Thursday 19 July 2012

VÀI KHUÔN MẶT TIÊU BIỂU CỦA MẠCH NGẦM VĂN CHƯƠNG NAM BỘ (Du Tử Lê)




Du Tử Lê
Wednesday, July 18, 2012 2:18:45 PM

Nói tới văn chương Nam bộ, là nói tới chiếc chìa khóa căn bản của dòng văn chương này như ngôn ngữ và, văn phong đặc thù. Nhưng sự khác biệt giữa hai dòng văn chương Nam bộ và miền Bắc di cư, không chỉ nằm nơi những vận hành tự nhiên của ngôn ngữ, biểu thị những mô tả, tình cảm, ưu tư của con người trong cuộc sống, cái chết.

Nhà văn Bình Nguyên Lộc

Cụ thể như, nếu dòng văn chương miền Bắc, về hình thức, mưu cầu đạt tới những kỹ thuật mới mẻ, tân kỳ; mô phỏng theo những trào lưu văn học Tây phương, từ lãng mạn qua tới tượng trưng, siêu thực hoặc cận đại hơn như trào lưu tiểu-thuyết-mới, hay phong trào văn chương hậu-hiện-đại, thì các nhà văn Nam bộ dường chỉ bận tâm về hiệu quả chuyển đạt hay sự tương thông dung dị, gần gũi giữa nhà văn và người đọc mà thôi.

Một trong những nhà văn Nam bộ, nổi tiếng trong 20 năm Văn Học Miền Nam là Sơn Nam. Ông có một truyện ngắn rất phổ biến, nhan đề “Tình nghĩa giáo khoa thư”. Chuyện kể chuyện phái viên một tờ báo ở Saigon, lặn lội về một xã nhỏ thuộc tỉnh Rạch Giá, để tìm một độc giả đã thiếu tòa soạn tới 6 tháng tiền báo dài hạn. Tác giả ghi lại phần mô tả của ông xã trưởng về nhân vật được tìm kiếm như sau:

“...Anh ta nói có dây có nhợ, tích người học trò nghèo tên là người Thừa Cung gì đó... chăn heo; ông quan đại thần Lý Tích đích thân nấu cháo cho chị ăn dè đâu bị lửa táp cháy râu. Chưa hết đâu, thầy phái viên ơi! Hễ gặp ai say rượu anh ta nói một hơi như thầy chùa tụng kinh, có ca có kệ. Cái gì mà các anh hãy trông người kia đi ngoài đường, mặt đỏ gay, mắt lờ đờ...” Thầy phái viên cười lớn, nhịp mạnh tay xuống bàn ba bốn lần như đánh trống chầu hát bội, đôi mắt sáng ngời, chân nhảy nhót như con nít: “- Hay quá! Hay quá! Tôi thăm ông độc giả đó mới được. Ổng làm thầy giáo hả thầy? Nhờ thầy đưa tôi đi tới gặp mặt. Ngộ quá hen! Ừ! Ừ!” (Trích “Những truyện ngắn hay nhất của quê hương ta,” trang 508, Sóng XB, Saigon 1974.) (1)

Cả đoạn văn người đọc không thấy một so sánh hay liên tưởng tân kỳ nào, ngoài những hình ảnh và, những ngôn từ rặc chất Nam bộ.

Lại nữa, các nhà văn Nam bộ tuồng cũng không chú tâm lắm tới phần tả cảnh (nhất là với các truyện ngắn). Ða số chỉ chú trọng những chi tiết về nơi chốn, dữ kiện cụ thể, hầu giúp người đọc cảm nhận câu chuyện được kể là có thật. Thí dụ truyện ngắn “Chuyện tình” của nhà văn nổi tiếng Ngọc Linh, với hình thức nhập đề trực-khởi:

“Tôi cầm hai quyển tiểu thuyết ‘Cuốn theo chiều gió’, sắp hàng đứng trước quầy thu tiền và xếp lá phiếu ghi giá lên quầy theo thứ tự, chờ tới phiên mình trả tiền. Hôm nay sắp bãi trường, nhà sách Khai Trí thật là đông. Mọi người đứng chen chân với nhau để lựa sách. Bà chủ vốn là người điềm đạm, ít nói mà có lúc cũng lên giọng: ‘- Xin lỗi! Ông chờ một chút! Chưa tới phiên mà!’ Ðứng trước tôi là một cô gái rất đẹp, mặc đầm, áo sơ mi trắng, jupe soirée màu xanh đậm, tóc xõa mượt mà ngang vai. Nhìn thoáng qua đã thấy có cảm tình. Cô ta ôm một chồng sách trên tay, cao gần tới cổ, có hơn 10 cuốn sách dày, bìa cứng. Khách mua hàng càng chen lấn, cô càng xoay xở khó khăn. Ðứng đợi lâu quá có lẽ mỏi tay, nên cô gái đặt chồng sách. Người bán hàng ngó cô, cô mỉm cười lấy lòng, chớ không nói một lời...” (2)

Ngay nhà văn Bình Nguyên Lộc, một tên tuổi hàng đầu của văn giới Nam bộ, trong truyện ngắn nổi tiếng “Rừng mắm,” mở đầu truyện, tuy có mô tả cảnh vật, nhưng ông cũng chỉ mô tả một cách giản dị, dễ hiểu, tựa như văn nói:

“Chim đang bay lượn bỗng đứng khựng lại, khiến thằng Cộc thích chí hết sức. Nó theo dõi con chim thầy bói ấy từ nãy đến giờ, chờ đợi cái giây phút nầy đây.
Thật là huyền diệu sự đứng yên được một chỗ trên không trung, trông như là chim ai treo phơi khô ngoài sân nhà.
Chim thầy bói nghiêng đầu dòm xuống mặt rạch giây lát rồi như bị đứt dây treo, nó rớt xuống nước mau lẹ như một hòn đá nặng. Vừa đụng nước, nó lại bị bắn tung trở lên như một cục cao su bị tưng, mỏ ngậm một con cá...” (Sđd. Trang 13) (3)

Cũng vậy, về nội dung, các nhà văn Nam bộ tuồng không hề nêu ra trong văn chương của họ, những tình huống tâm lý trầm trọng, hiểm hóc, xa rời thực tế. Họ cũng không mấy bận tâm về những vấn đề có tính cách triết lý, siêu hình như “Thượng đế đã chết” (?)Một đại ngôn của triết gia F. Nietzsche. Hoặc “địa ngục ta là kẻ khác,” một câu văn gây chấn động một thời của cha đẻ thuyết hiện sinh Jean Paul Sartre.

Vấn đề của các nhà văn Nam bộ là đem mọi hoạt cảnh đời sống hàng ngày của đám đông vào văn chương. Ngọn hải đăng cho cõi văn chương của họ, thường không ra ngoài những tiêu chí căn bản như nhân, nghĩa, lễ, trí, tín. Cộng thêm tinh thần hào hiệp, giúp người sa cơ, nâng đỡ người kẻ thất thế... vốn là truyền thống của người dân miền Nam. Vì thế, kết thúc truyện ngắn hay truyện dài của họ, thường mang thông điệp nhắc nhở, răn dạy người đọc ăn ở hiền lương, cao thượng...

Nhà văn Sơn Nam và thủ bút.

Tính chất không cầu kỳ, không bí hiểm của dòng văn chương miền Nam 20 năm trước đây, cũng phản ảnh rõ nét trong thi ca nhiều tác giả như:
“chiều nay bất chợt cơn mưa đổ xuống
may mắn anh tìm được mái hiên nhỏ nhắn trú mưa...”
(Trương Ðạm Thủy, “Mái Hiên Mưa,” hợp tuyển “Bến Tâm Hồn: Tôi còn kỷ niệm,” trang 78. Thanh Niên XB. Saigon 2009) (4)

Hay:

“Ồ thích quá! Linh hồn ta cao ngất
Và không gian nhỏ lại gấp trăm lần.”
(Tâm Ðạm, “Say Xuân.” Sđd. Trang 21.) (5)


Hoặc:
“Buổi sáng nào nhẹ giọt sương tan
em mặc áo vàng màu vua chúa,
buổi trưa nào nắng đổ
mặt trời vàng thêu áo lụa em bay.”
(Thiên Hà, “Hạ vàng.” Sđd. Trang 96) (6)

Hoặc nữa:

“Ong bầu vờn đọt mù u
Lấy chồng càng sớm, tiếng ru càng buồn.”

