Dialika Neufeld
Phan Ba dịch từ Der Spiegel số 26 / 2012
Một người Tây Tạng lưu vong
trẻ tuổi tự đốt cháy thân thể mình và chạy trên đường phố như một ngọn đuốc
sống. Bức ảnh, được tình cờ chụp lại, trở thành thần tượng của cuộc chống đối
và tấm gương cho những người tự thiêu khác.
Phần còn lại của thân thể anh
ấy nằm trong một cái túi nhựa màu vàng của hiệu H&M, một đốt xương sống,
một mảnh xương to và nhiều mảnh xương nhỏ, một nắm bụi màu xám.
Nhưng Jamphel vẫn còn đó.
Jamphel Yeshi đang tự thiêu. Ảnh: Manish Swarup / DAPD
Anh ấy còn đó, mỗi buổi sáng, khi những người cùng sống
chung trong căn hộ với anh ấy thức dậy và mặt trời mọc trên khu phố Tây Tạng
của Delhi. Anh ấy vẫn còn với họ, khi họ bàn về quê hương của họ trong căn hộ
chung của anh ấy, mười thước vuông với năm tấm đệm ở trên sàn. Anh ấy ở trong
những con hẻm nhỏ quanh co của Majnu-ka-Tilla, nơi những lá cờ cầu nguyện bay
trên mái nhà trong màu xanh lá cây, vàng và xanh nước biển và những người phụ
nữ già bán momo của họ, bánh hấp có nhân rau quả. Có lẽ anh ấy cũng ở chỗ họ
khi truyền hình đang chiếu một phim hành động vào buổi chiều ngày hôm đấy.
Jamphel Yeshi vẫn còn ở đấy, vì linh hồn của anh ấy không
thể biến mất.
Anh ấy 27 tuổi, một thanh niên có đôi má dâng cao lên khi
anh ấy cười, người thích làm thơ và ngồi trong quán trà để đọc sách. Anh ấy còn
đi qua cuộc sống 49 ngày, ở đây họ tin vào điều đó, những người Phật giáo Tây
Tạng, những người bạn của anh ấy tin vào điều đó, Tsering, người em họ của anh
ấy tin vào điều đó.
Nhưng Jamphel Yeshi cũng còn ở đó, vì có bức ảnh đấy, cái
không ai có thể quên được.
Nó được dán lên tường nhà trong Delhi và Dharamsala,
trong những cộng đồng Tây Tạng lưu vong trên khắp thế giới. Nó lảng vảng trong
Internet. Tờ “New York Times” in nó, tạp chí “Stern” và tờ “Guardian” của Anh
quốc. Hai ngày sau khi bức ảnh thành hình, Jamphel Yeshi qua đời.
Bức ảnh được chụp vào ngày 26 tháng 3 của năm nay, vào
một ngày thứ hai. Nó chụp Jamphel Yeshi, vừa sau sinh nhật lần thứ 27 của anh
ấy, đang chạy trên một con đường đông người. Anh ấy mặc quần jeans và áo có tay
được xắn cao lên. Anh ấy chạy sải bước dài. Kéo theo ở phía sau một đám khói
đen và một quả cầu to bằng lửa.
Jamphel Yeshi đã tự thiêu. Anh ấy đã uống xăng từ trong
chai Cola trước đấy và đổ chúng lên thân thể của mình và đã đốt lửa. Anh ấy
chạy xuyên qua đám đông của hàng ngàn người Tây Tạng, những người đã tụ họp lại
vào ngày hôm đó để phản đối chuyến viếng thăm Ấn Độ của chủ tịch nước Trung
Quốc Hồ Cẩm Đào, chống lại sự đàn áp trong đất nước là quê hương của anh ấy.
Miệng của anh ấy mở rộng. Và những người mà anh ấy đến gần đều có thể ngửi được
anh ấy, nghe anh ấy hét lên. Cho một Tây Tạng tự do.
