Sunday, 5 August 2012

CUỘC CẠNH TRANH CHẤT XÁM VĨ ĐẠI (Nguyễn Xuân Xanh)




Nguyễn Xuân Xanh
Cập nhật : 04/08/2012 19:00

Sự phồn vinh của các quốc gia giờ đây tùy thuộc vào sự thực hiện giáo dục đại học nhiều hơn bao giờ hết, qua sự đóng góp của nó vào việc xây dựng nguồn nhân lực và tri thức tích lũy; và cũng như thế đối với sự cạnh tranh quân sựgiữa các cường quốc- là vấnđề sống còn, tiềm tàng và theo nghĩa đen. Sức mạnh chính trịcủa các quốc gia bây giờ cũng lệthuộc vào giáo dục đại học, hơn bao giờ hết, để giúp tạo ra các cơ hội lớn cho nhân dân, và để giúp dỡ bỏ các ranh giới giai cấp còn di lại từ quá khứ.
Clark Kerr

(1) "Brain drain" hay "brain gain"? (*)

Cuộc Cạnh Tranh Chất Xám Vĩ Đại(The Great Brain Race) của tác giảBen Wildavsky, một học giảcó tiếng Hoa Kỳ,là một quyển sách rất hay nếu không muốn nói tuyệt vời, rất súc tích và uyên bác, đã vẽlên từrất nhiều góc cạnh khác nhau, những thông tin tản mạn, một bức tranh tổng thểcuộc cạnh tranh toàn cầu nhằm thu hút tài năng trí tuệtừmọi miền thếgiới, và sựchạyđua nâng cấp hệthống giáo dụcđại học thếgiới. Quyển sách ra đời trong sự đón nhận rấtư nồng nhiệt,được rất nhiều học giả,các tạp chí tên tuổi, giới truyền thông đại chúng khen ngợi. Ben Wildavsky đã cho mọi người thấy xuyên suốt và thấuđáo “toàn cầu hoá đang biếnđổi nền giáo dụcđại học thếgiới thếnào” (Richard Levin). Cạnh tranh kinh tếlàđộng lực phát triển của giáo dụcđại học thếgiới. Cuộc chạyđua kinh tếthực chất là cuộc chạyđua khoa học công nghệ(KHCN). Các đại học tạo ra tri thức và tinh hoa cho xã hội, do đó sẽ ảnh hưởng quan trọng lên việcđịnh hình thếgiới trong thếkỷ21. Hai trăm năm qua thực tế đã như thế,kểtừlúc đại học nghiên cứu Humboldt ra đời. Hệthốngđại học cạnh tranh còn là yếu tố“an ninh kinh tế”,và an ninh quốc phòng của một quốc gia nữa. Mấtđại học cạnh tranh, sẽlà một sựthua thiệt lớn lao cho kinh tếvà quốc phòng.
Bảnđồ đại học và KHCN thếgiới sẽtừng bướcđược vẽtiếp. Khắp nơi, các chính phủ đều lao vào đầu tư những sốtiền khổng lồnâng cấp các đại học thành những thểchếhọc thuật‘đẳng cấp thếgiới’:từcác quốc gia của châu Âu, cái nôi củađại học, như Đức, Pháp; đến các quốc gia mới nổi lên như Saudi Arabia, Trung Quốc; từchâu Á đến châu Phi, châu Mỹ.Các đại họcđẳng cấp thếgiới có nhiệm vụvừađào tạo tinh hoa, tránh thất thoát chất xám, vừa thu hút chất xám thếgiới. Nhiều quốc gia đều bịthất thoát chất xám, brain drain, kểcảnhững nước phát triển, nhưng họcốgắng bù đắp lại bằng cách thu hút chất xám, brain gain, hay bằng‘đảo ngượcbrain drain’ với những thu hút hấp dẫn.
Saudi Arabia, một xứsởcủa sa mạc và dầu hoảnhưng rất giàu có, cũng tham vọng trởthành quốc gia có đại họcđẳng cấp thếgiới qua đầu tư sốtiền 10 tỉ đô la Mỹ(!) vào đềán khổng lồKAUST (King Abdullah University of Science and Technology- đại học khoa học công nghệVua Abdullah, người bỏtiền ra), cái tên na ná KAIST, Viện khoa học khoa học công nghệtiên tiến của Hàn Quốc,để đưa nền học thuật trởlạithờiđại vàng son Hồi giáo, và đểthu hút chất xám làm ‘xanh tươi’ đất nước sa mạc, và cho cảvùng Ảrập rộng lớn. Sốtiền này chỉmới là quỹkhởiđộng và thành lập, sốvốnđầu tư được chờ đợi lên đến con số25 tỉ đô la Mỹ,chỉ đứng thứhai sau Harvard. Vua Abdullah cũng quyếtđịnh KAUST sẽkhông thuộc sựquản lý của BộGiáo dục, do bộnày nổi tiếng quan liêu.
Trung Quốc là một‘tay chơi’ đầy tham vọng khác, từthập niên 90 đầu tư nhiều chục tỉ đô la Mỹ đểnâng cấp một trăm trườngđại học và tập trung tạo ra chín trườngđẳng cấp quốc tế,tập hợp dưới cái tên C9, một kiểuIvy Leaguecủa Trung Quốc (PhụcĐán, Nam Kinh, Học viện Công nghệCáp Nhĩ Tân, Bắc Kinh, Giao thông Thượng Hải, Thanh Hoa, Đại học Khoa học Công nghệAn Huy, Giao Thông Tây An, Chiết Giang). ẤnĐộ đang nỗlực nhân rộng mô hình IIT, Indian Institute of Technology, Học viện công nghệ ẤnĐộ,nơi ươm tài năng ẤnĐộnổi tiếng và được thành lập từnhững thập niên 50 lúc quốc gia giành lạiđộc lập. ITT là một niềm tựhào dân tộc. Các công ty toàn cầu như Boston Consulting và McKinsey hằng năm đếnđể đón bắt các tài năng giỏi, sáng chói nhất củaẤnĐộ.Nhưng ẤnĐộ đã không làm những cuộc bứt phá, và hiện nay, tuyđi trước rất lâu, nhưng được xem tụt lại phía sau Trung Quốc.Đức, Pháp cũng bỏra hàng nhiều tỉ đô euro đểthiết lập nhữngđại học trác việtđểthu hút tinh hoa thếgiới và chen chân lên danh sách đầu bảng của xếp hạng toàn cầu.
Hai quốc gia châu Á có diện tích và sốdân khiêm tốn nếu không muốn nói là nhỏ,nhưng có những nỗlực phi thường trong giáo dụcđại học và nghiên cứu; và họ đã thành công xuất sắc: Hàn Quốc và Singapore. Mụcđích chung của họlà: nâng cao nghiên cứu thành nhữngtrung tâm khoa học công nghệtrác việtđểcó sức cạnh tranh thếgiới, thúc đẩy tăng trưởng kinh tế,giữchân sinh viên lại, và thu hút chất xám quốc tế.Đó là để‘nâng tầm phát triển quốc gia’. Tiếng Anh trởthành ngôn ngữbắt buộc chung, lingua franca, trong thếgiới hàn lâm và kinh doanh. Họxây dựng trên các hợp tác đối tác chiến lược với các đại học nước ngoài, phần lớn với Hoa Kỳ,và thuê các nhà khoa học, quản lý hàng đầu. Năm 2008 Hàn Quốcđưa ra một‘chương trình các đại họcđẳng cấp thếgiới’với quỹ800 triệuđô la Mỹcho 5 năm nhằm‘nhập khẩu’các giáo sư nước ngoài đến giảng dạy và nghiên cứu, thường trên cơ sởbán thời gian. 1.000 nhà khoa họcđã nộpđơn trong mười tháng đầu, trong đó 40% từHoa Kỳ,có cảnhiều nhà khoa học giải Nobel. Hàn Quốc hy vọng những nhà khoa học này sẽxây dựng các chương trình nghiên cứu chuyên ngành, hoặc các ngành khoa học mũi nhọn mới.
Singapore là quốc gia hợp tác có lẽmạnh mẽnhất với các đại học hàng đầu Hoa Kỳ.Họ đã nhắmđem mườiđại học quốc tếvào, nhưng đã thành công với sáu đại học.Đặc biệt năm 2007 họ đã đưa được MIT vào trung tâm nghiên cứu tại khuôn viên nghiên cứu quốc gia CREATE (Campus for Research Excellence and Technological Enterprise). Năm 2007 họcũng thành lậpSingapore International Graduate Award, SINGA, một loại học bổng sau tiến sĩ dành cho sinh viên ngoại quốc muốn tiếp tục nghiên cứu tại hai đại học NUS và NTU. Mỗi một năm có khoảng 240 học bổng SINGA được cấp, với những tiêu chuẩn chọn lọc chặt chẽ.Tuy chương trình kết nối với các đại học hàng đầu nước ngoài không luôn luôn thành công, một số đại học‘bỏcuộc’(Warwick, Johns Hopkins, New South Wales), nhưng nói chung, Singapore đã rất thành công trong nỗlực của mình đểtrởthành mộtpowerhousecủatri thức toàn cầu.

