01:28:am 17/08/12
Trong
“Lời nói đầu” cuốn chính luận “Suy tư và
Ước vọng” xuất bản ở nước ngoài cách đây hơn chục năm tôi đã viết:
“…
Dẫu rằng, vì những dòng Suy tư này mà tôi từng chịu bao nhiêu lao lung, khổ ải,
tôi vẫn không thể quên lời nhà chí sỹ Phan Bội Châu:
Sinh
vi nam tử yếu hy kỳ
Khẳng
hứa càn khôn tự chuyển di!
Ư
bách niên trung tu hữu ngã
Khởi
thiên tải hậu cánh vô thùy
(Đã
sinh ra làm trai thì cũng phải khác đời
Lẽ
để trời đất muốn xoay vần tới đâu thì tới
Trong
khoảng trăm năm đã có ta (thì ta phải gánh vác lấy công việc)
Còn
như chuyện ngàn năm sau thì có người sắp tới) .
…
Tôi vẫn Suy tư để tồn tại, để được Ước vọng cùng Nhân dân tôi, Đất nước tôi”.
Không
thể nói tôi không kiên trì, không nhẫn nại nhưng, cho đến nay hầu như Suy tư
của tôi chẳng đi đến đâu và Ước vọng hầu như chẳng còn gì. Chỉ còn lại “Mối sầu
như tóc bạc/Cứ cắt lại dài ra!”.
Vui
sao, bỗng nhiên tôi gặp một người đồng hành, một “Phượng hoàng sơ sinh” khi tôi
đã là “Lão ô bách tuế”. Huỳnh Thục Vy cùng
tuổi Tý với tôi nhưng sinh sau tôi non nửa thế kỷ (chính xác là 4 giáp = 48
năm).
Vy
có tuổi thơ cũng gian nan khốn khó như tôi.
Vy:
7 tuổi mồ côi mẹ, 9 tuổi cha đi tù, phải đi làm công nhân kiếm sống, không được
học đại học chính quy mà phải học đại học từ xa song vẫn là một cử nhân luật cừ
khôi, có trình độ tiếng Anh trội hơn hẳn đa số cử nhân luật chính quy. Hiện nay
Vy phải đi dạy tiếng Anh chứ không được hành nghề luật sư.
Tôi:
10 tuổi phải ngồi bán nước vối ở đầu chợ phủ Thọ Xuân, Thanh Hóa; khi gặp lại
cha, chỉ được đi học hơn một học kỳ nhưng đã đỗ Primaire năm 1947, lúc 11 tuổi,
(thuở ấy nếu 6 tuổi vào lớp 6 thì phải học 7 năm gồm các lớp: 6, 5, 4 3, nhì đệ
nhất, nhì đệ nhị và lớp nhất, mới được vào thi Primaire bằng tiếng Pháp); vậy
mà, mãi đến năm 44 tuổi mới được bảo vệ luận án tiến sỹ vì … lý lịch gia đình!
Đại
học từ xa cũng giống đại học tại chức. Người ta thường bảo “Dốt như chuyên tu,
ngu như tại chức”, nhưng chỉ qua những gì đọc được đã làm tôi thán phục sự uyên
thâm, uyên bác của vị cử nhân không chính quy này. Đội ngũ luật sư danh giá với
những Trần Lâm, Lê Chí Quang, Nguyễn văn Đài, Lê thị Công Nhân, Trần Quốc Hiền,
Lê Trần Luật, Lê Công Định, Lê Quốc Quân, Cù Huy Hà Vũ, Phan Thanh Hải, Tạ
Phong Tần, Huỳnh Thục Vy … làm cho hàng ngũ những người đấu tranh cho sự nghiệp
dân chủ hoá ở Việt Nam trở nên sáng giá không chỉ bởi đức dấn thân mà còn bởi
chất trí tuệ.
Tôi cũng ý thức như
Huỳnh Thục Vy:
“Tôi
cho rằng một người đấu tranh cho dân chủ ít nhất phải biết dân chủ có điều
kiện, mục đích và đặc trưng nào. Phải có hiểu biết nhất định về một vấn đề ta
mới có thể nhiệt thành mà dấn thân vì nó. Không phải bất cứ ai phản kháng với
chính quyền độc tài đều là những người có khả năng kiến lập nền dân chủ. Vậy
muốn thành công trong công cuộc xây dựng dân chủ chúng ta phải là những người
tôn trọng và đấu tranh cho cái mà tôi gọi là “những giá trị thật” chứ không
phải là những giá trị được thổi phồng bởi số đông” (1).
