Viên
Linh
Wednesday,
July 18, 2012 2:26:59 PM
Mỗi sinh nhật tôi lại nhớ đến bài thơ ấy của Cung Trầm Tưởng.
Mỗi đêm mưa tôi lại đọc bài thơ ấy của Cung Trầm Tưởng. Ðó là mùa mưa Sài Gòn.
Ðó là Sài Gòn của chúng tôi.
Cung
Trầm Tưởng, cầm lá sớ thơ, và Viên Linh tại trụ sở Trung Tâm Văn Bút Việt Nam
Hải Ngoại trên đường Bolsa, quận Cam, 1992. (Hình: Phan Diên)
Ðó
là những năm cuối thập niên '50, những năm của Hiện sinh, của bản ngã, của đời
sống thanh niên thành phố vừa vào tuổi hai mươi, của những đêm khuya ngã tư đèn
vàng, những đầu tháng tạp chí văn chương. Của khói thuốc và sách vở. Của những
buổi hẹn hò ở một góc sân trường; những cuộc tiễn đưa nơi sân ga bến buýt. Của
vào đời và tan tác.
Mưa rơi đêm lạnh Sài
Gòn
Mưa hay trời khóc
đêm tròn tuổi tôi.
Mưa hay trời cũng
thế thôi
Ðời nay biển lạnh
mai bồi đất hoang.
Hồn tu kín xứ đa
mang
Sớm hao tâm thể chớm
vàng lượng xuân.
Niềm tin tay trắng
cơ bần
Cuối hoàng hôn lịm
bóng thần tượng xưa.
Ðêm nay trời khóc
trời mưa
Gió lùa ẩm đục trời
đưa thu về
Trời hay thu khóc ủ
ê
Cổ cao áo kín đi về
đường tôi.
(Ðêm
Sinh Nhật, Cung Trầm Tưởng)
Ðó
là chúng tôi. Ðó là Sài Gòn của chúng tôi, những năm đầu của cuộc vận động đổi
mới chữ nghĩa, - dăm ba thần tượng sụp đổ, một vài trường phái manh nha. Chúng
tôi ghi nhận trong bất cứ cuộc vận động nào, thơ đi trước. Thơ bao giờ cũng đi
trước; thi sĩ là kẻ tiền-hô. Có bao giờ chưa, một cuộc vận động văn học thi sĩ
lại không ở hàng đầu? Một biến động thời thế thi sĩ lại không biến đổi trước
nhất? Giữa thập niên '20 Phan Khôi là người phá thể [với bài thơ Tình Già]. Ðầu
thập niên '30 Ðoàn Phú Tứ là kẻ xoay vần [với nhóm Xuân Thu Nhã Tập]. Ðể hình
thành nền Thơ Mới. Ra ngoài đất nước, cũng chính là thơ trước nhất đã dựng lại
một nền văn học. Vũ Khắc Khoan làm thơ. Mặc Ðỗ làm thơ. Võ Phiến làm thơ. 1975,
những nhà văn phải làm thơ. Ðương nhiên các thi sĩ không làm gì khác là làm
thơ. Trong khi các nhà văn phải làm thơ vì biến động trước mắt thì các thi sĩ
đã làm thơ rồi, vì biến động đã ở dưới chân thi sĩ, từ lâu, trên các nẻo đường
xuôi ngược của thi sĩ, không ngừng.
Không
biết làm thơ, vào trong tù, ai cũng có thể làm thơ. Thế thì khi thi sĩ vào tù,
thi sĩ thường thường ở tù lâu hơn các ông tướng, và các thứ. Vào tù binh tướng
bị lột khí giới; vào tù, khí giới của thi sĩ còn nguyên. Bạn tôi cũng vậy. Cung
Trầm Tưởng cũng vậy, trước sau gì cũng vẫn làm thơ. Ở ngoài đời là một tay làm
thơ. Tựa bên phải thì làm thơ bằng tay phải; tựa bên trái thì làm thơ bằng tay
trái. Vào tù, hai tay bị còng, thì có “Lời Viết Hai Tay.”** [**nhan đề một thi
phẩm của CTT.]
Từ
cuối thập niên '50 trở đi, Lục Bát Việt Nam không bao giờ còn như xưa nữa. Hình
sắc, âm điệu, ngôn ngữ của hai dòng 6-8 đó - như một thôn nữ khăn vuông mỏ quạ
váy quai cồng của đồng chiêm lúa mùa nhiều thế kỷ trước chốn Phong Châu - hiện
thành Vệ Nữ và Hoàng hậu, hiển lộng và rực rỡ - nhưng lại có chút man dại của
bản năng và nhịp thở phố xá, qua thơ Cung Trầm Tưởng.