(2) Các bảng xếp hạng đại học

Cuộc chạyđua đại học thếgiớiđược tăng tốc từmột phát súng của những ý tưởng‘điên rồ’vềxếp hạng,ranking, các đại học thếgiới vào những năm cuối thếkỷ20, đầu 21. Năm 1997 tạp chí Asiaweekđã làm một cuộc xếp hạng, nhưng chỉgiới hạn vào các đại học châu Á. Năm năm sau, 2002, Trung tâm nghiên cứu khoa học và công nghệcủa ThuỵSĩ công bố‘liên đoàn của các quán quân’, champion league, dành cho các đại học và viện nghiên cứu dựa trên các bài báo đăng trên các tạp chí nghiên cứu khoa học. Nhưng bảng xếp hạng quy môđầu tiên cho đại học thếgiớiđược công bốnăm 2003 dưới cái tên Academic Ranking of World Universities,‘Xếp hạng hàn lâm của các đại học thếgiới’,của Viện Giáo dụcđại học củaĐại học Giao Thông Thượng Hải,được nhiều người xem là bảng xếp hạng có ảnh hưởng lớn nhất.Đằng sau bảng xếp hạng này là Nian Cai Liu (Lưu Niệm Tài), GS hoá và hoá công nghệ.Các nhà quản lý củađại học Giao Thông quan ngại vềsựgiảm sút chất lượng củađại học, bắtđầu làm một cuộcđánh giá vịtrí củađại học mình so với các đại học khác.
Sự đánh giá này xuất hiệnđúng vào lúc Trung Quốcđang bước vào trườngđua đầy tham vọngđểtạo ra chùm đại họcđẳng cấp thếgiới, cho nên họcần phải có thướcđo. Họchấp nhận một sựcạnh tranh công khai. Đại học Bắc Kinh đặt chỉtiêu sẽtrởthành‘đẳng cấp thếgiới’năm 2016, Đại học Thanh Hoa năm 2020. Theo ông Liu, có 4 triệu lượt người vào Bảng xếp hạng Thượng Hải này năm 2003, tức trung bình 2.000 lượt/ngày. Mườiđại học hàng đầu thếgiới trong danh sách có tên: Harvard, Stanford, Berkeley, Cambridge, MIT, Caltech, Columbia, Princeton, Chicago và Oxford. Tất cả đều là đại học Hoa Kỳ,ngoại trừhai đại học Cambridge và Oxford của Anh, một tỉtrọng rất lớn cho nềnđại học Hoa Kỳ.Xếp hạng Thượng Hải xem trọng các tiêu chí như hàng giáo sư đẳng cấp như các vịcó giảiNobelhay giảiFieldshoặc các giải thưởng danh giá khác; các bài báo đăng trên các tạp chí tên tuổi như NaturehayScience; các chỉsốtrích dẫn...
Một năm sau, 2004, báo TimesLuân Đôn đưa ra bảng xếp hạngTimes Higher Education Supplement, viết tắt THES. Các tiêu chí này khác hơn,‘toàn diện hơn’ (holistic), như sốsinh viên tốt nghiệp làm ởnhững công ty toàn cầu, tỉlệgiáo sư nước ngoài, tỉlệsinh viên/ giáo sư…(xem thêm Nguyễn Văn Tuấn) khiến cho các đại học Hoa Kỳbịrớt hạng và các đại học Anh tăng hạng. Các tiêu chí của THES thay đổi nhiều năm sau đó, với những hệquảkhác nhau. Năm 2008, mườiđại học hàng đầu của THES có tên Harvard, Yale, Cambridge, Oxford, Caltech, Imperial College, London, University College, London, Chicago, MIT và Columbia. Hoa Kỳchỉcòn 6, thay vào đó Anh có 4. Khác nhiều so với bảng xếp hạng của Thượng Hải. Ngoài ra năm 2009 các đại học Hoa Kỳtrong bảng 100 đại học hàng đầu thếgiới của THES bịthu hẹp từ42 xuống còn 36. Có nhiều tiếng chỉtrích, dĩ nhiên.
Châu Âu đang nỗ lực tạo ra một bảng xếp hạng mới: “Bảng xếp hạngđại học toàn cầu đa chiều”(viết tắt U-Multirank) để chú ý hơn các yếu tố khác và các ngành khoa học nhân văn, xã hội, chất lượng giảng dạy, đầu ra…Hiện đã có vài chục bảng xếp hạng, phần lớn mang tính chất địa phương hay khu vực.
Nhiều người không đồng tình với việc xuất hiện của các bảng xếp hạng, sự ra đời của xếp hạng tự nó là vấn đề (Valérie Pécresse, cựu Bộ trưởng giáo dụcđại học Pháp). Sự tranh cãi diễn ra khắp nơi. Uwe Brandenburg, giám đốc“Trung tâm phát triển giáo dụcđại học” của Đức đã mượn lời của nhà bác học Albert Einstein để nêu lên tính tranh cãi: “Không phải cái gì có thể đượcđếm là có giá trị, và không phải cái gì có giá trịlà có thể đượcđếm”.
Nhưng dù thếnào, dù mỗi bảng xếp hạng có những quan điểm chủquan khác nhau có thểtranh cãi, các bảngđánh giá trên có ảnh hưởng rất lớn không thểchối cãi lên dư luận, sinh viên, nhà quản lý, nhà làm chính sách, chính phủ.GS Philip Altbach củaĐại học Boston nhìn nhận rằng các hình thức xếp hạng và các ‘bảng liên đoàn’ có một‘vai trò hữu ích’ vì ‘soi sáng các mặt then chốt của thành tựu hàn lâm’ (cũng như những thất bại, chưa đạt). Một‘phong trào’nâng cấpđại học hình thành. Một số đại học thuê cảcác giáo sư Nobel hy vọng có hạng cao hơn. Các “sáng kiến trác việt”từ Đức, Nga, Trung Quốc và Pháp xuất hiện như sựtrảlời sựthách thức của các bảng xếp hạng.“Tốcđộcải cách giáo dụcđại học có vẻnhanh hơn trong niềm tin rằng các thểchếtinh hoa, cạnh tranh, và tốt hơn sẽ đượcđánh giá cao hơn”, như một ngườiđặc trách của tổchức OECD về202 các đại học hàng đầu của bốn mươi mốt quốc gia viết, bà Ellen Haselkorn. Nhưng nó cũng tạo ra những mặt‘tiêu cực’khác. Chẳng hạn một sốnhà quản lý đại họcđược khen thưởng bằng hiện vật (Úc), và một vài người khác bịsa thải (Mã Lai). Gầnđây bà Ellen Haselkorn đi đến kết luận: chính thức kêu gọi thếgiới và các tổchức quốc tếhãy nói ‘không’với xếp hạng. Tuy nhiên, có hay không các bảng xếp hạng, cuộc chạyđua của giáo dụcđại học thếgiới cũng vẫn luôn diễn ra.