Anh ấy chạy được 50 mét, rồi ngã quỵ xuống dưới một gốc
cây. Các vết bỏng, bác sĩ nói sau đấy trong bệnh viện, chiếm 98% diện tích của
cơ thể anh ấy. Anh ấy còn sống được hai ngày, Jamphel Yeshi, đứa con của một
gia đình nhà nông từ Dawu ở miền Đông của Tây Tạng, học viên trong một khóa học
về máy tính. Anh ấy hỏi bạn bè của anh ấy trong bệnh viện: “Tại sao các bạn lại
không để cho tôi tự thiêu chứ?”
Jamphel là người Tây Tạng tự thiêu
để phản đối thứ 30 trong vòng 12 tháng. Từ sau khi anh ấy qua đời vào cuối tháng 3, thêm 11 người nữa tự thiêu trong Tây Tạng, thứ tư vừa rồi có hai nạn nhân tạm thời là
cuối cùng. Một người nữa ở Ấn Độ nhảy từ trên một cây cầu xuống. Đó
là đàn ông và phụ nữ, nhà tu và học sinh, nữ tu và nông dân.
Tại các quầy hàng ở chợ trong Delhi và Dharamsala người
ta bán DVD: “Real Tibetan Super Heros”
là tên của những cuốn phim đó, những cuốn phim chiếu cảnh Jamphel đang cháy.
Bạn bè của anh ấy bán áo thun, có cổ loại polo hay không có, hàng chữ “Tibet is
burning” ở trên đó. Ở mặt sau, người ta nhìn thấy Jamphel đang cháy.
Trong Tây Tạng và ở nơi lưu vong, những người chết đó
được tôn sùng như những người chết vì nghĩa. Nhưng không có ai nổi tiếng như
Jamphel Yeshi. Chỉ từ anh ấy mới có tấm ảnh đấy, cái thành hình vì ngẫu nhiên
có ai đó bấm máy khi anh ấy đang đứng trong lửa. Với tấm ảnh đấy, anh ấy đã trở
thành một người anh hùng áp phích. Trở thành một Che của Tây Tạng. Biến mất ở
phía sau đó là lịch sử của một thanh niên mà bạn bè gọi anh ấy là Yashi.
Vào ngày thứ 40 sau cái chết của anh ấy, ba trong số
những người bạn đó đã tụ họp lại trong căn phòng mà Jamphel đã sống ở đấy. Họ
đã đến đấy để thuật lại câu chuyện của anh ấy.
Người em họ của anh ấy Tsering Logya có ở đấy, anh ấy đặt
một chén cơm và rau cải bên cạnh chiếc giường của người chết, thêm đũa vào đấy.
“Để cho anh ấy đừng có cảm giác là người ngoài cuộc”, Tsering 24 tuổi nói, anh
ấy đeo một chiếc nhẫn nhỏ bằng vàng ở trên tai. Kelsang Norbu cũng có ở đấy,
người bạn từ thủa bé ở Tây Tạng, anh ấy ngồi cạnh Tsering trên tấm nệm. Và
Sonam Tseten cũng có ở đấy, láng giềng và bạn của Jamphel, người đã cố dùng một
cái áo thun để dập tắt lửa trên thân thể của anh ấy. “Da của anh ấy bám vào tay
tôi”, anh ấy nói, “nó rơi xuống như một mảnh quần áo.”
Vào sáng ngày 26 tháng 3, chỉ vài giờ trước khi anh ấy tự
thiêu, Jamphel ở đây lần cuối trong căn hộ sống chung lưu vong của anh ấy. Anh
ấy mặc quần áo, quần jeans, áo sơ mi và xếp chiếc chăn len màu đỏ của anh ấy
lại thành một hình chữ nhật. Anh đặt nó vào giữa tấm nệm mà anh vừa ngủ ở trên
đó. Anh đặt hai quyển sách lên trên tấm chăn, dựa chúng vào tường cho dễ trông
thấy. Một quyển sách có gương mặt của Đức Đạt lai Lạt ma. Quyển kia là một
quyển sách lịch sử Tây Tạng. Rồi anh ấy treo chuỗi hạt của mình lên một cây
đinh ở trên tường và chồng lên đó một cái bùa hộ thân với một vài mẩu đất Tây
Tạng ở trong đấy. Anh ấy cất lá thư từ biệt vào trong chiếc va li của mình.