Bởi
vì “Như tất cả chúng ta có thể thấy, trong lịch sử nhân loại cũng như trong các
sự kiện thế giới gần đây, việc loại bỏ một nền độc tài luôn tương đối dễ dàng
hơn và cần ít những phẩm chất tích cực của những người đấu tranh cũng như người
dân sở tại hơn việc xây dựng một thể chế mới tốt đẹp. Một cách tương đối, có thể
nói rằng nếu việc loại bỏ một thể chế phản động chỉ cần hội đủ những điều kiện
dường như tiêu cực hơn như: suy thoái hay sụp đổ nền kinh tế, lòng dân phẫn uất
cùng cực, tình hình thế giới biến động, chiến tranh…; thì việc xây dựng nền tự
do luôn đòi hỏi ở chúng ta những điều kiện tích cực hơn nhiều: hiểu biết và
niềm khao khát tự do, sự thắng thế của văn hóa dân chủ, sự lớn mạnh của các
định chế dân sự…Nếu sự ra đi của một chế độ độc tài là một biến cố, thì việc
xây dựng nền dân chủ là cả một quá trình liên tục và không có điểm dừng. Một sự
nghiệp to lớn như thế cần ở chúng ta- những người đang đấu tranh sự nghiêm túc
trong cả suy nghĩ và hành động. Không có tòa nhà to đẹp nào được xây dựng bởi
những kẻ lười biếng học hỏi, chểnh mảng và thiếu chín chắn (1).
Huỳnh Thục Vy không chỉ là người phản kháng với chính
quyền độc tài mà là nhà bất đồng chính kiến có chính kiến rõ rệt.
Hãy nghe HTV bàn về
đặc trưng của Xã hội Dân chủ:
“Tuy
nhắc đến những giá trị dân chủ tự do, chúng ta không trực tiếp đưa ra những tuyên
ngôn cho tinh thần đạo đức nhưng kỳ thực chúng ta đang cổ vũ cho một xã hội nơi
đạo đức được trọng vọng. Thật lạ đời rằng trong một chế độ dân chủ tự do, nơi
người ta không chính thức đưa đạo đức lên như một giá trị của thể chế, nơi
người ta chỉ dành nhiều thời gian và công sức để đề cao và bảo vệ nền pháp trị
thì đạo đức lại được phát huy. Bởi xét cho cùng những giá trị như công bằng, tự
do, tự thân chúng lại là một vấn đề đạo đức. Không có kẻ vô đạo đức nào yêu
chuộng công bằng, tự do. Bởi vậy, không ngoa chút nào khi ta nói xã hội dân chủ
được đặc trưng bởi đạo đức (2).
Xã
hội dân chủ được đặc trưng bởi đạo đức. Những người đấu tranh cho dân chủ càng
cần phải có đạo đức. Thật xấu hổ khi thấy nhiều “nhà dân chủ” xỉa xói nhau bằng
lời lẽ rất thiếu văn hóa. Càng đau lòng hơn khi không biết vì lý do gì mà họ sử
dụng cả những thủ đoạn bịa đặt, xuyên tạc, vu khống … để bôi bẩn, phỉ báng,
triệt hạ nhau!
Từ bình diện đạo đức
HTV lý giải khả năng chuyển hóa của Miến Điện so với Việt Nam:
“Ở Miến Điện, văn
hóa, đạo đức và tôn giáo vẫn giữ được giá trị nội tại, đời sống văn hóa tinh
thần của người dân vẫn nhân văn và thuần phác. Một nền luân lý Phật giáo đúng
nghĩa đứng ở vị trí trung tâm trong đời sống tinh thần của họ. Như những nhà
báo quốc tế ghi nhận thì, người dân Miến tuy sống nghèo khổ nhưng rất hiền
lành, đa số họ thiền định mỗi ngày. Nghèo khổ và lạc hậu ở họ không đồng nghĩa
với sự hèn nhát và sự xuống dốc về văn hóa và đạo đức. Chính vì giữ được sức
mạnh tinh thần ấy, chính vì đứng trên cái trụ văn hóa nhân bản, trong đói khổ,
đàn áp và sợ hãi, người dân Miến không ngừng phản kháng, đòi tự do, dân chủ.
Trái lại, dưới chế
độ cộng sản Việt Nam, văn hóa, đạo đức và các truyền thống tôn giáo tốt đẹp đã
gần như bị hủy hoại tận gốc rễ. Một xã hội hiện đại nửa mùa, một nền văn hóa
mới theo kiểu Tây phương chưa xây dựng được (mà chỉ bắt chước người ta những
thói xấu), còn cội nguồn văn hóa truyền thống thì đã biến thái thành những thứ
quái dị. Những nhân đức hiền lành, chất phác, lòng yêu nước thiết tha biến thành
những mánh mung, lừa đảo, vị kỷ. Một tôn giáo truyền thống từng góp phần to lớn
xây dựng nên khí chất Việt Nam, bây giờ đã trở thành một thứ mê tín dị đoan. Đã
mấy mươi năm sống dưới một chế độ độc tài hủy diệt văn hóa, bóp méo ý chí lành
mạnh và làm thui chột năng lực tinh thần thì lúc đói khổ chúng ta chỉ lo miếng
cơm, lúc sung túc chúng ta chỉ lo hưởng thụ. Mất cái gốc tinh thần (văn hóa,
luân lý) chúng ta đang lâm vào một cuộc khủng hoảng nghiêm trọng về ý chí và
nhân cách. Cái gốc của mọi hành động là tinh thần, ý chí yếu đuối, tinh thần
bạc nhược, thì chẳng thể làm những việc lớn lao (nếu không có những điều kiện
đột biến làm đòn bẩy)
(3).