(3) Toàn cầu hoá vốn nhân lực

Thếgiới bước vào thờiđại toàn cầu hoá tri thức và giáo dục. Môi trường văn hoá đại học thếgiới ngày càng gần gũi nhau: dân chủ,văn minh, hiệnđại, trọngđãi tài năng, tựquản, tựdo hàn lâm, học thuật,đó là nền tảng các giá trịphổquát. Các ‘công dân mới’tốt nghiệp từcác đại học thếgiới có thểcảm thấy gần gũi hay gắn bó với văn hoá đó hơn cảvới văn hoá quê nhà. Các sinh viên tài năng của các nướcđang phát triển chỉmơ “nhập học vào Harvard sẽthay đổiđời tôi”. Thực tếhọmơ các đại họcởcác quốc gia phát triển lâu đời như mơ đặt chân đến một miềnđất hứa. Cộngđồng hàn lâm dần dần gắn bó với quê hương chung là cộng hoà hàn lâmxuyên biên giới hơn là quê hương sinh trưởng của mình. Các lãnh đạo thuộcsuperclasstrong các ngành ngân hàng, đại công ty, cty đầu tư, chính phủ,quân đội,đại học, tổchức truyền thông đại chúng, ngay cảtôn giáo của thếgiớiđều dễcó quan hệnhau từcác ‘trườngđại học mẹ’,alma mater, họ đã kinh qua. Điềuđó cho thấy giớisuperclassnày có mối liên thông thếnào. Sinh viên ngày càng sẵn sàng đi xa cha mẹsớm hơn, có tính mạo hiểm hơn, và các bậc cha mẹcũng khuyến khích. Con người có thểtìm việc bất cứnơiđâu, miễn cạnh tranh thắng lợi.“Điều quan trọng không phải là bạn làm gì và sốngở đâu, nhưng là bạn biết gì”, như Tổng thống Obama nói; và một học sinh, sinh viên ởDayton không phải chỉcạnh tranh vớiđồng bạnởDetroit, Chicago hay Los Angeles, mà còn phải cạnh tranh với các trang lứaởBắc Kinh hay Delhi.
Vốn nhân lực,human capital, của một quốc gia là phần chủyếu nhất của sựphồn vinh của các quốc gia. Thếkỷ20 là thếkỷcủa vốn nhân lực mà Hoa Kỳlà quốc gia đã dẫnđầu. Con đườngđi tới thành công cho quốc gia và cá nhân cuối cùng chính là sự đầu tư vào vốn nhân lực. Một cộngđồngđược giáo dục có thểchưa chắc bảođảm sựtăng trưỏng kinh tếnhanh chóng và sựkết nạp vào ‘câu lạc bộhội tụ’(convergence club) của các quốc gia phát triển. Nhưng điều ngược lại chắc chắnđúng: Trình độgiáo dục thấp ngăn cản một quốc gia tiến tới biên giới công nghệvà hưởng lợiđầyđủtừnền kinh tếtoàn cầu (C.Goldin và L.Katz). Vốnấy ngày nay đang chuyểnđộng toàn cầu,đểtôi luyện. Họlà những người mang đầyý tưởngvà kỹnăng, skills. Theo Wildavsky, Nếu như giới hạn thương mại gây thiệt hại cho người tiêu dùng cũng như cản trởtính sáng tạo kinh tế,thì đóng cửađối với dòng chảy tựdo của con người và ý tưởng là cản trởsựtạo ra tri thức là máu thịt của những sựthành công kinh tế.Tri thức, và tài năng là những‘hàng hoá’ không thểgiam hãm hay đóng kín mà không gây thiệt hại cho chính mình. Phải làm sao đểcó sựtrao đổi nhiều hơn, có nhiều‘hàng hoá’ hơn.
Sự‘di dân’ trong giai đoạn 1999-2005 tiếp tục tăng đáng kể, nhưng với một sự phân bố có khác hơn trước đây: số sinh viên nước ngoài tăng 17% cho Hoa Kỳ, 29% cho Anh quốc, 42% cho Úc, và 46% cho Đức. Những con số này cũng cho thấy tỉ lệ tăng trưởng tương đối của Hoa Kỳcó phần giảm. Các quốc gia có kế hoạch ráo riết tuyển thu hút sinh viên nước ngoài để tăng thị phần hay đẩy lùi sự suy giảm. Singapore đang kỳ vọng thu hút 150.000 sinh viên cho đến năm 2015; Malaysia 100.000 đến năm 2020. Ngay cả Trung Quốc, quốc gia đang thu hút 196.000 sinh viên, đa số là sinh viên từ các quốc gia châu Á, cũng nhắm đến con số 300.000 đến năm 2025. Đại học đã trởthành thị trường, marketplace, với nhiều người mua kẻ bán thu hút khách hàng, và với tính chuyển dịch cao, highmobility.2
Không những chất xám trẻ,sinh viên, mà cảchất xám trưởng thành, hay vềhưu, các giảng viên, và cảnhững nhà quản lý giỏi, trởthành những hàng hoá được thịtrườngsănđuổi. Tri thức và tài năng luôn luôn có cơhộiđược bước lên những bệphóng cao. Sinh viên cũng tỏra năng động cao hơn, không phải học suốt một chỗ,có thểhọc cửnhân tạiđâu đó, có thểtại nhà, làm thạc sĩ ởAnh, và nghiên cứu tại Mỹchẳng hạn. Không những có sựdi chuyển chất xám xuyên biên giới, mà các công trình nghiên cứu quốc tếcũng có tính chất xuyên biên giới trong sựhợp tác giữa các nhà nghiên cứu của nhiều quốc gia khác nhau. Các đại học khuyến cáo và hỗtrợmột sựhợp tác nghiên cứu xuyên quốc gia, con người hàn lâm cần phải có những cái nhìn xa, và hiểu biết văn hoá các miềnđất khác. Họkhuyến khích trao đổi sinh viên. Văn hoá được toàn cầu hoá. Chủtịch Richard Levin củaĐại học Yale là một người chủtrương mạnh mẽnhất phát triểnđại học ra ngoài biên giới.“Chúng tôi muốn làm công việc tốt là đào tạo cho sinh viên thành những nhà lãnh đạo của thếkỷ21, và sinh viên không thểlà những người‘mù chữvăn hoá xuyên biên giới’mà có thểtrởthành nhà lãnh đạo của thếkỷ21”, Levin nói. “Ngoài kia có những tiềm năng lớn hơn”, “Mỗi người tốt nghiệpởYale phải là một người bạn quốc tế”.“Chúng tôi tựhào nói rằng không nhữngđã đào tạo bốn trong sáu vịtổng thống vừa qua của Hoa Kỳ,mà còn một vịtổng thốngĐức, hai thủtướng của Hàn Quốc và một tổng thống của Mexico. Chúng tôi muốn thấy con sốnày tăng thêm.” Ông chưa kểthêm còn nhiều niềm hãnh diện, trong đó: một tổng thống, và một phó tổng thống của Phi Luật Tân. Dĩ nhiên chưa có ai là người Việt Nam được vinh dựbước vào danh sách đó.

