Đặng Tiểu Bình thật ra chỉ lập lại một câu châm ngôn trong văn hóa Trung Quốc
nhưng phản ảnh không những về đường lối, chính sách hiện đại hóa mà cả quan
điểm của y về học thuyết Mác. Theo Bác sĩ Lý Chí Thỏa, bác sĩ riêng của Mao
Trạch Đông, giai đoạn kinh hoàng 1959 đến 1962, Đặng Tiểu Bình chủ trương
“không quan tâm mèo đen hay mèo trắng, công khai ủng hộ cho bất cứ chính sách
gì miễn là gia tăng sản xuất nông nghiệp”. Đặng Tiểu Bình nổi tiếng qua câu nói
lịch sử này nhưng cũng nhiều lần khổ sở vì nó. Cây gậy “mèo đen mèo trắng” được
phe Giang Thanh và Khang Sinh dùng để đánh họ Đặng trong Cách Mạng Văn Hóa khi
Mao còn sống, đã được cánh tả khuynh dùng để đánh y lần nữa sau khi Mao qua
đời.
Sau
cái chết của Mao, Đặng Tiểu Bình lần nữa đối đầu với một thử thách có tính
quyết định không chỉ sự nghiệp chính trị mà cả mạng sống. Y đã liên minh với
Hoa Quốc Phong và các lãnh đạo thuộc thế hệ già trong nội bộ đảng để chống lại
“Bè lũ bốn người” gồm Giang Thanh, Trương Xuân Kiều, Diêu Văn Nguyên và Vương
Hồng Văn. Họ Đặng đã thắng. Sau khi dẹp tan “Bè lũ bốn người”, cô lập Hoa Quốc
Phong, nhận sự ủng hộ trung thành của thành phần lãnh đạo mới lên như Hồ Diệu
Bang, Triệu Tử Dương, lôi kéo được nhóm lãnh đạo thời Vạn Lý Trường Chinh như
Diệp Kiếm Anh, Bành Chân, Lý Tiên Niệm, Uông Đông Hưng, Đặng Tiểu Bình không
còn đối thủ nào đủ tầm vóc, thâm niên đảng tịch và tài năng hơn y. Trong cương
vị Chủ tịch Quân Ủy Trung Ương, họ Đặng trong thực tế là lãnh tụ tối cao của
đảng Cộng Sản và nước Cộng Hòa Nhân Dân Trung Hoa.
Chiến dịch Mùa xuân
Bắc Kinh và Bức tường dân chủ: Đặng Tiểu Bình phát động chiến dịch Mùa
xuân Bắc Kinh trong đó cho phép hình thành một diễn đàn chưa bao giờ có trong
xã hội Cộng Sản: Bức tường dân chủ. Bức tường dân chủ là bức tường gạch ở phố
Tây Đơn, quận Tây Thành, Bắc Kinh. Đây là nơi để người dân nêu lên các ý kiến
có tính phản biện các chính sách của nhà nước. Nhiều bài thơ ca ngợi tự do dân
chủ cũng được dán lên đây. Chủ nghĩa dân tộc cực đoan được họ Đặng khơi dậy
trong giai đoạn này nhằm lôi kéo quần chúng về phía mình, thu hút sự tham gia
của các tầng lớp nhân dân gia tăng sản xuất, tấn công vào tầng lớp tả khuynh
bảo thủ đang cản trở các thay đổi kinh tế chính trị của y.
Bức
tường dân chủ của Đặng là con dao hai lưỡi. Những người góp ý kiến trong Bức
tường dân chủ không chỉ tấn công vào tàn dư của phe nhóm Giang Thanh hay tham
vọng tôn thờ cá nhân của Hoa Quốc Phong mà dần dần tiến đến việc phê bình các
chính sách của họ Đặng. Nhà vận động dân chủ Wei Jingsheng vào ngày 5 tháng 12
năm 1978 đã dán lên bức tường lời kêu gọi “Hiện đại hóa thứ năm” tức Dân Chủ
Hóa.