Ở một khía cạnh khác
HTV lý giải về phẩm chất của chính quyền:
“Ở
mức độ nghiêm trọng hơn, các chế độ độc tài được hình thành từ những vụ “cướp
chính quyền” như kiểu cách mà những người Cộng sản Việt Nam đã làm để lên nắm
quyền, càng không nhìn nhận vai trò của sự trao quyền này bởi cái tâm thức
rằng: chính quyền là do họ cướp được chứ không phải do người dân giao phó cho.
Có thể đối với những kẻ độc tài dạng này, sự trao quyền trọng đại trong các chế
độ dân chủ chỉ mang lại cho họ một cảm quan hài hước, thậm chí là đáng khinh
bỉ. Ở đây, quyền lực chính trị chỉ như một hòn ngọc mà họ đã cướp được sau cuộc
hạ sát kẻ sở hữu trước đây của nó” (4).
“Vì
thế khi đã nắm được quyền lực trong tay, những kẻ chuyên quyền sẽ sử dụng quyền
lực và các nguồn lực Quốc gia như thứ tài sản riêng, bất chấp lợi ích của đại
đa số người dân và vận mệnh của cả dân tộc. Chúng ta đang ở Việt Nam và có đủ
cơ hội để trải nghiệm điều này” (4).
… Và về giới trung
lưu:
“….
Giới trung lưu và cả lớp người có triển vọng bước vào giới trung lưu là những
người có học thức và tài sản đã hình thành, lớn mạnh chính nhờ xuất thân gia
đình có liên quan đến chế độ hoặc nhờ sự nương tựa vào giới cầm quyền cộng sản.
Lớp người này theo sự phát triển của nền kinh tế, giáo dục- xã hội trong hai
thập niên qua đang ngày càng gia tăng. Cuộc sống hiện tại và triển vọng tương
lai của họ nương theo sự phát triển và “ổn định” của cái thể chế độc tài hiện
tại. Vì thế khó tìm được lý do thích đáng và đủ mạnh để họ từ bỏ quyền lợi kinh
tế mà dấn thân đòi hỏi tự do chính trị. Đây là kiểu hình thành tầng lớp trung
lưu chỉ có ở Việt Nam và Trung Quốc – nơi mà một nền kinh tế dần được cởi mở
kết hợp với nền chính trị độc tài, trái ngược hẳn với ví dụ trên về nước Anh.
Nền kinh tế còn tiếp tục phát triển, người ta còn tiếp tục im lặng và do đó chế
độ độc tài còn có thể trông cậy vào sự hợp tác của họ để tiếp tục nắm quyền. Nhiều
chuyên gia trên thế giới vào cuối thế kỷ trước đã hi vọng rằng những cải cách
kinh tế sẽ dẫn dắt thay đổi chính trị ở Trung Quốc và Việt Nam. Nhưng chúng ta
đang nhận được một kết quả ngược lại. Bởi vì, bản chất của giới trung lưu tư
bản xuất hiện trong lòng chế độ phong kiến phương Tây khác hẳn giới trung lưu
được sinh ra từ “nền kinh tế thị trường theo định hướng xã hội chủ nghĩa”
(5).
Cũng từ bình diện
đạo đức, HTV ca ngợi sự nghiệp “can thiệp nội bộ” của Hoa Kỳ và các nước Phương
Tây để giải phóng người dân khỏi các chế độ độc tái:
“…
ngày 19 tháng 3 vừa qua, Liên quân dưới sự lãnh đạo của Hoa Kỳ đã tấn công
chế độ độc tài Gaddafi giải cứu dân quân nổi dậy ở Libya đang đứng trước nguy
cơ một cuộc thảm sát. Vậy là sau những hoài nghi và thất vọng, chúng ta đã có
thể khẳng định nhân loại trong thế kỷ 21 này thực sự văn minh, thực sự đã sống
và hành xử với nhau trong tinh thần trách nhiệm quốc tế, trong giá trị nhân bản
đề cao con người. Sự can thiệp của cộng đồng quốc tế vào Libya đánh dấu một kỷ
nguyên mới của nhân loại-kỷ nguyên của lương tri và trách nhiệm. Cộng đồng Thế
giới, nhất là Hoa Kỳ và các nước phương Tây đã can đảm vượt qua sự ù lì, vô cảm
vì quyền lợi quốc gia. Họ đã đại diện cho Thế giới văn minh đi tiên phong trong
việc bảo vệ công lý, bảo vệ nhân loại khỏi sự đàn áp của các chế độ độc tài.
Lịch sử của nhân loại sẽ ghi nhận nghĩa cử cao đẹp này của họ như một đóng góp
lớn trong việc bảo vệ Hòa bình,Tự do và Dân chủ cho cả Thế giới” (6).