(4) Sức hút của đại học Âu - Mỹ

Cuộc di dân, migration, của học giảvà sinh viên từquốc gia này sang quốc gia khác đã bắtđầu diễn ra từthếkỷ12 lúc các đại họcđầu tiên châu Âu, Bologna, Paris, Oxford được thành lập vào lúc châu Âu bắtđầu ra khỏiđêm dài của thời kỳ đen tối (dark ages). Đó là các đại học tiền thân củađại học hôm nay. Cuộc di dân diễn ra không ngừng từ đó, di dân vì đi tìm tựdo, tìm đến học thuật, tri thức. Xã hội phát triển ngày càng cao thì tri thức ngày càng được quý trọng.
Đầu thếkỷ19, với sựra đời củađại học Humboldt tại Berlin như mô hình đại học nghiên cứu, thống nhất nghiên cứu và giảng dạy, có nhiều tựdo hàn lâm, lấykhoa họchọc thuậtlàm trọng tâm củađào tạo, thì nềnđại học có một sựphát triển vượt bực hơn tất cảthờiđại nào trướcđó. Đại học trởthành các trung tâm văn hoá. Nghiên cứu trởthành phẩm chất,qualification, và tiêu chuẩnđo lường cho sựnghiệpđại học. Tinh thần khoa học lan toảvào tất cảcác ngành học, kểcảkhoa học nhân văn, khoa học thực nghiệm, và trởthành tiêu chuẩnđo lường chất lượng.Đại họcĐứcđã góp phần vào cuộc công nghiệp hoá thành công củaĐức, giúp nướcĐức lạc hậuđầu thếkỷ19 vươn lên ngang bằng với các cường quốc Anh, Pháp vào cuối thế kỷ19. Vào hậu bán thếkỷ19, đại họcĐứcđã ảnh hưởng lên toàn thếgiới: châu Âu, Anh Quốc, Hoa Kỳ,Nhật Bản và cảTrung Quốc.Đứcđã trởthành ‘thánh địa’đểcho sinh viên và nhà giáo dụcđại học thếgiới hành hương. Người ta nói đến“bá quyền khoa họcĐức”(german scientific hegemony). Một trăm năm, đại họcĐứcđã giữvững ngọnđuốc trí tuệsáng chói của thếgiới. Thếkỷ19, kéo dài đếnđầu thếkỷ20, có thểnói là thếkỷcủađại họcĐức.
Thếchiến thứII đến, chủnghĩa quốc xã của Hitler của những kẻcuồng tín đã phá tan nềnđại họcđỉnh cao đó của nhân loại, gây ra một cuộc di tản khổng lồcủa các nhà khoa học hàng đầu lụcđịa châu Âu qua Tân thếgiới Hoa Kỳ,trong đó Einstein là biểu tượng. Sau thếchiến thứII, Hoa Kỳvới tiềm năng ưu việt của mình, với truyền thống và chính sách phát triểnđúng đắn của mình, trong vòng vài thập kỷtiến lên phát triểnđại học thành ngọnđuốc trí tuệrực rỡnhất thếgiới, kéo dài mãi đến hôm nay. Chưa bao giờ đại học có một cuộc phát triển vũ bão như trong giai đoạn sau thếchiến. Nó cũng gắn liền với giai đoạn phát triển kinh tế,công nghệvũ bão thời hậu chiến và chiến tranh lạnh. Tri thức giờ đây là “khu vựcđầu tàu” của tăng trưởng kinh tế!“Những gì mà ngành đường sắtđã làm được cho nửa sau của thếkỷqua (19) và ngành công nghiệp ôtô cho nửađầu thếkỷnày (20) thì ngành công nghiệp tri thức có thểlàm được cho nửa sau thếkỷnày: nghĩa là nó phục vụcho sựtăng trưởng quốc gia như tâm điểm”(Clark Kerr). Hoa Kỳ đã đặtđúng vịtrí mô hình đại họcĐức trong context của mình: là khoa học, nhân văn, nghiên cứu, đào tạo và phục vụcộngđồng, một truyền thống tốtđẹp của Hoa Kỳtừthời lập quốc và phát triển mạnh mẽtừsau cuộc Nội chiến.Đặc tính đại học Hoa Kỳlà dựa trên tính ‘mô-đun’cho phép thêm bớt bất kỳ,cho phép dạy và nghiên cứu tất cảcác môn, và ởmọi trình độ. Tính mô-đun với một sốlượng lớn các môn chọn cho phép thầy và trò thực hiện các nguyên lý ‘tựdo dạy’,Lehrfreiheit, và ‘tựdo học’,Lernfreiheit, của Humboldt. Có thểnói, Đại học Hoa Kỳlà Đại học Humboldt mởrộng. Thếkỷ20 là thếkỷcủađại học Hoa Kỳ.Đại học phát triển thành multiversity,đa đại học, và cụmđại học.Đại học Hoa Kỳtrởthành mô hình mà các quốc gia khác noi theo, cũng như Hoa Kỳ đã từng noi theo mô hình đại họcĐức thếkỷ19.
Năm 1987, Henry Rosovsky, cựu chủnhiệm khoa của khoa Arts and SciencesởHarvard, đã có thểviết một cách hãnh diện:
Trong những ngày này, khi mà các đối thủkinh tếnước ngoài dường như đang qua mặt chúng ta trong hết ngành này đến ngành khác, chúng ta cần tái khẳngđịnhđểbiết rằng có một ngành công nghiệp sống còn mà ở đó Hoa Kỳát hẳn thếgiới không thểtranh cãi được: lãnh vực giáo dụcđại học. Khoảng từhai phần ba đến ba phần tư đại học tốt nhất của thếgiớiđều nằm tại Hoa Kỳ.Nhiều nhà phê bình nền giáo dụcđại họcởMỹ đã quên đi sựthật này. […]
Trong giáo dục đại học, “Made in America” vẫn là cái nhãn hiệu bảnh nhất. Do đó lời khuyên của tôi là “Hãy đối xử cẩn thận”, để chúng ta khỏi rơi xuống mặt bằng năng suất của phần lớn các công nghiệp khác của Mỹ.
Đại học Hoa Kỳ đã thu hút một lượng cao nhất sinh viên từ khắp thế giới, tiếp theo sau là đại học các quốc gia phát triển như Anh, Pháp,Đức, Úc. Trong số 572.509 sinh viên nước ngoài học tại Hoa Kỳ năm 2004 có hơn một nửa đến từchâu Á: năm quốc gia hàng đầu là Ấn Độ, Trung Quốc, Hàn Quốc, Nhật Bản và Đài Loan. Trung Quốc và Ấn Độ cũng là các nước hàng đầu có số lượng du học sinh tại Anh, với tổng số 69.000 trong số318.390 sinh viên nước ngoài tại Anh năm 2005. Trung Quốc và Ấn Độ cũng chiếm tỉ lệ sinh viên hàng đầu như thế tại Úc. Pháp thu hút một số lớn sinh viên từ các nước truyền thống như Algeria, Morocco và Tunesia.Đức có số sinh viên từ Trung Quốc lớn nhất, tiếp theo là các quốc gia Đông Âu như Ba Lan, Nga, Bulgaria, Hungary, cũng như Thổ Nhĩ Kỳ, và một số nước Ả rập.