Ý
thức sự đe dọa của ngọn lửa dân chủ bắt đầu nhen nhúm trong dân chúng, Đặng
Tiểu Bình chỉ thị di chuyển Bức Tường Dân Chủ vào bên trong một công viên nhỏ,
và cuối cùng hủy bỏ. Dù sao, các ý kiến được dán lên Bức Tường Dân Chủ đã cho
thấy sự hiện diện của hai trường phái tư tưởng đối lập tại Trung Quốc: dân chủ
và độc tài, Mác và không Mác. Đây là nguồn gốc sâu xa dẫn tới phong trào Thiên
An Môn mười năm sau đó.
Mùa
xuân Bắc Kinh đã tàn nhưng hạt mầm dân chủ gieo trồng vào ý thức người dân
Trung Hoa, nhất là giới trẻ đã dần dần lớn lên. Các cuộc biểu tình của sinh
viên đã xuất hiện từ 1985, 1986 tại các thành phố lớn như Thượng Hải, Bắc Kinh
với các khẩu hiệu “Dân chủ muôn năm”, “Luật pháp chứ không phải độc tài lãnh
đạo”. Lễ tưởng niệm dành cho Hồ Diệu Bang, lãnh tụ CS có đầu óc đổi mới qua đời
ngày 15 tháng Tư, 1989 đã biến thành cuộc tuần hành đòi dân chủ lớn nhất trong
lịch sử Trung Quốc hiện đại. Sáng 22 tháng Tư, hàng trăm ngàn người thuộc nhiều
giới, trong đó có các đảng viên Cộng Sản trẻ, các nhóm Cộng Sản có khuynh hướng
cải cách tập trung để thương tiếc cựu tổng bí thư và phản đối chính sách trung
ương tập quyền của đảng, đòi hỏi các cải cách chính trị, kinh tế.
Dù
gây một tiếng vang lớn, phong trào Thiên An Môn của sinh viên Trung Quốc đã
không đạt được mục đích như đã đề ra trong tuyên bố bảy điểm và để lại cho các
phong trào dân chủ trẻ thế giới nói chung và tại các quốc gia Cộng Sản nói
riêng. Chế độ CS lần nữa sống sót sau trận bão dân chủ thổi qua Liên Xô và các
nước Đông Âu đầu thập niên 1990.
Những
cây cột chống đỡ chế độ Cộng Sản tại Trung Quốc hiện nay
Tiếp
tục củng cố tính chính danh của đảng CS: Đặng Tiểu Bình và các lãnh đạo CS tại
Trung Quốc biết rõ hơn ai hết, cây cột duy nhất có thể giữ chế độ CS khỏi sụp
đổ trước mắt là xây dựng tính chính danh lãnh đạo của đảng CS. Giáo sư Peter
Hays Gries, một chuyên gia về Trung Quốc, viết “Thiếu vắng tính hợp luật dựa
theo thủ tục để bầu ra các chính phủ theo các nguyên tắc dân chủ, và đối phó
với sự sụp đổ của hệ tư tưởng Cộng Sản, đảng Cộng Sản Trung Hoa gia tăng phụ
thuộc vào các tiêu chuẩn dân tộc để cai trị đất nước.”
Đặng Tiểu Bình bảo
vệ yếu tố chính danh:
“Hình ảnh một Trung Quốc hiện đại không phải được tạo ra bởi nhà Thanh hay bởi
các lãnh chúa quân phiệt, và cũng chẳng phải do Tưởng Giới Thạch hay con trai
của ông ta. Chính là do Cộng Hòa Nhân Dân Trung Hoa đã thay đổi hình ảnh của
Trung Quốc”. Khác với lý thuyết kinh điển CS trong đó giải thích các yếu tố
giai cấp là nguyên nhân của hình thành đảng CS và đấu tranh giai cấp, các quan
điểm CS ngày nay giải thích sự có ra đời của đảng CS Trung Quốc, trước hết phát
xuất từ lòng yêu nước. Giáo sư Liu Kang, Duke University, nhận xét rằng hiện
nay tại Trung Quốc, chủ nghĩa dân tộc trở thành một yếu tố chính danh mạnh mẽ.