Rồi, bằng lý lẽ
thuyết phục HTV đã biện minh cho những khuyết tật thuộc về nhân loại của xã hội
Hoa Kỳ:
“Các
nhà lãnh đạo và giới tư bản Hoa Kỳ không hề câu kết nhau tước đoạt quyền tư
hữu, không sung công tài sản của người dân Mỹ, không lấy hết đất đai, trâu bò
của họ để thành lập hợp tác xã trá hình, không lấy hết ruộng vườn của họ rồi
đền bù với giá rẻ mạt, không gom tất cả tài sản quốc gia lại để ăn chia nhau.
Vì hệ thống chính trị dân chủ, pháp trị không cho họ cái quyền làm như thế. Cái
lỗi của họ là cái lỗi chung của nhân loại – đó là sự tham lam. Họ tham lam, họ
dùng tiền để tác động tới chính quyền nhằm trục lợi làm cho kinh tế khủng hoảng
và làm cho đời sống người dân trở nên khó khăn. Phản đối sự tham lam của giới
tài phiệt và sự hoạt động kém hiểu quả, cũng như thái độ không chú trọng quyền
lợi người dân thường của chính phú là một động thái cần thiết. Nhưng người ta
nên phản kháng với nhận thức rằng bất cứ định chế chính trị hay kinh tế nào của
nhân loại cũng tồn tại khiếm khuyết và có xu hướng tha hóa. Chúng ta không thể
có được cái
hoàn hảo nhưng chúng ta có thể có được một cơ chế khắc phục sai lầm hiệu quả”
(7).
Và, những biện minh
mang tầm triết lý sau đây của HTV hẳn đủ khả năng đánh bại những luận điểm
tuyên truyền lập lờ đánh lộn trắng đen:
“Mùa
Xuân Ả Rập” là động thái giết chết một con bệnh ung thư, còn “Chiếm phố Wall”
là cách người ta cảnh báo và chữa trị cho một người mắc bệnh thông thường. Cũng
cần phải nhận thức rõ rằng trên thế giới này không có kẻ không có bệnh mà chỉ
có những kẻ hết thuốc chữa. Thật vậy, con người trở nên cao quý không phải vì
anh ta hoàn hảo mà vì anh ta biết đổi mới và đứng lên mạnh mẽ hơn từ những sai
lầm. Và để tránh những ngụy biện không cần thiết cho điều này ở những trường
hợp khác, tôi muốn nói thêm rằng: Có một sự khác biệt cơ bản giữa sự thối nát
hệ thống và sự sai lầm cục bộ (7).
Chào
đời sau năm 1975, được hưởng hòa binh, được hun đúc trong hệ thống giáo dục
XHCN, được khống chế bới cả một hệ thống tuyên truyền đồ sộ với trên 700 tờ
báo, nhẽ ra nếu không thực lòng biết ơn Đảng thì HTV cũng không thể nào không
thần phục công trạng của Đảng, nhưng, tự
chiêm nghiệm thực tế khách quan, HTV đã có nhận thức riêng không dễ gì bác bỏ:
“……“sự
nghiệp giải phóng miền Nam và thống nhất đất nước” đã không khiến Việt Nam trở
nên hùng mạnh hơn, dân tộc ta trở nên kiêu hãnh hơn; mà đơn giản chỉ là biến
một miền Nam trước “giải phóng” hơn hẳn Hàn Quốc, sau gần bốn mươi năm thống
nhất, cùng với cả nước lẹt đẹt chạy theo sau cả Thái Lan. Nếu ta lấy cứu cánh
là sự phồn thịnh của quốc gia, là an sinh hạnh phúc, là tự do nhân phẩm của mỗi
một người dân làm chuẩn thì liệu sự thống nhất ấy có nghĩa lý gì?” (8)
“Đó
là khi vấn đề được đặt dưới lăng kính lý luận. Còn thực tế thì mọi sự đã quá rõ
ràng. Cái mà người ta gọi là “kháng chiến chống Mỹ cứu nước” ấy thực chất chỉ
là để giúp Trung Quốc “đánh Mỹ đến người Việt Nam cuối cùng”. Hay như Lê Duẩn
từng nói: “ta đánh Mỹ là đánh cho Liên Xô, đánh cho Trung Quốc, cho các nước
XHCN, cho cả nhân loại”. Nói cho rõ ra, đó là cuộc chiến giúp cho chủ nghĩa
Cộng sản bành trướng xuống Đông Nam Á theo tinh thần Quốc tế Cộng sản bất chấp
tinh thần dân tộc, là giúp cho Trung Cộng dễ dàng Hán hoá một Việt Nam suy yếu
sau cuộc chiến tương tàn khốc liệt” (8).
“Đã
ba mươi bảy năm trôi qua kể từ ngày “giải phóng”, giải phóng miền Nam khỏi mối
quan hệ đồng minh với Mỹ để trở thành chư hầu hèn mọn của Trung Cộng” (8).