(5) Một ngành kinh doanh mầu mỡ

Giáo dục đại học trở thành mộtbusiness, một ngành kinh doanh rất mầu mỡ. World Bank ước tính một doanh thu 400 tỉ đô la Mỹ năm dành cho khu vực tư nhân. Sự hấp dẫn đó đã làm hình thành một chuỗi các đại học vì-lợi nhuận, for-profit, ngược với truyền thống đại học-phi lợi nhuận, đặc biệt tại Hoa Kỳ là nơi có rất nhiều đại học tư nổi tiếng và mẫu mực thế giới đều phi-lợi nhuận. Loạiđại học này tăng trưởng mạnh mẽ tại châu Á và châu MỹLa Tinh, nơi hệ thống đại học công không theo kịp sự tăng trưởng nhanh của sinh viên. Nếu năm 2001 thế giới có 90 triệu sinh viên mới thì hai năm sau con số này đã vượt 100 triệu (TQ chiếm tỉ lệ lớn). Và năm 2006 nó lên đến 115 triệu. Sự phồn vinh của giai cấp trung lưu là lý do của sự tăng trưởng. Một chuyên gia giáo dục của Cty tài chánh IFC của Ngân hàng thế giới ước tính tại 8 quốc gia có dân sốcao nhất, sự ghi danh sinh viên từ 1991 đến 2001, trong 10 năm, đã tăng lên 260% lần, và phần lớn sự tăng trưởng này được hấp thu vào khu vực tư. Tại Indonesia, năm 2004, 334.000 nộp đơn tranh nhau chỉ 80.000 chỗ. Dĩ nhiên sốcòn lại phải tìm cách khác,đi ra nước ngoài chẳng hạn. Ben Wildavsky có nhiều con số phần trăm của tổng ghi danh của giáo dục vì-lợi nhận chiếm là đáng ngạc nhiên. Trong khi đa số các trường đại học vì-lợi nhuận là của các nước sở tại, thì có một nhóm ‘tay chơi’ quốc tế bước vào cuộc, xuất phát từ Hoa Kỳ:Laureate Education, Whitney International, Apollo Global, University of Phoenix, Kaplan Inc., DeVry Inc. Laureate có hơn 150 campus tại Bắc Mỹ, Mỹ La Tinh, châu Âu và châu Á. Họ dạy nhiều trìnhđộ về kỹ sư, giáo dục, kinh doanh, chăm sóc sức khoẻ, công nghệthông tin. Các công ty này đã có tăng trưởng 30% năm trong sáu năm qua, với doanh thu hằng năm 2 tỉ đô la Mỹ! Nhưng cũng không chỉ các Cty Hoa Kỳ. Raffles Education đóng tại Singapore có các campus tại Úc, ẤnĐộ, Mã Lai và Hồng Kông. Và một số hoạt động đa quốc gia khác nhỏ hơn.
Có nhiều ‘biến tướng’ trong thếgiới đại học vì-lợi nhuận. Một dạng ‘lưỡng thể’: họcđịa phương hai năm, ra nước ngoài tu nghiệp hai năm, hay tương tự.Hình thức này thường đòi hỏi cao hơn về chất lượng ởsinh viên. Hay các hình thức hợp tác giữa đại học phi-lợi nhuận và vì-lợi nhuận. Hoặc các hình thức học ảo, giảng dạy ảo, giảngđường ảo, trên mạng toàn cầu, không thầy, không campus, không tất cả. Học và dạy một cách‘vô danh’.
Cácđại học vì-lợi nhuận hay đại học ảo đang là vấn đề tranh luận lớn. Một mặt các đại học đó vừa giải phóng cácđại học tinh hoa, giảm áp lực,đồng thời cũng ‘đe doạ sựtồn tại của đại học nghiên cứu-tập trung’. Chúng ta phải rất thận trọng trước cơn ‘đại hồng thuỷ’ này (G. Casper). Đại học vì-lợi nhuận có là đối trọng của các đại học tinh hoa? Không. Đó không phải là mụcđích của họ. Họ không tạo ra tinh hoa, không làm nghiên cứu, không xây dựng ‘tháp chuông trác việt’. Họ chỉ muốn kinh doanh ởlỗ hổng thị trường giáo dục, trong phân khúc riêng, nơi mọi người nhu cầu có mảnh bằng để cải thiện thu nhập tương lai, và cũngđáp ứng cho nhu cầu xã hội địa phương hay khu vực. Họ tạo ra những người có nghề nghiệp, có một số vốn tri thức, và kỹ năng nhấtđịnh cần thiết cho cuộc sống. Trong chừng mực đó, các cty giáo dục vì-lợi nhuận có đóng góp nhất định mà các đại học công và đại học phi-lợi nhuận không lấp được. Chất lượng là vấn đề lớn đang tranh luận, và làm sao được bảođảm tốt. Sự giám sát từphía nhà nước có thể hữu ích, ít nhất để loại bỏcác tổ chức kinh doanh ‘ăn xổi ởthì’. Nhưng sự can thiệp từ phía nhà nước cũng có thể đặt ra nhiều vấn đề khác. Còn laissez-faire sẽ gây rối loạn.