Chỗ ngủ của Yeshi trong căn hộ sống chung. Ảnh: Der Spiegel
Anh ấy muốn để lại cuộc sống của mình như thế, ngăn nắp.
“Thật ra thì anh ấy không trật tự đến như thế đâu”, Tsering nói. Bây giờ anh ấy
tự hỏi rằng lẽ ra mình đã phải nhận ra được điều gì đấy.
Jamphel và người em họ ngủ cạnh giường nhau dưới tấm ảnh
của Đức Đạt lai Lạt ma. Tsering là một người thanh niên rụt rè, người nói nhỏ
tiếng và giật giật những cái vòng đeo tay trong lúc đấy. Có lẽ họ giống nhau,
anh ấy và người em họ của anh ấy. Jamphel cũng rụt rè và ít nói, những người
quen biết anh ấy nói. Anh ấy chưa bao giờ bàn về con gái, chưa bao giờ có một
cô bạn gái. Thay vì vậy, anh ấy đọc nhiều và cười to về các mục hài độc thoại
Tây Tạng trong truyền hình.
Anh không làm thay đổi gì ở các đồ vật của Jamphel,
Tsering nói. Anh ấy đứng bật dậy và đi đến cái tủ, anh ấy lấy một tấm ảnh cũ
ra, người ta nhìn thấy một ngôi nhà ở trên đấy, ngôi nhà mà Jamphel đã lớn lên
ở trong đó. Nó nằm trong một thung lung ở phía Đông của Tây Tạng, ở chân một
ngọn núi, một ngôi nhà đẹp, to, được xây theo lối truyền thống của Tây Tạng,
với mái nhà trắng như tuyết, có bốn lá cờ bay trên ống khói. Cũng có thể nhìn
thấy được một cái chảo vệ tinh.
Jamphel sống với cha mẹ của anh ấy ở đấy, những người là
nông dân, và với các anh chị em của anh ấy. Họ chơi bóng, họ đi xe đạp. Thỉnh
thoảng họ giúp việc trong mùa thu hoạch trên những cánh đồng trồng hành và bông
cải. Đó là một tuổi thơ tốt đẹp, chỉ là những đứa bé không có tự do. Jamphel
hiểu điều đấy khi anh ấy đến trường.
Ở đấy, anh ấy học được rằng Tây Tạng đã bị Trung Quốc
chiếm đóng ngay từ khi cha mẹ anh còn bé. Anh ấy học được rằng Mao Trạch Đông
trong lúc nắm lấy quyền lực năm 1949 đã tuyên bố việc Tây Tạng trở về đất mẹ
Trung Quốc là một trong những mục tiêu chính trị quan trọng nhất của ông ấy.
Anh ấy học rằng Quân đội Giải phóng Nhân dân đã xâm nhập vào Tây Tạng, quyền
cai trị ít lâu sau đó được chuyển sang cho người Trung Quốc và trong lúc đó
người ta đã ghi lại rằng Tây Tạng “là một trong những dân tộc có lịch sử lâu
dài ở bên trong biên giới của Trung Quốc.”
Thật sự ra thì đấy là lần bắt đầu của sự đàn áp. Tu viện
bị đóng cửa, hình thánh bị cấm, đối với người Tây Tạng thì đấy là khoảng khắc
mà, như Đức Đạt lai Lạt ma đã từng nói, “sự diệt chủng nền văn hóa của họ” đã
bắt đầu.
Ngay từ lúc chào cờ vào buổi sáng ở trong trường, Jamphel
và bạn đồng học đã bị bắt buộc phải hát quốc ca Trung Quốc. Họ phải học tiếng
Trung Quốc, không có tiếng Tây Tạng trong thời khóa biểu. Những điều mà họ biết
về văn hóa của họ, những điều đấy họ học được từ cha mẹ ở nhà hay trong các tu
viện. Khi Jamphel vào khoảng 14 tuổi, cha của anh ấy qua đời.