Trở thành chư hầu
hèn mọn thông qua Tuyên bố của ông Nguyễn Phú Trọng giao kết xả thân vì “tầm
cao chiến lược” của ông Hồ Cẩm Đào; trở thành chư hầu hèn mọn thông qua tiếng
xưng hô “Đồng chí”:
“Dễ
gì gọi nhau bằng hai tiếng “Đồng chí”! “Đồng chí là những người có cùng giá
trị, quyền lợi, lý tưởng, mục tiêu, hoài bão…..Phải chăng những người Cộng sản
Việt Nam có cùng lý tưởng, mục tiêu, hoài bão, chia sẻ cùng một quyền lợi, giá
trị với Trung Cộng?!
Nguyên
nhân duy nhất và khả dĩ nhất để một Nhà nước tồn tại là để quản lý, phát triển
xã hội, bảo vệ quyền lợi đất nước và người dân, phát huy các giá trị của dân
tộc…. Nếu chính quyền cộng sản Việt Nam không cùng chia sẻ quyền lợi và giá trị
với dân tộc Việt Nam mà chia sẻ quyền lợi với ngoại bang thì có lý do nào để họ
tiếp tục tồn tại?!”
(9)
Trên cơ sở nhận thức
rằng “chính quyền cộng sản Việt Nam không cùng chia sẻ quyền lợi và giá trị với
dân tộc Việt Nam mà chia sẻ quyền lợi với ngoại bang” HTV trở nên thật sự quyết
liệt:
“Những
nhà đấu tranh cho dân chủ Việt Nam trong và ngoài nước hiện nay đang cổ vũ cho
phương pháp đấu tranh bất bạo động. Phải công nhận rằng đây là một phương pháp
đấu tranh nhân bản. Ngày trước, Marx đã cổ vũ cho “bạo lực cách mạng” trong
những thể chế mà ta có thể đạt được sự thay đổi và giải quyết mâu thuẫn xã hội
một cách ôn hòa bằng đấu tranh bất bạo động thông qua các tổ chức dân sự hoặc
các phong trào quần chúng. Đó chính là một sai lầm to lớn của ông. Ngày nay,
người dân Việt Nam đang sống dưới một chế độ độc tài, không có xã hội dân sự
theo đúng nghĩa, thì chúng ta lại cổ súy cho đấu tranh bất bạo động (tôi không
muốn nói chúng ta phải đấu tranh bạo động) thì tôi cảm thấy ở đây rõ ràng có
một trục trặc rất lớn”
(10).
Đọc những dòng này, tôi cũng sững sờ như đọc câu thơ mới
đây của Trần Khải Thanh Thủy: “Không đổ máu đâu còn là Tổ quốc”.
Mới ngày nào HTV
“dịu dàng” thế này kia mà:
“Những
ai có lương tâm và trách nhiệm đối với đất nước thì đều mong muốn cuộc cách
mạng Hoa Lài tại Việt Nam sẽ diễn ra một cách ôn hòa và triệt để, sẽ không có
máu của bất cứ ai phải đổ xuống trong những giờ phút hấp hối của chế độ, để xã
hội Việt Nam không phải bị tàn phá, lòng người dân Việt Nam không phải bị tổn
thương, để con cháu chúng ta thanh thản và trong sáng, vui vẻ sống bên nhau như
những người bạn, những người đồng bào ruột thịt. Không ai muốn tội ác làm hoen
ô thế hệ trẻ Việt Nam. Đất nước Việt Nam đang âm thầm kiên nhẫn tích trụ năng
lượng cho một mùa hoa nở rộ…giống như cây mai đang tích tụ những dòng nhựa
sống, những dinh dưỡng cần thiết trong cả một năm để chờ đến mùa xuân, dâng cho
đời những đóa hoa thơm ngát và rực rỡ” (11).
Tôi nhớ nhà báo Lê
Diễn Đức đã từng nhận xét Huỳnh Thục Vy là “một cô gái trẻ mà hiểu biết
rộng, thông minh, có nhân cách trong sáng, can đảm, mãnh liệt nhưng rất ôn hoà
trong các bài viết xuất sắc về các giá trị dân chủ, quyền công dân hay xã hội
dân sự, được sự mến mộ và cảm phục của đông đảo người Việt trên khắp thế giới…
” (12)
Nhưng,
phải chăng vì bọn giặc phương bắc không chỉ như ký sinh trùng xâm nhập nhan
nhản trong lục phủ ngũ tạng ta mà đã ngang nhiên cướp đảo, cướp biển của ta rồi
nên những suy tư cho tổ quốc của cô gái trẻ xinh đẹp này đã bừng bừng cháy lên.
Và, tôi càng thêm quý mến, trân trọng.
Tôi
mong độc giả chuyển giúp bài viết này đến các nhà lãnh đạo và lưu ý họ đọc,
nhằm: (1) Cải tạo nhận thức cho họ; (2) Nhắc họ chớ nên giở trò tàn bạo với
những con người xuất chúng như thế này bởi vì chính kiến của người ta, tư tưởng
của người ta chắc chắn đã được quảng đại tiếp nhận, được khắc vào lịch sử.