Giới
lãnh đạo CS Trung Quốc tận dụng mọi cơ hội để tiêm nhiễm chủ nghĩa dân tộc cực
đoan vào nhận thức người dân. Trong các sách vở, tài liệu, kể cả trong đại lễ
kỷ niệm 60 năm thành lập Cộng Hòa Nhân Dân Trung Hoa hay trong lễ khai mạc Thế
Vận Hội, tinh thần Đại Hán được biểu dương đến mức cao nhất. Việc tổ chức vô
cùng rầm rộ Thế Vận Hội 2008 về mục đích cũng chỉ là một cách bắt chước dụng ý
của Hitler trong việc tổ chức Thế Vận Hội 1936 với cả hệ thống truyền hình và
truyền thanh đạt tới 41 quốc gia. Cả hai đều là cơ hội để chế độ độc tài củng
cố quyền lực và hợp thức hóa vai trò cai trị của họ.
Để
tập hợp toàn dân sau lưng đảng và hoán chuyển đối tượng đấu tranh của tuổi trẻ
sang mục tiêu khác hơn là cơ chế độc tài đảng trị, bộ máy tuyên truyền của đảng
CS luôn nhấn mạnh đến các “thế lực thù địch” đe dọa sự sống còn của Trung Quốc.
Bộ máy tuyên truyền cũng làm tất cả những gì cần thiết để “thế lực thù địch”
luôn hiện diện không chỉ trong suy nghĩ, nhận thức mà cả trong đời sống của
người dân.
“Thế
lực thù địch” là ai?
Trước hết là Mỹ. Đối với Mỹ, mặc dù giữa hai quốc gia có
một mối quan hệ kinh tế phụ thuộc vào nhau một cách phức tạp và sâu xa, Trung
Quốc, về đối nội, luôn vẽ một hình ảnh Mỹ đầy đe dọa trong nhận thức của nhân
dân Trung Hoa. Mỹ là thị trường lớn nhất cho hàng hóa Trung Quốc, tuy nhiên
trong thống kê do BBC thực hiện vào 2009, 58% dân Trung Quốc có cái nhìn tiêu
cực về Mỹ. Trong Sách Trắng Quốc Phòng Trung Quốc 2002 (China Defense White Paper
2002), Trung Quốc cho rằng việc tăng cường đồng minh giữa Mỹ với các nước đồng
minh Á Châu là “yếu tố của bất ổn” trong khu vực này.
Ngày
8 tháng Năm, 1999, một máy bay Mỹ ném bom lầm vào tòa đại sứ Trung Quốc tại
Belgrade làm thiệt mạng 3 nhân viên tòa đại sứ và bị thương một số người khác.
Biểu tình bùng nổ khắp Trung Quốc để tố cáo Mỹ “xâm phạm thô bạo chủ quyền
Trung Quốc”. Trên internet, các hacker tấn công trang web của tòa đại sứ Mỹ tại
Bắc Kinh và dán ngay trong trang đầu hàng chữ “Đả đảo bọn người dã man”. Tức
khắc sau tai nạn, chính phủ Mỹ làm tất cả những gì họ nghĩ ra để chứng tỏ sự
hối tiếc kể cả việc hạ cờ thấp nửa cột tại tòa đại sứ Mỹ ở Belgrade. Trung Quốc
cũng từ chối cho phép Đại Sứ Mỹ Sasser tham dự lễ tiễn đưa cũng như không cho
phép một phái đoàn cao cấp của chính phủ Mỹ đến tận Bắc Kinh để xin lỗi.