Jamphel cố sống như một người Tây Tạng. Khi có ai đó
trong cộng đồng qua đời, anh ấy giúp chuẩn bị đám tang theo truyền thống, mang
người chết đi, lo tìm những chiếc đèn dầu Tây Tạng và trà. Nhưng nếu chỉ có một
bức ảnh của Đức Đạt lai Lại ma thôi là cũng đã có nguy cơ bị phạt tù rồi. Quân
đội và cảnh sát Trung Quốc giám sát cuộc sống hàng ngày. “Khi có ai đó nói
‘Free Tibet’, thì đấy là một tội phạm còn lớn hơn cả giết chết một người Tây
Tạng”, Tsering nói, người em họ.
Jamphel đã chú tâm đến sự chống đối ngay từ sớm, nhưng
mãi đến những năm sau này, khi sống lưu vong, anh ấy mới có thể tự do nói về
việc đó. Anh đến quán trà nhỏ ở ngoại ô của Majnu-ka Tilla hầu như hàng ngày và
đọc những quyển sách lịch sử của nó. Anh ấy đọc về những người du kích đã cố
giành lại đất nước vào cuối những năm 50 như thế nào. Người Tây Tạng tổ chức
biểu tình ở Lhasa, viết truyền đơn như thế nào. Cuộc nổi dậy ở Lhasa đã xảy ra
như thế nào, ngay trước khi Đức Đạt lai Lạt ma đi lưu vong, cuộc nổi dậy mà
người Trung Quốc đã giết chết 3000 người Tây Tạng trong lúc đó.
Người Tây Tạng là một dân tộc chỉ có 6 triệu rưỡi người.
Cuộc đấu tranh của họ đi theo một nền văn hóa phi bạo lực. Làm sao mà họ có thể
chống lại khi tín ngưỡng của họ còn không cho phép giết chết một con côn trùng?
Vì thế mà họ bắt đầu tự giết chết mình, như phương cách chống đối. Năm 1998
Thupten Ngodup là người Tây Tạng đầu tiên tự thiêu ở Delhi. Lúc đấy Jamphel 13
tuổi.
(Còn tiếp)
Dialika Neufeld
Phan Ba dịch từ Der Spiegel số
26 / 2012
Hành động tự thiêu như hình thức chống đối về chính trị
đã khiến cho thế giới quan tâm đến kể từ những năm 60, nhưng phần nhiều là
những trường hợp riêng lẻ. Tháng 6 năm 1963, nhà sư Thích Quảng Đức đã tự thiêu
để chống lại chính phủ Nam Việt Nam. Trong những năm cuối của thập niên 1960,
người dân ở Hoa Kỳ tự thiêu để chống lại cuộc Chiến tranh Việt Nam. Trong quá
trình nhiều năm, người đối lập trong các quốc gia Đông Âu khác nhau đã tự
thiêu, như mục sư Tin Lành Oskar Brüsewitz từ Đông Đức. Trong nước Cộng hòa
Liên bang Đức, cô gái trẻ tuổi người Thổ Nhĩ Kỳ Semra Ertan đã tự thiêu tại một
ngã tư đường phố Hamburg năm 1982 vì sự thù địch người nước ngoài đang tăng lên.
Cả Mùa Xuân Ả Rập cũng bắt đầu với lần tự thiêu của người bán trái cây Mahammed
Bouazzizi.
Tưởng niệm những người Tây Tạng đã tự thiêu trong chùa ở Majnu-ka Tilla.