Ðến anh thì đến hôm
nay
Lỡ mai gió giật chở
đầy mưa qua
Ðến anh thân thể lụa
là
Dài đuôi con mắt
ngắn tà váy kiêu
Ðến anh lưng thắt
chiết yêu
Sểnh tâm phá giới
con diều ái ân
Chờ em anh để râu
xanh
(Râu
Xanh, Cung Trầm Tưởng)
Trước
1975. Một hôm Cung Trầm Tưởng đến tòa soạn Tạp chí Thời Tập của tôi trên đường Nguyễn
Trãi Chợ Lớn rủ tôi đi Cần Thơ dự Ðêm Con Ðuông. Con đuông là một thứ Nhộng của
xứ dừa, họa sĩ Ngy Cao Uyên ở Cần Thơ lấy tên Con Ðuông đặt tên cho nhà xuất
bản của anh, in ra những tập thơ mỏng, bìa là một họa phẩm nguyên tác nhỏ bằng
lòng bàn tay; “Lục Bát Cung Trầm Tưởng”
được in ra trong khuôn khổ này. Tôi còn nhớ chuyến bay chỉ có 4 người, kể cả
phi công. Khi chiếc Bà Già bay trên ruộng rừng đất nước, nhìn ngắm những hố bom
B.52 phía dưới, chúng tôi nói về những tàn phá của cả thù lẫn bạn. Rồi cũng
không quên nói về thơ. Ðêm ấy trên những chiếc giường sắt trong căn cứ Không
đoàn Vận tải (mà ông họa sĩ chủ trì là trung tá chỉ huy trưởng), chúng tôi nói
về màu sắc trong thơ.
1992.
Nhớ Cung Trầm Tưởng, không có việc gì, với tấm bản đồ thành phố Paris trong
tay, tôi đã lên một con tàu và bước xuống một sân ga: “Ga Lyon đèn vàng”. Sau
này qua điện thoại, tôi kể anh nghe tôi xuống sân ga đó không phải để kiểm
chứng xem bạn ta có phải là người đi xa về rồi nói chuyện linh tinh hay không,
như ở ga Lyon đèn trắng lại nói nó đèn vàng hay không, mà tôi xuống đó, để đứng
ở ga Lyon và ngó lên mấy ngọn đèn, nhớ bạn, và đọc thơ bạn và hát nhạc Phạm Duy
ở đấy. “Lên xe tiễn em đi, chưa bao giờ buồn thế.”
Ngược
lại, cũng qua điện thoại, Cung Trầm Tưởng thuật lại tôi nghe khi còn ở Sài Gòn,
sau 10 năm ở tù cộng sản ra, đang lóng ngóng chuyện rời bỏ quê hương, thì nghe
tôi nói về anh và về Thơ Lục Bát của chúng tôi trên đài Radio France
International. Bài nói trên đài RFI ấy chính là trong cái dịp tôi bước xuống ga
Lyon vào năm 1992 đó. [Dường như là do Thụy Khuê phỏng vấn.] Và ở hai phía địa
cầu, như thế, cái tiếng Lục và cái tiếng Bát mà chúng tôi làm ra, chúng tôi
ngâm lên, đã cùng được nghe thấy, trong một phút một giây của thời gian thật:
Hồn tôi cái đĩa thâu
thanh
Tròn nguyên nét nhạc
trung thành ý ca
Ðồ rê mi phá sol la
Ngẫm từng âm điệu
nghe ra trời buồn.
“Cơ
bản, Thơ vượt lịch sử.” Cung Trầm Tưởng nói. Tôi đồng ý. Lịch sử vốn tái diễn
không ngừng, thơ vốn hồi sinh cùng thi sĩ. Lịch sử lập lại. Thơ không lập lại.
Thơ xướng danh lịch sử và sang vòng chuyển hóa mới. Hiện tại của lịch sử là nhà
tù: Tập thơ “Lời Viết Hai Tay” là dĩ vãng của thi sĩ.
Viên
Linh, Lời bạt cho thi phẩm của Cung Trầm Tưởng, 1992
Bổ
sung 2012
-----------------------
Đọc thêm
:
No comments:
Post a Comment