(6) Trò chơi có tổng dương

Trước sựnổi lên củađại học tại các châu lục khác, và sựsuy giảmđầu tư ởHoa Kỳdo kinh tếsuy thoái, nhiều người lo lắng tính cạnh tranh củađại học, củaưu thếvềkhoa học công nghệMỹ.Báo cáo Rising Above the Gathering Storm,‘Vượt lên Cơn bão đang tích tụ’năm 2005 củaNational AcademiesMỹcó lẽlà tiếng chuông cảnh báo được biếtđến nhiều nhất. Một nhóm lãnh đạo hàn lâm và kinh doanh cảnh báo vềnăng lực cạnh tranh đang lên của các quốc gia khác sẽlàm cho vịtrí trội bật của Hoa Kỳsuy yếu. Năm 2008 chủtịch Harvard Drew Faust đưa ra những lời cảnh báo trước Thượng Viện Hoa Kỳvềnguy cơ hậu quảcủa sựcắt giảm quỹnghiên cứu chính phủ,và vềsựcạnh tranh ác liệt từhải ngoạiđang bắtđầu xói mòn vùng đất tài năng của Mỹ.“Thình lình những ngườiđào tạo tại Hoa Kỳnhậnđược những cơ hội mớiởnơi khác.”
Nhưng tác giảBen Wildavsky tin rằngcuộc thương mại tựdo trí tuệ(free trade in mind) sẽ đem lại lợi ích cho mọi quốc gia trên thếgiới, kểcảcho Hoa Kỳ,đem lại tiến bộvà phồn vinh chung; rằng các đại học tại các quốc gia ngoài Mỹ đang và sẽvươn lên mạnh mẽ,sẽcó những thành tựu nghiên cứu khoa học ngày càng có chất lượng cao, nhưng không đáng lo, điềuđó có lợi hơn có hại. Levin cho rằng sựtruyền bá tri thức và mởrộng vốn nhân lực toàn cầu“là một cơ hội hơn là một sự đe doạ”.Toàn cầu hoá, ông viết, là một“trò chơi-có tổng dương, positive-sum game, trong giáo dục cũng như trong kinh tế”,nghĩa là tất cảcác bên đều chia sẻ được lợi nhuận.“Toàn cầu hoá giáo dụcđại học sẽlàm lợi cho Hoa Kỳvà phần còn lại thếgiới bằng cách tăng tốc tiến bộcông nghiệp liên kết với khoa học và kỹthuật, và bằng cách tiếp thu các cách làm tốt nhất trên thếgiớiđểhạchi phí sản xuất và giá hàng hoá có thể được”như Richard Freeman, nhà kinh tếcủaĐại học Harvard viết. Ông cũng cho rằng cạnh tranh toàn cầu vềgiáo dụcđại học sẽcủng cốthêm vịtrí của Mỹnhư người lãnh đạo giáo dục, hơn là làm suy yếu nó. Thực tếtrong lịch sửnhân loại trung tâm khoa họcđã dịch chuyển nhiều lần: Bagdad, Tây Ban Nha,ThổNhĩ Kỳ,ẤnĐộ,Trung Hoa, Ý, châu Âu, đến Hoa Kỳ,Nhật Bản, các quốc gia phát triển trẻcủa châu Á. Nhưng ngày nay khoa họcđã được quốc tếhoá, toàn cầu hoá. Chỉcần có những chính sách phát triểnđúng đắnđểthu hút tài năng và tạo ra khoa học.
Theo Wildavsky, Hoa Kỳcũng như các quốc gia khác không nên đóng kín và phòng thủ,và phải mởcửa hơn nữa cho sựtrao đổi tựdo chất xám. Thực tếcác đại học Hoa Kỳ đang phát triển cơ sởgiáo dục họra ngoài, đặc biệt tại Trung Quốc. Họ đang giúp nâng cao chất lượngđại học và học thuậtở đó vào thời kỳTQ đổi mới mạnh mẽ,từng bước nới rộng tựdo học thuật, chấp nhận văn hoá trọngđãi nhân tài, trải thảmđỏcho các học giảhàng đầu, và các đại họcđẳng cấp thếgiớiđến hợp tác. Mởcác chi nhánh đại học (branch campus) của các đại học phương Tây trởthành một hiện tượng, nhất là từcác đại học Hoa Kỳ.Hiện nay có đến 162 chi nhánh như thế,một sựtăng trường 43% trong ba năm qua.
Dù chia sẻnhiều hay ít quan điểm này của Wildavsky, những nhà làm chính sách cần phải chuẩn bịcho cuộc chơi mới. Quyển sách là một“sựcân bằng giữa báo động và tựmãn” cho thếgiới giáo dụcđại học phương Tây đang thống trị(Garret Martin, European Affairs), nhưng đồng thời là lời cảnh báo nghiêm khắc cho các nềnđại học cònđang bịnhững cỗmáy cày nặng nềquan liêu kéo lê trên cánh đồng tham nhũng. Việt Nam chưa có vịtrí nào trên bảnđồgiáo dụcđại học thếgiới, và trong tương lai gần cũng chỉnhư thế.Đại học Việt Nam chưa đượcđặt vào đúng trung tâm điểm sinh động của hoạtđộng quốc gia. Đại học quốc tế được trao sứmệnh tạo ra sức mạnh tinh thần và vật chất cho xã hội, và là biểu tượng tinh hoa của quốc gia, tạo kỳvọng cho cá nhân và xã hội, hấp thu và chuyển hoá lực lượng lao động trẻcho cuộc công nghiệp hoá, hiệnđại hoá, hay cạnh tranh kinh tế,đào tạo tinh hoa và đem lại những giá trịmới cho cuộc sống,đem các thành phần xã hội lại gần gũi nhau, và mởrộng dân chủcho quốc gia. Đại học Việt Nam chưa làm được những việcấy.
Wildavsky nhắc lại như một lời cảnh báo, GS Philip Altbach trong một diễn văn năm 2007đã phát biểu: “Nhiều đại học trên thế giới không phải là các thể chế trọng đãi nhân tài (meritocratic institutions). Người ta được chọn vào đại học vì quan hệ,hay vì họ nằm trong những thành phần nào đó của dân chúng”, và Wildavsky kết luận rằng: “Đối với các quốc gia hay đại học muốn trởthành bộ phận của một cuộc traođổi, đối thoại hàn lâm toàn cầu, các chính sách hư hỏng nhưthế không thể tồn tại.”
Sựcạnh tranh đại học toàn cầu thúc đẩy các quốc gia phải xem xét lại toàn bộvăn hoá đại học, giá trị đại học, các yếu tốphi-học thuật như chính trị,ý thức hệchi phối; tư tưởngđặc quyềnđặc lợi, tham nhũng, quan liêu, mệnh lệnh, bè phái, guanxi, móc nối, tôn ti, thiếu tựdo học thuật, thiếu văn hoá trọngđãi nhân tài là những chướng ngại giam hãm và làm hạiđại học.Đại học cần phải liên kết với các đại học nước ngoài đểtạo ra sựlưu thông ý tưởng và văn hoá đểluôn luôn có những luồng gió mớiđem lại sức sống.
Nhưng một lần nữa: Xin đừng sợ sựdâng cao tri thức thế giới, ‘phương Tây không cần phải hoảng sợ’.Tri thức đã thay đổi thế giới, từ thời Trung cổ, hôm nay, và tương lai. Cuộc di dân trí thức từ thếkỷ 12 và các thế kỷ kế tiếp, rồi đến thời Phục Hưng, đã nâng cao mặt bằng tri thức của các quốc gia châu Âu. Ở đâu có tinh thần học thuật thông thoáng, có văn hoá trọng đãi nhân tài, tri thức sẽ đến. Nhưng đối với Việt Nam, đọc cuốn sách không thểnào không lo lắng cho tiền đồ nềnđại học nếu nó cứ mãi dậm chân và tự huỷ hoại. Để đón bắt tinh hoa thế giới, Việt Nam cần phải nỗ lực phi thường.