Ảnh: Der Spiegel
Khi Jamphel 19
tuổi, anh ấy tìm giấy và viết trên đấy những câu như “Không có nhân quyền ở Tây
Tạng” hay “Tự do cho Tây Tạng”. Anh ấy làm điều đấy hoàn toàn một mình, lúc đầu
anh ấy cũng không nói gì với bạn bè của anh ấy, mối nguy hiểm bị cảnh sát Trung
Quốc bắt được là quá lớn. Anh ấy đi trên đường phố vào ban đêm và dán truyền
đơn của anh ấy lên tường của các chi nhánh ngân hàng tại địa phương và ở đồn
cảnh sát.
Đó là hành động nhỏ của một thanh niên trẻ tuổi đang nổi
giận. Anh ấy trốn ngay trong đêm đó. Anh ấy đến được biên giới và cố tìm cách
đi từ đấy qua Nepal đến Ấn Độ để sống lưu vong. Anh ấy bị nhân viên biên phòng
Trung Quốc bắt được, họ đẩy anh vào tù.
Sau này, anh ấy sẽ thuật lại cho bạn bè về những gì mà
anh ấy đã trải qua: “Đồ chó Tây Tạng”, “Đồ phân Tây Tạng”. Anh ấy bị giam giữ
trong những gian phòng tối tăm nhiều ngày liền, bị đánh đập và thỉnh thoảng bị
tra tấn, với những vật nhọn mà họ đẩy vào dưới móng tay của anh ấy. Anh ấy bị
giam giữ hơn bốn tuần, bị chuyển chỗ nhiều lần. Đến một lúc nào đó, anh ấy lưu
lạc về đến gần quê nhà của anh ấy, và mẹ của anh ấy mua anh ấy ra khỏi tù. Sau
đó, Jamphel là một con người khác, bạn bè của anh ấy nói.
Bây giờ anh ấy bị đau đầu, mắt hoạt động không còn tốt nữa,
có lẽ do ở lâu trong bóng tối trong phòng giam. “Thỉnh thoảng, anh ấy thét lên
vào lúc ban đêm”, Tsering nói, lúc sống lưu vong vẫn còn thế. Rồi Jamphel nói
với anh rằng anh ấy đã mơ về trại giam.
Năm 2006, anh ấy lại tìm cách bỏ trốn. Lần này anh ấy tới
được Nepal, vào trại quá cảnh dành cho những người tỵ nạn Tây Tạng. Qua được
con đường trên Himalaya mà nhiều người đã thuật lại rằng nó nguy hiểm và khó
lòng đoán trước được. Vào ngày 6 tháng 3 năm 2006, Jamphel đăng ký tại
Dharamsala trong trại tiếp nhận người tỵ nạn Tây Tạng. Trong thành phố nằm
trước Himalaya mà Đức Đạt lai Lạt ma cũng đã chạy trốn đến đấy trước đây 53
năm.
Dharamsala là nơi hành hương cho các nhà sư và nữ tu,
những người leo lên núi trong chiếc áo cà sa màu đỏ cam. Dharamsala cũng là nơi
hành hương cho những người Phương Tây, những người với ba lô và tóc bết lại với
nhau đến đấy để đi tìm bản thân. Ai đến đấy đều ước mơ được ở gần Đức Đạt lai
Lạt ma. Đối với Jamphel, đấy là ngày đầu tiên trong tự do. Đấy cũng là ngày đầu
tiên của anh ấy trong sự bơ vơ của cuộc sống lưu vong.
Bây giờ Tsering, người em họ, lôi va li của Jamphel ra từ
trong tủ, màu xanh ô liu, hiệu Summit. Cả một cuộc đời nằm ở trong đó, được xếp
lại một cách ngăn nắp. Những vật ở trong va li, bên cạnh sách của anh ấy, là
tất cả những gì mà Jamphel sở hữu trong cuộc sống lưu vong: một cái quần nhung
kẻ, hai cái quần jeans, ba quần short, vài cái áo thun và, ở trên cùng, là một
lá cờ Tây Tạng, được cuộn lại thành một cái gói nhỏ. Jamphel cũng cất ở trong
đấy năm thẻ căn cước, cả thẻ lưu vong của anh ấy, cái mà anh ấy nhận được sau
khi bỏ trốn. Trên tấm ảnh, gương mặt anh ấy trông gầy ốm. Người ta có thể nhìn
thấy được những gì mà anh ấy đã trải qua.