Giới
lãnh đạo Trung Quốc cố tình trì hoãn việc công bố lá thư xin lỗi của Tổng Thống
Clinton để nhân dân Trung Quốc có dịp trút căm thù lên “thế lực thù địch” đế
quốc Mỹ. Các trường đại học cung cấp xe bus để chở sinh viên đến bao vây tòa
đại sứ Mỹ. Tất cả mười ngàn tờ báo tại lục địa Trung Hoa đăng những bài bình
luận có tính khiêu khích lòng tự ái dân tộc và kết luận tai nạn làm chết ba
người Hoa tại Belgrade là “hành động cố ý”. Ba người chết trong tai nạn thâm
chí còn được là ba “thánh tử đạo”. Các báo đảng được tự do kết tội Mỹ. Vài tờ
báo so sánh hành động máy bay Mỹ ném bom lầm tàn ác không thua gì tội ác chiến
tranh do Đức Quốc Xã gây ra. Trang đầu của Nhân Dân Nhật Báo, cơ quan ngôn luận
chính thức của nhà nước Cộng Hòa Nhân Dân Trung Hoa, phân tích các điểm giống
nhau giữa việc Mỹ ném bom với cuộc tấn công của các đế quốc sau Loạn Quyền Phỉ
(Boxer Rebellion). Nhưng quá khích nhất là tờ Tuổi Trẻ Bắc Kinh với những bài
bình luận với nội dung khích động bầu máu nóng của thanh niên. Ban Tuyên Huấn
Trung Ương Đảng sau đó đã trao giải thưởng đặc biệt cho tờ báo này. Các phản
ứng mang tích kích động hận thù Mỹ cũng được thể hiện qua nhiều biến cố khác
như trường hợp máy bay thám thính U.S. EP-3 có thể bay lạc vào không phận Trung
Quốc vào tháng Tư 2001 chẳng hạn.
Thái độ quá khích
của giới lãnh đạo CS Trung Quốc phát xuất từ một lý do khác: nỗi sợ bị bao vây.
Từ thập niên 1990 đến nay, Trung Quốc luôn chống đối mọi sự liên minh theo dạng
“khối quân sự” ám chỉ sự liên kết giữa Mỹ và các nước Đông Á cũng như sự có mặt
của quân đội Mỹ tại Nhật Bản, Nam Hàn và mới đây tại Trung Á. Hiện nay, các
quốc gia Đông Á vẫn là đồng minh với Mỹ về mọi mặt, từ kinh tế chính trị và cả
quân sự. Do đó, mối lo lớn nhất của Trung Quốc là bị bao vây và thật sự nước
Cộng Sản này đang bị bao vây. Để đối phó lại các liên minh quân sự khối, Trung
Quốc cố gắng phát triển mối quan hệ đa phương với Nga và các quốc gia nhỏ khác
vùng Trung Á như Kazakhstan, Kyrgyzstan, Tajikistan, Uzbekistan qua Tổ Chức Hợp
Tác Thượng Hải (SCO), tuy nhiên tổ chức này chưa phải là đối lực của các khối
thân Mỹ. Tuy mặt ngoài thân thiện, các cơ quan truyền thông của đảng CS Trung
Quốc cho rằng Mỹ và các nước Tây Phương âm mưu làm cản trở đà tiến của Trung
Quốc. Một số lãnh đạo Trung Quốc còn tố cáo rằng Mỹ đang lừa Trung Quốc vào
cuộc Chiến Tranh Lạnh như Mỹ đã từng áp dụng với Liên Xô để cuối cùng dẫn đến
cả hệ thống Liên Xô tan rã.
“Thế lực thù địch” thứ hai là Nhật. Không thể và cũng
không ai phủ nhận chính sách hà khắc của các chế độ quân phiệt Nhật với Trung
Quốc và Triều Tiên. Những biến cố như vụ Tàn Sát Nam Kinh (Nanking Massacre)
hay còn gọi Hiếp Dâm Nam Kinh (Rape of Nanking) sau khi thành phố này rơi vào
tay Nhật trong chiến tranh Hoa Nhật lần thứ hai (1937 – 1945) đã được thế giới
biết qua nhiều sách vở, phim ảnh. Từ 1950 đến 2010, lãnh đạo các chính phủ Nhật
đã 52 lần xin lỗi về các tội ác do quân đội Nhật gây ra.
Thái
độ chống đối hay ngay cả thù ghét, căm hận Nhật trong tình cảm của nhân dân các
nước bị xâm lăng trước đây là một phản ứng tình cảm tự nhiên. Theo thống kê
2010, 24 phần trăm người dân Nam Hàn nghĩ rằng Nhật chưa bao giờ xin lỗi và 58
phần trăm tin rằng Nhật không xin lỗi một cách thành thật. Tuy nhiên, chánh phủ
Nam Hàn không trộn lẫn các tình cảm chống Nhật vào các chính sách kinh tế,
chính trị và bang giao quốc tế. Tại Trung Quốc thái độ chống Nhật là một loại
vũ khí tuyên truyền của đảng CS.