Những phiên tòa quấy quá, những bản án lếu láo chỉ như bàn tay quều quào trước
mặt trời. Những hôn quân hôn muội sẽ bị nhân dân nguyền rủa trong khi chính
những người như cô gái xứ Quảng này sẽ càng được tôn vinh.
Hà
Nội 16 tháng 8 năm 2012
©
Nguyễn Thanh Giang
©
Đàn Chim Việt
————————————————————–
Ghi
chú:
Các trích dẫn trong
bài lấy từ Blog Huỳnh Thục Vy
PHẢN HỒI :
Võ Hưng Thanh
says:
TINH HOA VÀ GIAI CẤP
Khi
nhà chí sĩ cách mạng đồng thời cũng là nhà thơ Phan Bội Châu viết : “Sinh vi
nam tử yếu hy kỳ /
Khẳng hứa càn khôn tự chuyển di / Ư bách niên trung tu hữu ngã / Khởi thiên tải hậu cánh vô thùy”
(Sinh làm trai phải có gì khác lạ / Trời đất kia chuyển vận cũng thường tình / Cuộc trăm năm ta ra đời là vậy / Ngoài trăm năm việc ấy thuộc về người).
Cái khẩu khí ở đây của Phan Bội Châu, ngoài khẩu khí như một nhà thơ, còn là khẩu khí mang tính tư duy của nhà tư tưởng. Ông Phan là nhà quốc có tinh thần Nho giáo, song tính cách của ông là tính cách độc lập, yêu mà không lậm, chuộng mà không mù quáng, ý thức luôn luôn tự do, độc lập, ý chí và tài năng vượt xa hơn những người thường tình. Phan Bội Châu đúng là một tinh hoa của đất nước, dân tộc. Thời đó không những chỉ có Phan Bội Châu, mà cả Phan Chu Trinh cũng vậy. Trong bài thơ Đập đá Côn Lôn, nhà chí sĩ ái quốc, đồng thời cũng là nhà thơ Phan Chu Trinh viết : “Làm trai đứng giữa đất Côn Lôn / Lừng lẫy làm cho ngã núi non / Xách búa đánh tan năm bảy đống / Dang tay đập bễ mấy trăm hòn / Tháng ngày bao quản công sành sõi / Mưa nắng chi sờn dạ sắt son / Những kẻ vá trời khi lở bước / Gian nan nào há sự con con”. Chí làm trai của Phan Chu Trinh quả chẳng khác gì chí làm trai của Phan Bội Châu hay chí làm trai của Nguyễn Công Trứ, Cao Bá Quát … toàn là những danh sĩ đất Việt mà ai cũng biết. Họ thường là những nhà thơ, những người có chí, có khí, những người có tâm, có tầm lớn lao, khác đời, nên đúng họ đều là những thành phần tinh túy, những yếu tố tinh hoa, những nhân sự chọn lọc đặc biệt của cả một dân tộc. Cái khẩu khí của họ không hề là ý nghĩa khẩu khí cá nhân thấp kém, riêng tư, tầm thường, mà là khẩu khí của con người có ý nguyện vì đời, có mục đích vì dân, vì nước, vì giang sơn xã tắc, vì nhân quần, xã hội thật sự.
Khẳng hứa càn khôn tự chuyển di / Ư bách niên trung tu hữu ngã / Khởi thiên tải hậu cánh vô thùy”
(Sinh làm trai phải có gì khác lạ / Trời đất kia chuyển vận cũng thường tình / Cuộc trăm năm ta ra đời là vậy / Ngoài trăm năm việc ấy thuộc về người).
Cái khẩu khí ở đây của Phan Bội Châu, ngoài khẩu khí như một nhà thơ, còn là khẩu khí mang tính tư duy của nhà tư tưởng. Ông Phan là nhà quốc có tinh thần Nho giáo, song tính cách của ông là tính cách độc lập, yêu mà không lậm, chuộng mà không mù quáng, ý thức luôn luôn tự do, độc lập, ý chí và tài năng vượt xa hơn những người thường tình. Phan Bội Châu đúng là một tinh hoa của đất nước, dân tộc. Thời đó không những chỉ có Phan Bội Châu, mà cả Phan Chu Trinh cũng vậy. Trong bài thơ Đập đá Côn Lôn, nhà chí sĩ ái quốc, đồng thời cũng là nhà thơ Phan Chu Trinh viết : “Làm trai đứng giữa đất Côn Lôn / Lừng lẫy làm cho ngã núi non / Xách búa đánh tan năm bảy đống / Dang tay đập bễ mấy trăm hòn / Tháng ngày bao quản công sành sõi / Mưa nắng chi sờn dạ sắt son / Những kẻ vá trời khi lở bước / Gian nan nào há sự con con”. Chí làm trai của Phan Chu Trinh quả chẳng khác gì chí làm trai của Phan Bội Châu hay chí làm trai của Nguyễn Công Trứ, Cao Bá Quát … toàn là những danh sĩ đất Việt mà ai cũng biết. Họ thường là những nhà thơ, những người có chí, có khí, những người có tâm, có tầm lớn lao, khác đời, nên đúng họ đều là những thành phần tinh túy, những yếu tố tinh hoa, những nhân sự chọn lọc đặc biệt của cả một dân tộc. Cái khẩu khí của họ không hề là ý nghĩa khẩu khí cá nhân thấp kém, riêng tư, tầm thường, mà là khẩu khí của con người có ý nguyện vì đời, có mục đích vì dân, vì nước, vì giang sơn xã tắc, vì nhân quần, xã hội thật sự.