Những người đến được với cuộc sống lưu vong thường có một
quyết định: hoặc là họ bỏ lại quá khứ và nắm lấy những cơ hội mà đất nước mới
đưa ra cho họ. Hoặc là họ hoạt động chính trị.
Jamphel quyết định hoạt động chính trị. Sau một thời gian
ngắn trong trại tỵ nạn, anh ấy nhận được giấy nhập học cho Tibetan Transit
School, một trường nội trú trên núi. Cờ cầu nguyện bay trên các sườn núi. Học
trò trong áo trắng đồng phục vội vã vào lớp học. “Jamphel hết sức ham học khi
anh ấy đến đây”, Tsering thuật lại, “anh ấy muốn biết tất cả. Anh ấy đọc, đọc
và đọc.”
Phòng của anh ấy vẫn còn đó. Phòng số 29 trong nhà nam
khu 3, giấy dán tường màu xanh lá mạ, thảm màu đỏ, ngồi co chân lại trên một
trong số năm chiếc giường là người cùng phòng ngày xưa của anh ấy Sirwou. Anh
chỉ đến một cái giường cao bằng sắt, ở đầu giường đó có sách giáo khoa, một
quyển mang tựa “Tibet under Communist China”, bên cạnh đó là một trái tim bằng
vải lông. “Anh ấy đã ngủ ở đấy”, Sirwou nói.
Jamphel học càng nhiều thì anh ấy càng trở nên chính trị.
Anh ấy thường ở cả ngày trong thư viện. Bây giờ anh ấy đã có thể tiếp cận được
với tất cả những kiến thức mà anh ấy thiếu. Anh ấy cố lôi kéo bạn đồng học.
Tranh luận với họ về tình trạng nhân quyền ở Tây Tạng, về việc Đức Đạt lai Lạt
ma có thể trở về Lhasa như thế nào.
Anh ấy có kế hoạch tự thiêu lần đầu tiên năm 2008.
Đó là năm của những cuộc nổi dậy lớn trong Tây Tạng. Đại
hội Thanh niên Tây Tạng (TYC) tổ chức một cuộc biểu tình ở Delhi để chống lại
lần tổ chức Thế Vận Hội ở Bắc Kinh. TYC là một tổ chức của những nhà hoạt động
đòi hỏi, khác với Đức Đạt lai Lạt ma, một nền độc lập toàn phần cho Tây Tạng.
Cũng là tổ chức đã tiến hành cuộc phản đối Hồ Cẩm Đào vào ngày 26 tháng 3.
Jamphel cũng như nhiều thanh niên Tây Tạng khác thường tham gia vào trong các
sự kiện đấy. Anh ấy đăng ký làm tình nguyện viên khi cần sự giúp đỡ tại các
cuộc biểu tình hay tại các sự kiện tôn giáo lớn. Lần này, Jamphel và Tsering
cũng nghỉ học và bước lên chiếc xe buýt về Delhi.
Tsering nhớ lại lúc họ đến khách sạn thanh niên trong
Delhi, nơi nhóm của họ nghỉ ở đó, và nhớ rằng Jamphel đã nói với anh ấy: “Hôm
nay anh sẽ tự thiêu.”
“Anh dọa”, Tsering nói.
“Không đâu”, Jamphel trả lời. Anh ấy chỉ cho Tsering xem
một chai xăng.
Tsering gọi điện thoại đến một người họ hàng lớn tuổi của
Jamphel, và bắt buộc Jampel phải nói chuyện với người đó. Về việc cái chết của
anh ấy chỉ là một sự phung phí. Về việc rằng là người sống thì anh ấy có thể
đạt được nhiều điều hơn nhiều. Anh ấy kéo những người bạn khác đến, và họ đã
giật được chai xăng. Họ cùng nhau đi xe về Dharamsala. Tsering nói: “Tôi nghĩ,
anh ấy đã hiểu rồi.”