Giới
lãnh đạo CS Trung Quốc kiểm soát tuyệt đối không chỉ đời sống vật chất mà cả
đời sống tình cảm, tinh thần thương ghét của người dân. Quá nhiều phim ảnh,
sách báo tập trung vào một cuộc chiến đã chấm dứt 60 năm trước. Một đứa bé
Trung Quốc khi mới bắt đầu tập đọc sách đã được dạy căm thù Nhật Bản. Việc đi
thăm viếng và học hỏi tư liệu từ các viện bảo tàng tội ác Nhật là một phần
trong chương trình học của học sinh trung học. Phóng viên tạp chí Time đã phỏng
vấn một nữ sinh 15 tuổi sau khi em vừa viếng thăm Viện Bảo Tàng Chiến Tranh
Chống Nhật và em đã trả lời “Xem xong, em thù Nhật hơn bao giờ hết”.
Năm
2005, khi Nhật Bản vận động để trở thành hội viên thường trực của Hội Đồng An
Ninh Liên Hiệp Quốc, lãnh đạo CS Trung Quốc lại lần nữa xúi giục hàng vạn sinh
viên Trung Quốc xuống đường phản đối. Các thành phố lớn, sinh viên tấn công các
tòa lãnh sự, các cơ sở thương mại, siêu thị, nhà hàng Nhật kể các công ty hàng
hóa Nhật do người Hoa làm chủ. Giới lãnh đạo CS biết, tội ác của Nhật càng nặng
bao nhiêu thì vai trò cứu rỗi dân tộc của đảng CS Trung Quốc càng to lớn bấy
nhiêu. Hầu hết các nhà phân tích chính trị thế giới đều đồng ý việc tuyên
truyền công lao của đảng CS trong cuộc chiến tranh giải phóng dân tộc chỉ nhằm
biện hộ cho vai trò lãnh đạo lâu dài của đảng.
Chủ
nghĩa dân tộc cực đoan đe dọa sự sống còn của đảng CS
Chủ nghĩa Đại Hán là
con dao hai lưỡi:
Giáo sư Susan L. Shirk, nguyên Phụ tá Bộ Trưởng Ngoại Giao đặc trách Trung Quốc
nhận xét, trong lúc ảnh hưởng của Trung Quốc ngày càng mạnh trên trường quốc
tế, quốc gia này lại rất mong manh trong nội bộ. Sau biến cố Thiên An Môn, để
mua chuộc giới trung lưu có quyền lợi mâu thuẫn với đảng, giới lãnh đạo đảng CS
đã gia tăng tiền lương, nâng cao mức sống của giới này, cung cấp công ăn việc
làm trong hệ thống nhà nước, thu hút họ gia nhập đảng CS. Mức lợi tức bình quân
đầu người tại Thượng Hải vào khoảng 9000 đô la, cách quá xa so với các khu vực
ngoại ô nghèo nàn. Sự khác biệt giàu và nghèo, thành phố và thôn quê đang báo
hiệu một tai họa. Ngoài ra, như lịch sử đã chứng minh sự phát triển của giai
cấp trung lưu là nguồn thúc đẩy của cách mạnh dân chủ vì đó là giai cấp có học
thức, có phương tiện và có nhiều nhu cầu vật chất cũng như tinh thần cần được
thỏa mãn. Tại Trung Quốc, giới lãnh đạo đảng CS đến nay đang thành công trong
việc cầm chân giới trung lưu nhưng không thể nào giữ được lâu dài.
Đối
với các dân tộc thiểu số, chỉ riêng ba tháng đầu năm 2009, Trung Quốc đã có 50
ngàn vụ xung đột có tính bạo động lớn nhỏ giữa dân thiểu số và lãnh đạo CS tại
địa phương. Các cuộc nổi dậy chống chính sách Hán hóa tại 5 khu vực tự trị Tân
Cương (Xinjiang), Ninh Hạ (Ningxia), Nội Mông Cổ, Tây Tạng và Yining (thủ phủ
khu tự trị dân tộc Kazakh Ili) cũng như với 50 nhóm thiểu số khác khắp Trung
Quốc ngày càng gia tăng. Lợi thế của các dân tộc thiểu số tuy ít về dân số
nhưng sở hữu những vùng đất rộng mênh mông rất dễ gây khó khăn cho chính quyền
trung ương.