Ông Hồ Chí Minh cũng là nhân vật của thời đại xưa cũ đó. Ông cũng người Nghệ Tĩnh như Phan Bội Châu. Ông thuộc hàng em út, hậu sinh, cỡ hàng cháu của Phan Chu Trinh, nhưng có lẽ tinh thông Nho học thì ông Hồ không bằng những nhân vật cừ khôi đó. Bởi ông Hồ ra đi trôi giạt phương trời Tây từ hồi mới 17 tuổi. Trái lại Phan Chu Trinh, Phan Bội Châu khi ra đời đã là những vị khoa bảng danh tiếng, đều là những bậc học vị cao, những nhà trí thức lớn, những ông phó bảng, tiến sĩ cả. Bởi vậy con đường cách mạng của ông Hồ cũng hoàn toàn khác với con đường yêu nước, con đường đánh đuổi thực dân Pháp xâm lược cuả những vị tiền bối trước.
Cũng trong ý hướng riêng đó mà khi tới Nga ông Hồ đã sửng vửng vì chủ thuyết Mác Lênin, và dù khi ở Pháp hay ở Nga, con đường cách mạng của ông là con đường quốc tế vô sản mà ai cũng rõ. Bởi ông tổ của chủ thuyết cách mạng vô sản thế giới là Các Mác coi các lý thuyết nào, các quan điểm nào không phải giống Các Mác đều là của các bọn tư sản, của các bọn phản động, nên ông Hồ cũng khó mà dung hạp với các đường lối cách mạng kiểu tư sản, kiểu tự do dân chủ theo phương Tây cũng hính là như thế. Đó là nét đặc thù chung của mọi nhà cách mạng cộng sản kiểu Bôn Xê Vít như Mao Trạch Đông, Titô, Fidel Castro, Kim Nhật Thành, hay Hồ Chí Minh v.v… cũng thế. Bởi Mác không chủ trương tinh hoa của nhân loại thuộc mọi thành phần giai cấp là đầu tàu của mọi phát triển xã hội, lịch sử, mà chỉ có giai cấp vô sản mới là đầu tàu duy nhất đó.
Chắc hẳn vào thời của Mác, hoặc một số người muốn lợi dụng Mác, hoặc do nhận thức xã hội về mọi mặt còn hạn chế thời bấy giờ, mà nhiều người đã đắm đuối vào chính con đường đầy viễn mơ đó cho tới ngày nay, bởi vậy họ chỉ thấy có giai cấp vô sản mà không còn nhìn thấy gì khác ngoài tính cách của giai cấp đó. Đó cũng là lý do mà sau cuộc cách mạng vô sản ở Liên Xô cũ, qua hơn 70 năm đã hoàn toàn thất bại, sụp đổ, tan rã, và cả khối XHCN hay Đông Âu cũ cũng sụp đổ theo như thế.
Tuy vậy, quan điểm giai cấp của Mác cho đến nay vẫn còn một số ít người nào đó tiếp tục đi theo vì các lý do nào đó. Đó cũng là lý do tại sao ông Hồ cùng đội ngũ những người đồng chí của mình vẫn nêu cao một quan điểm giai cấp nhất quán trong xuyên suốt cuộc cách mạng tại VN cho mãi tới nay.
Những thể hiện của nó thường đầy tính cách bình đân như các thơ văn của ông Hồ, cách diễn đạt và lối nói, ngay kiểu phê bình và tự phê bình đều rập khuôn theo cùng một công thức và ý nghĩa chung hoài hoài không hề thay đổi gần suốt cả thế kỷ nay đều như thế.
Tất nhiên cũng từ tính cách đó khi ông Hồ còn sống, khoảng năm 1953 tại miền Bắc đã xảy ra cuộc cải cách ruộng đất và đấu tố long trời lở đất mà ai cũng rõ là như thế. Hay sau khi ông Hồ mất đi năm 1968, rồi đi đến thống nhất đất nước năm 1975, tiếp theo cũng liền có ngay cuộc cải tạo tư sản công thương nghiệp trên toàn miền Nam khi ấy cũng chính là như vậy. Đó cũng là lý do, ngày nay hoàn cảnh thế giới đã hoàn toàn biến đổi, giữa Việt Nam và Trung Quốc đều là hai nước theo thể chế cộng sản, nhưng đã nhiều lần hục hặc, đánh nhau mẽ đầu sứt trán, kể cả ngày nay TQ đang mưu đồ xâm lược VN nhiều mặt cũng vẫn chỉ như thế.