(7) Vai trò xã hội của đại học

Đại họcđã giữvững tên tuổi mình trên thếgiới gần ngàn năm qua là vì nó tiếp tục nỗlực bảo vệvà tăng cường vai trò của chân lý (truth) và phẩm chất xứngđáng (merit) trong thếgiới hàn lâm, và phục vụxã hội, tăng trưởng kinh tế(Clark Kerr). Benjamin Franklin (1706-1790) có lẽlà người Mỹ đầu tiên nhấn mạnh các đóng góp thiết thực của giáo dục cho nông nghiệp, thương mại và công nghiệp.Đó là sựbắtđầu tinh thần phục vụcộngđồng củađại học Hoa Kỳ,và điềuđó được thực hiện quy mô một trăm năm sau.
Đại họcđược quan niệm có nhiều nhiệm vụ,không phải chỉdịch vụ.Ngoài việc phục vụkinh tế,chính trị,quốc phòng, đại học còn có nhiệm vụgóp phầncải cách xã hội, do đó phải mang tính chất phản biện,dissenting. Noam Chomsky trong bài viết“Trách nhiệm của trí thức”cho rằng, trách nhiệm của họlà “sựtạo ra và phân tích ý thức hệ”,chứkhông phải chỉlà sựtạo ra các chuyên gia đểlàm bộmáy xã hội chạy tốt. Ý ông muốn nói: tạo ra ‘triết lý’ cho xã hội là việc có tầm quan trọng hơn. Theo Roszak, “công việc chính của hàn lâm là sựthẩm tra công (public examination) cuộc sống con người vềphẩm chấtđạođức của nó”.
Đại học cũng đã từng bịquan niệm là ‘ổdu kích’ (partisan camp) phục vụcho mục tiêu chính trịthuần tuý, chống lại xã hội xung quanh: đó là chiến lược của chủnghĩa quốc xã Đức, sau đó của Mao TrạchĐông (đại học‘công nông binh’), và một sốbắt chước khác trong những thập kỷhậu bán thếkỷ20. Dĩ nhiên thất bại.
Mộtđềtài mà quyển sách còn chưa đềcập tới,đó là giáo dục nhân bản, nằm trong phần giáo dục tổng quát, general education, những năm đầuđại học. Howard R. Bowen cho rằng“giáo dụcđại học phải là điểm chiến lược chịu lực củađòn bẩy trong việc sửađổi các giá trịthúc đẩy xã hội”,và “niềm tin chính vềmột xã hội tốt nằm trong giáo dục”và ông chờ đợi một thời kỳPhục Hưng của giáo dục tổng quáttại các đại học. Clark Kerr, nhà quản lý giáo dục huyền thoại của Hoa Kỳ,tuy chia sẻnhững mong muốnấy, nhưng lại có ít hy vọng. Ông nói “Giáo dục tổng quát đã suy sụp từba trăm năm qua. Nó hầu như bịtàn phá trong những năm cuối 60 và đầu 70. Báo cáo của QuỹCarnegie cho đó là ‘lãnh vực thảm hoạ’.” Robert Hutchins cho rằngđại họcđã trởthành “công nghiệp quốc hữu hoá” như hệquảcủa cuộc cách mạng công nghệvà sựhình thành nhà nước-dân tộc,nation-state.
Theo John S. Mill trong “Diễn văn khai mạc”,Inaugural Address, năm 1867 tạiđại học St. Andrew, “tri thức”(knowledge) và “lương tâm” (conscience) hỗtrợ,xoắn lấy nhau, và đại học cần phải biến sinh viên thành những chiến sĩ hiệu quảhơn trong cuộc chiếnđấu vĩ đại không ngừng diễn ra giữa Thượngđếvà cái Ác (Evil), trong khi John H. Newman trong quyển“Ý niệm của mộtđại học”,The Idea of a University, cho rằngđiểm nhấn của giáo dụcđại học không phải là chân lý mới, mà là minh triết cũ, là ‘dạytri thức nhân văn’ (liberal knowledge), và chính cái đó mới‘trang bịcho con ngườiđểhoàn tất mọi nhiệm vụ được giao phó thắng lợi, và làm chủmọi vấnđềmột cách dễdàng’; đại học là dành cho những con người toàn diện (generalist), hơn là chuyên viên (specialist);đại học là nơi dạy những‘tri thức phổquát’ (universal knowledge); vâng, đại học là một tháp ngà xinh đẹp (C. Kerr).

(8) Nhìn sang Singapore

Làn sóng toàn cầu hoá giáo dụcđại học ngày càng áp sát Việt Nam, muốn hay không muốn, như một cục nam châm. Ngày 11 April 2011 thủtướng Lý Hiển Long, cùng với chủtịchĐại học Yale, Richard Levin, một‘con người toàn cầu hoá’ giáo dụcđại học, chính thức làm lễphát động xây dựng Yale-NUS College Singapore cho chương trình cửnhân 4 năm, nhằm góp phầnđào tạo một giai tầng lãnh đạo mới của Singapore, với một chương trình giáo dục nhân văn kết hợp văn hoá Đông Tây ấn tượng, có lẽlầnđầu tiên tại châu Á. Nếu trướcđây Lý Quang Diệuđã “tây hoá” môi trường sống và kinh doanh của Singapore nhằm thu hút phương Tây đến làm ăn, đểkhách phương tây cảm thấy gần gũi, họ đã thành công tuyệt vời, thì nay, dưới thời thủtướng Lý Hiển Long, Singapore sẽ được nâng cấp lên vềmặt văn hoá, chuẩn bịcho chất lượng lãnh đạo với tri thức vềhai nền văn hoá Đông – Tây. Họsẽ là một típ người mới của Singapore. Một thử nghiệm hết sức thú vị. Giáo dục cử nhân có lẽ chỉ là giai đoạn một. Yale-NUS có thể có tham vọng đào tạo các lãnh đạo quốc gia như Yale đã và đang làm, đào tạo các tổng thống, thủ tướng, nhà kinh doanh, chính trịgia, học giả…
Văn hoá đã trở thành yếu tốngày càng quan trọng trong thế giới toàn cầu hoá, khi mà chủ nghĩa và ý thức hệ lần lần biến mất hay trở thành lỗi thời và tai hại . Cái còn lại sẽ là Văn Hoá. Samuel Huntington cho rằng thế giới đang bước vào giai đoạn của sự “xung đột văn hoá” (civilizational clash) trong đó con người được đặc trưng không phải bởi ý thức hệ, mà bởi văn hoá với sức mạnh (hay nhược điểm của nó). Không hẳn xung đột. Nhưng văn hoá sẽcó giá trị ngày càng trội bật. Singapore không có ý thức hệ đặc biệt ngoài một số nguyên tắc Khổng giáo phù hợp của nhà lập quốc Lý Quang Diệu, cũng không có tự do theo nghĩa các quốc gia phương Tây, nhưng khá cởi mở, một đặc tính cần thiết của sự thành công kinh tế.Một nền văn hoá đóng kín, bịchính trị hoá hay xơ cứng hoá, sẽ khiến đất nước có thểbị loại ra khỏi cuộc chơi. Sự toàn cầu hoá kinh tế và sự sống còn buộc các dân tộc phải xem xét lại toàn bộ văn hoá của mình, cần tái diễn giải những tư tưởng tiềm tàng trong văn hoá, của Khổng tử, Lão tử,Phật giáo,.., loại bỏ những cách nhìn lỗi thời gây cản trở và tăng cường các ý tưởng tích cực, phù hợp với sự đòi hỏi của phát triển xã hội…Tôn giáo phải hỗ trợ sự phát triển đất nước, chứ không được làm cản trở, hay quay lưng. Xung quanh, nhiều quốc gia đều có những tôn giáo giống nhau như Khổng, Phật; tuy các văn hoá đó không tự góp phần tạo ra được nền kinh tế hiện đại (như Tin Lành đã làm), nhưng khi dân tộc và giới lãnh đạo thức tỉnh, các quốc gia đó tạo ra các thần kỳkinh tế.
Đại học Yale-NUS sẽkhai trương vào năm 2013. Một chương mới của Singapore sẽbắtđầu. Một vùng “đất hứa”sẽmởra. Sựgiao lưu và đào sâu văn hoáĐông-Tây sẽlà nhân tốcàng tích cực cho việc phát triểnđất nước. Giới tinh hoa Singapore muốn có mộtprimacy, sự ưu việt, cảvềvăn hoá cho đảo quốc họ.Họlà một dân tộc giàu có, nay càng nghĩ thêm phát triển văn hoá ưu việt cho dân tộc họ.Đấy cũng là cách thu hút thêm giới tinh hoa từphương Tây cho nền kinh tếngày càng phải cạnh tranh cao. Hai triệu người nước ngoài sinh sống tại Singapore có thểgửi con em học cửnhận tại Yale-NUS với chương trình học (curriculum) thú vịmà không phải lo lắng.Đó cũng là một cách ứng phó của lãnh đạo Singapore với trận chiến nhân lực cao của toàn cầu hoá đã đượcđềcập nhiều trong giới lãnh đạo và học giảSingapore. Đảo quốc nhỏbé này có nguy cơ đứng trước sựbốc hơi tài năng, bởiđơn giản tài năng của Singapore đang có giá, và đang được truy tìm trên thịtrường. Chính phủ phải tìm cách giữchân tài năng lại, và bổsung sốmất mát bằng cách thu hút tài năng trẻmới từkhu vực,đượcđào tạo với chất lượng cao tại chính Singapore.