(Kiên Giang, “Quê hương thơ ấu.” Sđd. Trang 126) (7)

Tôi trộm nghĩ, có dễ vì đặc tính không cầu kỳ, không bí hiểm, xa rời quần chúng, nên dòng văn chương Nam bộ là mạch ngầm ăn sâu, bám rễ bền chặt trong sinh hoạt tinh thần của đại đa số người dân miền Nam. Và, giá trị lớn lao của nó, ở chính chỗ đó.

Du Tử Lê,
16 tháng 7, 2012

Chú thích:

(1) Nhà văn Sơn Nam, tên thật Trương Minh Tài (khai sinh ghi Tầy) sinh năm 1926 tại Rạch Giá, mất năm 2008 ở Saigon.
(2) Nhà văn Ngọc Linh, tên thật Dương Ðại Tâm, sinh năm 1931 tại Cà Mau, mất năm 2002 ở Saigon.
(3) Nhà văn Bình Nguyên Lộc, tên thật Tô Văn Tuấn, sinh năm 1915 tại Biên Hòa, mất năm 1987 tại Hoa Kỳ.
(4) Nhà thơ Trương Ðạm Thủy, tên thật Trương Minh Hiếu, sinh năm 1940 tại Bến Tre.
(5) Nhà thơ Tâm Ðạm/Dương Trữ La, tên thật Dương Ngọc Lạc, sinh năm 1937 tại Gia Ðịnh, mất năm 2000 ở Saigon.
(6) Nhà thơ Thiên Hà, tên thật Dương Cao Thâm, sinh năm 1941 tại Cà Mau. Ông hiện chủ trương hợp tuyển “Bến Tâm Hồn,” đăng tải thơ, văn, họa của những người nổi tiếng trước thời điểm 1975.
(7) Nhà thơ Kiên Giang, tên thật Trương Khương Trinh sinh năm 1928 tại Rạch Giá.

---------------------------------------


Du Tử Lê
Wednesday, July 11, 2012 2:56:20 PM

Cho tới ngày hôm nay, nhìn lại sinh hoạt của miền Nam Việt Nam, giai đoạn 1954-1975, không ít người cho rằng, cuộc di cư của hơn 1 triệu đồng bào miền Bắc chạy trốn cộng sản, vào miền Nam, đã xới tung nếp sinh hoạt êm đềm, của người dân vùng đất trù phú, hiền hòa này!

Nhà văn Trương Ðạm Thủy. (Hình: tp)

Vẫn theo ghi nhận của số người đó thì, có thể do bản năng sinh tồn mạnh mẽ, sau khi đã chấp nhận bỏ lại sau lưng toàn bộ gia sản, sự nghiệp, mồ mả cha ông... những người miền Bắc di cư vào Nam với hai bàn tay trắng đã trở thành những người bằng mọi giá, quyết liệt làm lại cuộc đời nơi phần đất mới...

Quyết tâm làm lại cuộc đời từ con số không, của lớp người Bắc vừa kể, đã vẽ nên một bức tranh đầy những game mầu nóng hổi, chói gắt trên tất cả mọi lãnh vực. Từ xã hội, chính trị, thương mại tới văn hóa, giáo dục... Cụ thể và, rõ nhất là lãnh vực văn học, nghệ thuật.