Cũng
trong tác phẩm Trung Quốc, siêu cường dễ vở (China Fragil Superpower), Giáo sư
Susan L. Shirk nhận xét giới lãnh đạo CS Trung Quốc luôn sống trong tình trạng
bất an khi nghĩ về ngày vĩnh biệt không thể tránh khỏi của chế độ CS tại lục
địa Trung Hoa. Chủ nghĩa dân tộc cực đoan phát triển đến một giai đoạn không
còn kiểm soát được đang trở thành mối đe dọa cho sự tồn tại của đảng CS và bộ
máy độc tài.
Chủ
nghĩa Đại Hán làm gia tăng bất hòa, thù địch với các nước láng giềng và sẽ đẩy
các nước nhỏ không có chọn lựa nào khác hơn là liên minh quân sự: Từ thập niên
1990 đến nay, Trung Quốc luôn chống đối mọi sự liên minh theo dạng “khối quân
sự” ám chỉ sự liên kết giữa Mỹ và các nước Đông Á cũng như sự có mặt của quân
đội Mỹ tại Nhật Bản, Nam Hàn và mới đây tại Trung Á. Phần lớn các quốc gia vùng
Đông Á vẫn là đồng minh với Mỹ về mọi mặt, từ kinh tế chính trị và cả quân sự.
Mối lo lớn nhất của Trung Quốc là bị bao vây và thật sự nước Cộng Sản này đang
bị bao vây. Để đối phó lại các liên minh quân sự khối, Trung Quốc cố gắng phát
triển mối quan hệ đa phương với Nga và các quốc gia nhỏ khác vùng Trung Á như
Kazakhstan, Kyrgyzstan, Tajikistan, Uzbekistan qua Tổ chức Hợp tác Thượng Hải
(SCO), tuy nhiên tổ chức này chưa phải là đối lực của các khối thân Mỹ. Tuy mặt
ngoài thân thiện, các cơ quan truyền thông của đảng CS Trung Quốc được chỉ thị
phải liên tục tố cáo Mỹ và các nước Tây Phương âm mưu làm cản trở đà tiến của
Trung Quốc. Một số lãnh đạo Trung Quốc còn nghĩ rằng Mỹ đang dẫn dắt Trung Quốc
vào cuộc Chiến Tranh Lạnh như Mỹ đã làm với Liên Xô để cuối cùng dẫn đến cả hệ
thống Liên Xô tan rã.
Chiếc mặt nạ chủ
nghĩa dân tộc sớm muộn sẽ rớt xuống: Trung Quốc mặt ngoài rất hung hăng, cứng
rắn, ăn hiếp láng giềng qua các đụng độ quân sự nhỏ nhưng rất sợ chiến tranh
quốc tế hay khu vực bởi vì như nhà ngoại giao kỳ cựu Ngô Kiến Dân cảnh cáo “Rất
nhiều người cho rằng cứ tiến hành chiến tranh để giành chiến thắng là ổn. Thực
ra không phải vậy, mà ngược lại, sẽ chỉ làm tình hình xung quanh Trung Quốc rơi
vào hỗn loạn.” Nhà ngoại giao Ngô Kiến Dân cũng so sánh giữa chủ nghĩa dân túy
của Hiter và chủ nghĩa dân tộc cực đoạn tại Trung Quốc hiện nay “Hitler có yêu
nước Đức không? Dĩ nhiên có, nhưng hắn theo chủ nghĩa dân túy. Thanh niên ngày
nay cần có tầm nhìn rộng mở, phải có trái tim bao dung thiên hạ. Thứ chủ nghĩa
dân túy, chủ nghĩa dân tộc cực đoan, chủ nghĩa yêu nước hẹp hòi là không thể
được. Một quốc gia chỉ biết cái lợi riêng mình thì sẽ mất hết bạn bè, sẽ bị cô
lập. Thời nay, cô lập là tai họa….Trong thời đại toàn cầu hóa, tin học hóa
khiến lợi ích các nước gắn kết chặt chẽ với nhau như hiện nay, đã đến lúc chúng
ta không thể đóng cửa lại để tuyên truyền thứ chủ nghĩa yêu nước hẹp hòi.”