Người ta vẫn tiếp tục dạy cho sinh viên trong các trường đại học cả gần thế kỷ rồi tư tưởng Mác Lênin và tư tưởng Hồ Chí Minh là chủ yếu nhất. Học tập và làm theo gương Bác Hồ như là khẩu hiệu của muôn đời, của lòng mong muốn cứng nhắc, xơ cứng, cho dù mọi việc trên đời đã hoàn toàn biến chuyển, đổi mới tuyệt đối khách quan cũng mặc. Sản phẩm của ông Hồ tạo ra là nhiều lớp hậu bối chỉ biết có lãnh tụ và đảng của mình mà không thấy gì khác. Đó là lý do họ chỉ thần thánh ông, cho dù thần thánh thật hay như một thói quen, tập quán tự nhiên hoặc bó buộc trong mọi nước theo chủ nghĩa cộng sản mác xít lêninít cũng thế. Đó cũng là ý nghĩa ngay sau năm 75, chủ nghĩa lý lịch gần như là bó buộc trong mọi xem xét tuyển sinh hay đào tạo bố trí cán bộ công nhân viên đều phải tuân theo cùng một sách như thế. Ngày nay thì mọi điều đó có khá hơn chút đỉnh, song cơ bản cũng là quan điểm giai cấp một cách giả tạo, thiên lệch, thậm chí phản tiến hóa, phản khoa học, phản tự nhiên, phản khách quan đều chỉ là như thế. Nói chung lại, tính cách tinh hoa của đất nước và dân tộc hầu như bị bế tắt, bị chận lối suốt cả gần thế kỷ, nên dầu ngày nay có nhận ra được phần nào, cũng đã là quá trễ nãi so với nhiều dân tộc, đất nước khác trên thế giới, đó quả là điều thật vô cùng tai hại và hoàn toàn rất đáng tiếc. “Trí phú địa hào đào tận gốc, bốc tận rễ”, đó là một khẩu hiệu thật sự vô nhân bản, phản xã hội, nhưng đã từng một thời kỳ tác oai tác quái tại Trung Quốc cũng như tại Việt Nam trong quá khứ của cuộc cách mạng vô sản không tiền khoáng hậu từng xảy ra nhiều nơi trên thế giới. Đó là điều hoàn toàn ngược lại với quan điểm của ông cha ta ngày xưa “hiền tài là nguyên khí quốc gia” như mọi người Việt Nam đều biết.
Thật sự quan điểm giai cấp, nhất là giai cấp vô sản thực chất là quan điểm tối u mê, hoang đường, đầy mê tín của Mác. Bởi con người tuy sinh ra đời mang ý nghĩa bình đẳng về pháp lý, song khác nhau về tài năng bẩm sinh, về giáo dục, về điều kiện sống, về ý chí vươn lên, về mục đích sống và ý nghĩa sống. Thế mà Mác coi giai cấp vô sản gộp chung là đầu tàu lịch sử thật sự là ý nghĩa ngu xuẩn và hết sức phản tiến hóa, phản động. Bởi tinh hoa có thể phát xuất từ bất kỳ giai cấp nào nào có đủ điều kiện khách quan hay chủ quan về mặt cá nhân nào đó, không thể lấy giai cấp như một tiền đề vô lối, cho dù đó là giai cấp nào.
Quan
niệm một xã hội không giai cấp là một quan niệm ngu xuẩn.
Quan
niệm chỉ có giai cấp vô sản mới là đầu tàu lịch sử cũng ngu xuẩn không kém.
Quan điểm coi tư tưởng của Mác như là đỉnh cao
của trí tuệ loài người như một số tay điếu đóm chính trị tâng bốc, chẳng những
vừa ngu xuẩn mà vừa vô ý thức, vô trách nhiệm đối với mỗi con người cũng như
đối với toàn xã hội nói chung, mà cụ thể ở đây chính là đối với dân tộc và đất
nước Việt Nam ta nói riêng trong chính các hoàn cảnh đặc thù của xã hội ta như
trên đã nói.
Một quan điểm sai lầm về giai cấp, về sự tinh
hoa đã kéo lùi một đất nước, một dân tộc thụt lùi không chỉ vài chục năm mà có
khi cả một hay nhiều thế kỷ nếu cứ ngoan cố và tối tăm chính là như vậy. Nên
ngày nay mọi tiến bộ trên thế giới đều là kết quả của các tinh hoa những dân
tộc mà không phải kiểu giai cấp đấu tranh kiểu tăm tối, tệ hại, thấp kém, phi
lý, hoàn toàn không có cơ sở thực tế mà chính Các Mác đã ngụy tạo và mê muội
đưa ra cách đây đã hơn một thế kỷ rưởi.
ĐẠI NGÀN
(17/8/12)
(17/8/12)
No comments:
Post a Comment