Cho tới nay, không ai biết chính xác có bao nhiêu văn nghệ nằm trong con số trên một triệu đồng bào miền Bắc di cư vào Nam. Chỉ biết, ở lãnh vực nào thì đó cũng là những con số không nhỏ. Từ những nhà văn, nhà thơ, nhạc sĩ, ca sĩ nổi tiếng từ thời tiền chiến, đến những văn, nghệ sĩ mới nổi tiếng trước cũng như điểm mốc lịch sử 1954 một vài năm... Họ xuất hiện ở miền Nam, tưng bừng, đông đảo như những đợt sóng mới mẻ, quyến rũ nhất.

Chính sự ồn ào, khoa trương và, sự công kênh nhau, đôi khi quá đáng, của lớp văn nghệ sĩ này, đã khiến một số người nghĩ rằng, trước khi có người Bắc di cư, miền Nam chỉ có một nền văn học, nghệ thuật èo uột, thiếu máu. Sự thực, không phải thế. Sự thực ngược lại.

Nếu không kể bộ môn Cải Lương là nét đặc thù, độc đáo của sinh hoạt văn nghệ miền Nam, thì trong lặng lẽ, an bình như bản chất người dân, như cảnh thổ êm đềm của hai dòng sông Tiền, sông Hậu, sinh hoạt văn học nghệ thuật Nam bộ (ta có thể dùng cụm từ này cho dễ phân biệt,) vốn đã vô cùng phong phú.

Không cần phải lùi lại thời của các nhà văn miền Nam nổi tiếng như Hồ Biểu Chánh, Phi Long... chỉ cần tính từ điểm mốc lịch sử 1954, trước cũng như sau cuộc di cư của đồng bào miền Bắc, sinh hoạt văn học nghệ thuật miền Nam đã ghi đậm tên tuổi, tài năng của những Bình Nguyên Lộc, Sơn Nam, Phi Vân, Trang Thế Hy, Tô Nguyệt Ðình, Kiên Giang-Hà Huy Hà, Trọng Nguyên, Dương Hà, Ngọc Linh, Sĩ Trung, Hà Liên Tử, Lê Vĩnh Hòa, v.v. Sau lớp nhà văn nhà thơ vừa kể, là lớp những người cầm bút Nam bộ, sinh trước hoặc sau thập niên (19)40 vài năm. Trong số này, có nhiều tên tuổi còn vang danh tới bây giờ, như Dương Trữ La, Tường Linh, Hoài Ðiệp Tử, Trương Ðạm Thủy, Anh Việt Thu, Thiên Hà, Phương Triều, Lý Thụy Ý... Tôi gọi những cây bút Nam bộ này là “Thế hệ 1960” hay những định hình nền móng của dòng văn chương mạch ngầm, hai mươi năm miền Nam.

Khi dùng cụm từ “dòng văn chương mạch ngầm,” ý tôi muốn đề cập tới hai dòng chảy song song của văn học, nghệ thuật miền Nam, 20 năm. Một dòng chảy ồn ào, sôi nổi trên bề mặt là sinh hoạt văn chương, báo chí, trình diễn... có ảnh hưởng giới hạn! Nó chỉ phổ cập trong tầng lớp thị thành. Ðó là giới văn nghệ sĩ di cư từ miền Bắc.

Cùng lúc đó, miền Nam còn có một dòng chảy đã bám rễ, ăn sâu trong sinh hoạt tinh thần của đại đa số quần chúng, nhất là lớp người sống với đồng ruộng, nông thôn, xa thị thành. Ðó là dòng chảy văn học Nam bộ.