Người em họ Tsering trong khu phố của anh ấy ở Delhi. Ảnh: Der Spiegel
Đó là ngày thứ 42 sau khi Jamphel qua đời, và trong chùa
Tsug-la Khang, chùa chính trong Dharamsala, người Tây Tạng chuẩn bị những cây
đèn dầu cho anh ấy. Họ muốn giúp linh hồn của anh ấy tìm thấy con đường đúng
đắn vào cuộc sống kế tiếp. Từ khi anh ấy qua đời, cứ bảy ngày là họ làm điều
đấy một lần.
300 người đã đến chùa, họ ngồi xếp bằng xuống đất và đọc
kinh của họ. Một tấm áp phích khổng lồ treo trên đầu họ. Trên đó là các bức ảnh
của Jamphel và những người Tây tạng khác đã tự thiêu trong năm vừa rồi.
Ngồi ở giữa là Tenzin Tsundue. Anh ấy là người lãnh đạo
Đại hội Thanh niên Tây tạng của Dharamsala. Anh ấy nói: “Đối với tất cả chúng
tôi, Jamphel đã xuất hiện như một quả cầu lửa khổng lồ.” Tsundua thắt một dải
khăn đỏ trên tóc của anh ấy, thêm vào đó là một chiếc kính mắt to và tròn có
gọng đen, anh ấy trông giống như Mr. Miyagi trẻ. Anh ấy là một nhà hoạt động
nổi tiếng, hay bị bắt giam. Vào ngày này, anh ấy tổ chức cuộc tưởng niệm những
người đã chết vì nghĩa.
Tsundue nhìn các cuộc tự thiêu như một con đường cao cả
để hướng sự quan tâm đến nỗi bất hạnh của người Tây Tạng. “Cao cả”, anh ấy nói
thế. Người Tây Tạng không thể diễn đạt được. Phản đối công khai bị cấm trong
Tây Tạng. Người Tây Tạng bị đánh đập, người Tây Tạng bị bịt miệng. Khác với Mùa
Xuân Ả Rập, không có truyền thông, không có mạng xã hội. “Anh bị đàn áp và còn
không thể thuật lại việc đấy với ai nữa. Chúng tôi còn lại gì ngoài việc tự
thiêu?”
Tôn sùng những người đã chết vì nghĩa không nguy hiểm
sao? Nó không khuyến khích nhiều người trẻ tuổi tự giết chết mình nữa hay sao?
Tại những câu hỏi như thế, giọng nói của Tsundues trở nên to hơn. Anh ấy nói
lớn: “Cả thế giới cho rằng chúng tôi phải hòa bình, chấp nhận hết tất cả và khi
chúng tôi tự thiêu – tức là không làm cho ai phải đau đớn cả ngoài chính chúng
tôi – thì chúng tôi lại bị lên án.” Trong mỗi một nền văn hóa khác thì đã có
một cuộc chiến tranh công khai từ lâu rồi. “Cả thế giới đều được phép dùng bạo
lực, Hoa Kỳ, người Anh, cả nước Đức cũng bước vào một cuộc chiến tranh.” Anh ấy
hỏi: “Tại sao chúng tôi không được phép tôn sùng những người chết của chúng
tôi?” Tsundue cảm thấy tính phi bạo lực đôi lúc cũng là một gánh nặng cho người
Tây Tạng.
Năm 2009, khi Jamphel học xong, anh ấy đi đến chỗ người
em họ Tsering của anh ấy trong Delhi. Anh ấy dọn vào trong căn hộ ở chung của
người này. Cuộc sống của anh ấy bây giờ mang nặng dấu ấn của nghiên cứu văn học
Tây Tạng và hoạt động chính trị của anh ấy, cả ở TYC. Anh ấy thường đăng ký
tình nguyện, giúp đỡ ở các sự kiện, các nhà hoạt động thuật lại như thế.