(9) ... và nghĩ về ta

Cuộc Cạnh Tranh Chất Xãm Vĩ Đại
là quyển sách cần phảiđọc,must-read, gốiđầu giường cho những ai muốn có cánh cửa sổnhìn ra một cuộc chuyểnđộng thếgiớiđang diễn ra mạnh mẽvà sẽ ảnh hưởng lên mọi quốc gia, từnhững quốc gia phát triển, mớiđược công nghiệp hoá, đến các quốc gia còn đang trên đường công nghiệp hoá, từsinh viên đến các bậc phụhuynh, đến các nhà làm chính sách giáo dục. Quyển sách là một‘kho tàng tri thức’được cập nhật mới nhất, qui mô, có lý luận phân tích và đúc kết thành nhận thức. Ai muốn xây dựngđại học hiệnđại,đại họcđẳng cấp quốc tế,ai muốn nhìn vào chiều sâu của lịch sử,sứmạng củađại học, những vấnđề đại học phảiđối mặt tương lai, quan trọng hơn: ai muốn có tầm nhìn, vision, cho nềnđại học tương lai của quốc gia mình, đều không thểbỏqua quyển sách có tính chất‘khai sáng’ này. Các sách về đềtài đại học hiệnđại với chất lượng hàn lâm hiện nay rất thiếu vắng tại Việt Nam.

Quyển sách Cuộc Cạnh Tranh Chất Xám Vĩ Đạicủa tác giả Ben Wildavsky được chọn lọc và chuyển ngữtrong khuôn khổhoạtđộng kỷniệmĐại học Humboldt lịch sử200 năm tuổi, mà kết quảcủa hoạtđộng này là sốKỷyếuĐẠI HỌC HUMBOLDT 200 NĂM (1810-2010), nxb Tri Thức 2011, với nhóm chủbiên: Ngô Bảo Châu, Cao Huy Thuần, Pierre Darriulat, Hoàng Tuỵ,Phạm Xuân Yêm và Nguyễn Xuân Xanh, và với sự đóng góp của trên bốn mươi tác giảtrong và ngoài nước.Đây là một tư liệuđại học qui môđầu tiên vềlịch sử đại học hiệnđại, vềtinh thần và sứmệnh củađại học, kinh nghiệm thếgiới, và tình hình đại học Việt Nam do các học giả,nhà nghiên cứu Việt Nam biên soạn. Quyển sách rất cần thiếtđượcđọc kèm đểhiểu thêm đại học thếgiới.Đại học là vấnđềsinh tửcho một quốc gia: to be or not to be.
Bây giờcác bạnđọc thân mến, xin hãy mởra những trang sách củaCuộc Cạnh Tranh Chất Xám Vĩ Đại của Ben Wildavsky và ‘thưởng thức’lẫn‘hồi hộp’,và qua đó hình dung sựthâm thụt hiện tại, và tương laicủađại học Việt Nam cần phải ra sao. Không như Ben Wildavsky nhắn nhủ,ông xuất phát từnềnđại học Hoa Kỳdanh giá, nhưng cũng không phải vững chắc tuyệtđối thời nay, tôi đọc quyển sách mà thấy sợcho Việt Nam lắm. Thông điệp của quyển sách gửiđến người Việt Nam, nhất là các cấp lãnh đạo chính trịcao nhất: phải nhanh chóng tiến lên toàn cầu hoá nềnđại học của mình, cải cách cơ chếvà tổchức, quản lý, chế độ,kết nối với các đại học hàng đầu thếgiới,‘quốc tếhoá’ hoạtđộng củađại học,đẩy mạnhAnh ngữlàm ngôn ngữquen thuộc trong học tập, nghiên cứu và giao dịch, thay đổi văn hoá, chấp nhận văn hoá trọngđãi tài năng,đầu tư mạnh mẽvào một sốít đại học quốc gia, một sốkhoa, ngành chủlực,đểtrởthành đại học hướng lên đẳng cấp, mà chưa mong đạt tớiđẳng cấp, hãy mởcác ngành khoa học công nghệcao, thuê các nhà khoa học và quản lý giỏi thếgiới tiếp sức.Đây phải là một cuộcđầu tư lớn hơn đầu tư SEA Games rất nhiều.Đại học gắn liền với sựphát triển củađất nước và quốc phòng, với sựbền vững non sông.

Tháng 11 năm 2011
Nguyễn Xuân Xanh

Tham khảo:
Hovard R. Bowen, The State of the Nation and the Agenda for Higher Education. Jossey-Bass 1982.
Gerhard Casper, Ưuđiểm của Đại học Nghiên cứu Tập trung. Đại học Thếkỷ 21. Trong Kỷ yếuĐẠI HỌC HUMBOLDT 200 NĂM (1810-2010). NXB Tri Thức 2011. Trang 739-753.
Noam Chomsky, The Responsibility of Intellectuals. The New York Review of Books, February 23, 1967.
Claudia Goldin and Lawrence F. Katz, The Race between Education and Technology. The Belknap Press of Harvard University Press 2008.
Clark Kerr, The Great Transformation in Higher Education 1960-1980. State University of New York Press, Albany 1991.
John Stuart Mill, Inaugural Address. Đọc tại Đại học St. Andrews, 1867. Trong Robert M. Hutchins and Mortimer J. Adler (eds), The Great Ideas Today1969. The University Today. William Benton Publisher 1989.
Mạng.Pak Tee Ng, Singapore và sự ứng phó với chiến trận toàn cầu về tài năng. Trong International Journal of Educational Development 31 (2011), 262–268. Bản dịch của Nguyễn Tiến Bình, trong http://chrd.edu.vn/site/vn/?p=2765
John Henry Newman, The Idea of a University. Frank M. Turner Editor. Yale University Press 1996.
Nguyễn Văn Tuấn, Chất Lượng Giáo dục Đại học Nhìn từ Góc độ Hội nhập. NXB Tri Thức& Thời Báo Kinh Tế Sàigòn 2011.
Ben Wildavsky, The Great Brain Race. Princeton University Press 2010
Nguyễn Xuân Xanh, Đại học. Lịch sử một ý tưởng. Trong Kỷyếu ĐẠI HỌC HUMBOLDT 200 NĂM (1810-2010). Chủ biên: Ngô Bảo Châu – Pierre Darriulat – Cao Huy Thuần – Hoàng Tuỵ - Nguyễn Xuân Xanh - Phạm Xuân Yêm. NXB Tri Thức 2011. Trang 33-143.
Đại học Yale-NUS Singapore: http://www.ync.nus.edu.sg.
Science and Empires. Historical Studies about Scientific Development and European Expansion. Patrick Petitjean, Catherine Jami and Anne Marie Moulin. Kluwer Academic Publishers, 1992.

Chú thích:
1Của học giả Hoa Kỳ Ben Wildavsky 2010, được xuất bản tại Việt Nam doĐại học Hoa Sen và nxb Tri Thức liên kết 2012, Tô Diệu Lan chuyển ngữ.
2Một ví dụ nữa về tính “chuyển dịch cao” trong đại học hiện tại phải kể đến Tiến trình Bologna nhằm thống nhất khung bằng cấp và hệ đào tạo ở các đại học trong một Không gian đại học châu Âu duy nhất, tạo điều kiện thuận tiện cho sự chuyển dịch SV và giáo chức. Tiến trình Bologna mở đầu năm 1999 với 29 nước tham gia, nay đã thu hút 47 nước, hầu như toàn bộ châu Âu. (chú thích của Diễn Đàn)
(*) Sự phân đoạn trong bài là của tác giả, tên các phân đoạn do Diễn Đàn đặt.







No comments:

Post a Comment

View My Stats