Tuy cùng một mẫu số chung là cung ứng món ăn tinh thần cho đám đông; đồng thời xiển dương tính nhân bản như một nền tảng giá trị của văn học, nghệ thuật - Nhưng đặc tính của sinh hoạt văn nghệ Nam bộ, không có thói quen, tập quán ca tụng nhau trên các diễn đàn công cộng. Lớp cầm bút đàn anh, đi trước, lặng lẽ theo dõi, quan sát lớp đàn em đi sau. Một khi nhận ra tương lai hoặc khả năng tiềm tàng nơi những cây bút mới, lớp đàn anh này bày tỏ sự nhìn nhận, bằng cách quan tâm tới sinh kế, đời sống vật chất hàng ngày của những tiềm năng trẻ đó.
Theo tôi, có dễ vì bản chất người người miền Nam là “trọng nghĩa khinh tài,” - Là tinh thần của những anh hùng Lương Sơn Bạc, sống quên mình cho kẻ khác. Không bo bo lo cho bản bản thân. Không chăm chắm thu vén tiền tài, danh vọng cho cá nhân mình. Nên, trong êm ả, thầm lặng, giới cầm bút Nam bộ là một khối keo sơn, đoàn kết trong tinh thần tương trợ mặc nhiên, giữa những người cùng ngành nghề.

Cũng vì thế, trong suốt 20 năm văn học, nghệ thuật miền Nam, người ta chỉ ghi nhận được một vài cuộc bút chiến nảy lửa, do bất đồng quan điểm văn chương hoặc triết học, từ giới văn nghệ sĩ miền Bắc di cư mà, tuyệt nhiên, không một tai tiếng tương tự nào, xảy ra trong sinh hoạt của giới cầm bút Nam bộ.

Nói về tinh thần “Hảo hớn, Lương sơn bạc” trong giới nhà văn gốc miền Nam, nhà thơ Thiên Hà (tên thật Dương Cao Thâm) cho biết, nếu ông không nhận được sự chú ý đặc biệt của nhà văn lớp đàn anh là Ngọc Linh thì, không biết ông có thể trải qua những năm đầu khi mới bước chân lên đại học, năm 1962 không? Ðó cũng là thời gian ông và một vài bạn văn khác, được trao giải thưởng truyện ngắn hàng năm của báo Tiếng Chuông. Sự kiện tưởng chừng không đáng kể ấy, đã lọt vào tầm quan sát của nhà văn Ngọc Linh. Khi biết Thiên Hà/Dương Cao Thâm đang gặp nhiều khó khăn trong việc mưu sinh, tác giả “Ðôi mắt người xưa” đã lặng lẽ yêu cầu nhà văn Sĩ Trung, bạn ông, nhận họ Dương vào làm “Thầy Cò” sửa lỗi chính tả cho nhà xuất bản Phù Sa của Sĩ Trung.

Thiên Hà nhấn mạnh:
“Không chỉ riêng tôi mà, rất nhiều anh em thuộc thế hệ tôi, đã nhận được những nâng đỡ, dẫn dắt cụ thể như thế.”

Họ Dương cũng kể, có một trường hợp biệt lệ là năm 1963, nhà văn trẻ Tâm Ðạm được trao giải thưởng truyện ngắn Tiếng Chuông và, ngay sau đó, ông đã được nhà văn lão thành Bình Nguyên Lộc mời viết chung feuilleton (loại tiểu thuyết viết từng ngày cho nhật báo). Tiểu thuyết nhan đề “Lòng ngỡ quên mà nhớ rất xa,” đăng tải từng kỳ trên nhật báo Buổi Sáng do ký giả Tam Mộc làm chủ nhiệm. Từ lúc này, theo đề nghị của nhà văn Bình Nguyên Lộc, Tâm Ðạm có bút hiệu mới, Dương Trữ La.

Bút hiệu ấy được nhà văn Tâm Ðạm sử dụng cho tới khi từ trần. (1)

Du Tử Lê,

(Tuần tới: “Vài khuôn mặt tiêu biểu của mạch ngầm văn chương Nam Bộ, thế hệ 1960.”

Chú thích:
1. Nhà văn Tâm Ðạm/Dương Trữ La tên thật Dương Ngọc Lạc, sinh ngày 16 tháng 3, 1937, tại Gò Vấp, Gia Ðịnh. Ông đã xuất bản 3 thi phẩm và 15 tập văn xuôi, gồm truyện ngắn và truyện dài. Tâm Ðạm/Dương Trữ La mất ngày 20 tháng 7 năm 2000, tại Saigon.






No comments:

Post a Comment

View My Stats