Khi một nhà sư trẻ tự thiêu ở Tây Tạng vào ngày 16 tháng
3 năm 2011 và người kế tiếp năm tháng sau đó, Jamphel theo dõi tường tận sự
việc. Bạn bè của anh ấy bàn về con gái. Anh ấy bàn về những người đã chết vì
nghĩa. Anh ấy nói về việc rằng đấy là một sự hy sinh to lớn. Anh ấy tham gia
các buổi tụng kinh cho những người đã chết vì nghĩa, ngồi dưới các tấm chân
dung của những người đã chết được treo trên quảng trường chùa của
Majnuka-Tilla. Có lẽ đấy là những khoảng khắc mà một quyết định dần chín mùi
trong đầu của anh ấy.
Vào buổi tối trước cuộc biểu tình phản đối, họ ăn cùng
với nhau, có món thukpa, món mì Tây Tạng với rau quả. Tsering có ở đó, Kelsang,
bạn của Jamphel từ thủa còn bé. Họ nói đùa, Jamphel cầm lấy chiếc điện thoại di
động của Tsering. Anh ấy chụp chính mình. Giống như anh ấy muốn để lại cho thế
giới một cái gì đó thần thánh.
Trước lúc đi ngủ, anh ấy lại xóa các bức ảnh đó đi, chỉ
để lại một tấm. Nó chụp cẳng tay trái của anh ấy, người ta nhìn thấy hình xăm
của anh ấy ở trên đó, một con rồng, anh ấy đã xăm ở Tây Tạng lúc trước đây. Bàn
tay nắm lại thành một nắm đấm.
Khi anh ấy rời phòng trong căn hộ ở chung của anh ấy vào
sáng ngày 26 tháng 3, những người khác vẫn còn ngủ. Anh ấy đi ngang qua chùa.
Anh ấy mang một cái ba lô trên lưng. Có lẽ anh ấy đã mang những chai xăng ở
trong đấy. Anh cột lá cờ quốc gia Tây Tạng trên ba lô.
Ở chùa, anh ấy gặp Lobsang, một người quen từ TYC, người
cùng tổ chức cuộc biểu tình phản đối Hồ Cẩm Đào.
“Này, siêu nhân, đi đâu thế?”, Lobsang hỏi, vì lá cờ trên
cái ba lô của Jamphel khiến cho anh ấy nghĩ đến một cái áo choàng.
Jamphel mỉm cười. “Mình đi biểu tình”, anh ấy nói.
Anh ấy chết trong bệnh viện. Người ta đã tuyên bố cái
chết của anh ấy vào ngày 28 tháng 3 vào lúc 7 giờ 30. Trong lá thư từ biệt, anh
ấy viết: “Cầu xin Đức Thánh Đạt lai Lạt ma, người tranh đấu cho hòa bình thế
giới, sống hàng chục nghìn năm nữa. Ngài phải trở về Tây Tạng.” Anh ấy viết
tiếp tục: “Hy sinh thân thể quý giá của con người cho ngọn lửa trong thế kỷ 21
là một dấu hiệu của sáu triệu người Tây Tạng gửi đến thế giới: người Tây Tạng
không có nhân quyền … Tây Tạng thuộc về người Tây Tạng.”
Những gì còn lại của thân thể anh ấy sẽ được đưa vào
trong một đài tưởng niệm, một đốt xương sống, một mảnh xương lớn, nhiều mảnh
xương nhỏ và một nắm bụi. Chúng được trữ trong một cái túi nhựa màu vàng trong
văn phòng của TYC cho tới chừng đó.
Vào ngày thứ 49 sau khi anh ấy chết, linh hồn của Jamphel
Yeshi bước vào cuộc sống kế tiếp. Người em họ của anh ấy nói: “Chúng tôi hy
vọng anh ấy sẽ trở về làm người.”
Jamphel đã đi khỏi rồi.
Dialika Neufeld
Phan Ba dịch từ Der Spiegel số 26 / 2012.
No comments:
Post a Comment