Giới
lãnh đạo CS Trung Quốc không phải không ý thức hiểm họa đó, tuy nhiên, để kéo
dài sự sống, giới lãnh đạo CS Trung Quốc không có chọn lựa nào khác hơn là tiếp
tục giương cao ngọn cờ chủ nghĩa dân tộc và xoay xở bằng mọi cách để phát triển
kinh tế. Cả hai điều kiện đầu bất khả thi. Không một nền kinh tế nào có thể duy
trì được mức phát triển cao một cách liên tục và không sự thật nào được che
giấu mãi mãi. Sự phẫn nộ của dân chúng trước các suy thoái kinh tế xã hội sẽ
trút lên đầu đảng CS. Sắc dân Hán tuy đông nhưng sẽ không cứu được đảng CS.
Lịch sử đã chứng minh, không phải ngày nay sắc dân Hán mới chiếm đa số mà đã là
đa số trong nhiều ngàn năm trước nhưng vẫn bị các sắc dân nhỏ uy hiếp, tấn công
và ngay cả cai trị. Sự suy yếu bên trong và áp lực bên ngoài là những mối đe
dọa thường trực và trực tiếp cho quyền cai trị của đảng CS.
Bài
học Tiệp Khắc trước chủ nghĩa dân tộc cực đoan Đại Hán ngày nay
Chủ
trương bành trướng về phía Đông Âu của Hitler để làm bàn đạp chinh phục Âu châu
cũng không khác gì nhiều so với chủ trương bành trướng Đông Nam Á làm bàn đạp
chinh phục Á châu của giới lãnh đạo CS Trung Quốc hiện nay.
Sau
khi sáp nhập Áo không có một phản ứng mạnh nào từ phía các cường quốc Âu Châu,
Hitler đòi vùng Sudelenland trù phú với đa số dân nói tiếng Đức từ Tiệp Khắc.
Anh Pháp nhượng bộ. Hiệp ước Munich được ký kết bất chấp sự chống đối của chính
phủ Tiệp. Không lâu sau đó, Hitler chiếm luôn Tiệp Khắc. Tháng Chín 1939, Đức
tấn công Ba Lan. Anh và Pháp cam kết ủng hộ Ba Lan và tuyên chuyến với Đức. Thế
chiến thứ hai thật sự bùng nổ. Hậu quả, khoảng 60 triệu người trên thế giới đã
chết trong sáu năm kinh hoàng nhất trong lịch sử nhân loại.
Trường
hợp Tiệp Khắc là bài học lớn cho dân tộc Việt Nam và sẽ được phân tích trong
bài viết đầy đủ hơn sau này. Tuy nhiên một cách vắn tắt, lý do chính làm Tiệp
Khắc bị xóa tên trên bản đồ thế giới ngay cả trước khi Thế chiến thứ hai bùng
nổ, chưa hẳn vì Anh và Pháp đã bán đứng cho Hitler tại hội nghị Munich như
nhiều sử gia đồng ý. Chính sách nhân nhượng (appeasement policy) của các lãnh
đạo chủ hòa châu Âu đứng đầu là Thủ tướng Anh Neville Chamberlain chỉ là nguyên
nhân khách quan, nằm ngoài vòng kiểm soát chủ động của chính phủ và nhân dân
Tiệp. Tiệp Khắc rơi vào tay Hitler nhanh chóng chỉ vì Tiệp Khắc là một quốc gia
ô hợp, phân hóa, suy yếu, có nhiều chính khách làm tôi mọi ngoại bang và không
có quyết tâm bảo vệ chủ quyền đất nước. Hitler nhắm vào Tiệp Khắc vì y biết
Tiệp Khắc là một quốc gia nhưng không có nội lực của một dân tộc thống nhất.
Như
người xưa nhắn nhủ muốn thắng kẻ thù trước hết phải chiến thắng chính mình.
Trong phạm vi dân tộc cũng thế, trước khi thắng được ngoại xâm một dân tộc phải
biết vượt qua mọi bất đồng, biết hy sinh, biết đoàn kết thành một mối, và nếu
cần phải biết chết cho các thế hệ tương lai của dân tộc được sống còn.
_______________________________________
Tham
khảo:
–
Susan L. Shirk, China Fragil Superpower, Oxford University Press, 2007.
– Center for Strategic and International Studies and the Peter G. Peterson Institute for International Economics, China: The Balance Sheet, Public Affairs 2007
– Wenfang Tang and Gaochao He, Separate but Loyal: Ethnicity and Nationalism in China, East-West Center 2010, Hawaii University 2010.
– Roderick MacFarquhar, Michael Schoenhals, Mao’s Last Revolution, Cambridge, MA, Belknap Press of Harvard University 2010.
– The Democracy Wall Movement and the Variations of Socialist Democracy, Department of Contemporary History. The 7th Biennial Nordic Conference on Chinese Studies, Helsinki 7-9 June 2005
– Jayshree Bajoria, Nationalism in China, Council on Foreign Relations, April 23, 2008
– Wei Jingsheng: China’s Spirit of Democracy
– Tiananmen Square, 1989.The Declassified History
– Robert Kagan, The End of History, The New Republic, April 23, 2008
– Joshua Kurlantzick, Nonstop party, The surprising persistence of Chinese communism, Boston Globe, November 22, 2009.
– Maria Hsia Chang, Thoughts of Deng Xiaoping, The Regents of the University of California 1996
– Peter Hitchens, How China has created a new slave empire in Africa, Mail, 28th September 2008
– Trần Trung Đạo, Từ Olympic đến Darfur, đế quốc đỏ trên lục địa đen, Talawas, 19th August 2008
– Matthew Forney, Why China Loves to Hate Japan, Time, Dec 10 2005
– Austin Ramzy, Bao Tong on Deng Xiaoping, ON THE WEB, 30 December 2008
– Ngô Kiến Dân, Vũ lực không giải quyết được tranh chấp ở Biển Đông, Tiền Phong, 15/07/2012
– Robert L. Worden, Andrea Matles Savada and Ronald E. Dolan, China: A Country Study. Washington: GPO for the Library of Congress, 1987
– Center for Strategic and International Studies and the Peter G. Peterson Institute for International Economics, China: The Balance Sheet, Public Affairs 2007
– Wenfang Tang and Gaochao He, Separate but Loyal: Ethnicity and Nationalism in China, East-West Center 2010, Hawaii University 2010.
– Roderick MacFarquhar, Michael Schoenhals, Mao’s Last Revolution, Cambridge, MA, Belknap Press of Harvard University 2010.
– The Democracy Wall Movement and the Variations of Socialist Democracy, Department of Contemporary History. The 7th Biennial Nordic Conference on Chinese Studies, Helsinki 7-9 June 2005
– Jayshree Bajoria, Nationalism in China, Council on Foreign Relations, April 23, 2008
– Wei Jingsheng: China’s Spirit of Democracy
– Tiananmen Square, 1989.The Declassified History
– Robert Kagan, The End of History, The New Republic, April 23, 2008
– Joshua Kurlantzick, Nonstop party, The surprising persistence of Chinese communism, Boston Globe, November 22, 2009.
– Maria Hsia Chang, Thoughts of Deng Xiaoping, The Regents of the University of California 1996
– Peter Hitchens, How China has created a new slave empire in Africa, Mail, 28th September 2008
– Trần Trung Đạo, Từ Olympic đến Darfur, đế quốc đỏ trên lục địa đen, Talawas, 19th August 2008
– Matthew Forney, Why China Loves to Hate Japan, Time, Dec 10 2005
– Austin Ramzy, Bao Tong on Deng Xiaoping, ON THE WEB, 30 December 2008
– Ngô Kiến Dân, Vũ lực không giải quyết được tranh chấp ở Biển Đông, Tiền Phong, 15/07/2012
– Robert L. Worden, Andrea Matles Savada and Ronald E. Dolan, China: A Country Study. Washington: GPO for the Library of Congress, 1987
------------------------------------------------
August 15, 2012 9:29 PM
No comments:
Post a Comment