Ở
Việt Nam, ‘tu mấy kiếp’ mới mua được nhà?
Trúc Phương/Người Việt
October
10, 2025 : 7:10 PM
https://www.nguoi-viet.com/binh-luan/o-viet-nam-tu-may-kiep-moi-mua-duoc-nha/
“Tu mấy kiếp
mới mua được nhà? Câu nói nửa đùa nửa thật đang trở thành nỗi ám ảnh thật sự của
người dân Việt Nam trong cái gọi là “kỷ nguyên vươn mình” (chữ của Tổng Bí Thư
Tô Lâm). Đó không chỉ là một câu than thân trách phận mà là một chỉ báo xã hội
về sự bế tắc trong đời sống, nơi giấc mơ “an cư lạc nghiệp” không thuộc về người
dân mà luôn là đặc quyền của một tầng lớp nhỏ nắm giữ tài sản và quan hệ.
https://www.nguoi-viet.com/wp-content/uploads/2025/10/Nha-Chung-Cu-VN-1920x1291.jpg
Công
nhân làm việc trên công trường, phía xa là các khu nhà chung cư mọc lên, nơi mà
họ khó có khả năng mua được. (Hình minh họa: HOANG DINH NAM/AFP via Getty
Images)
Giấc
mơ hóa kiếp
Mới đây,
làm như “đến bây giờ thì tôi mới hiểu,” Thủ Tướng Phạm Minh Chính yêu cầu phải
có câu trả lời vì sao “giá liên tục tăng và cao mãi,” khi nói về tình trạng giá
nhà tăng chưa bao giờ có điểm dừng.
“Bao nhiêu
người cần nhà nhưng vì giá cao quá không thể mua được. Nhà mà cứ trên 70 triệu,
100 triệu đồng một m2, ai có tiền mà mua” – Phạm Minh Chính tỏ vẻ thấu hiểu thời
cuộc. Vấn đề là ai làm cho giá nhà đất tăng và tại sao tăng mãi thì Phạm Minh
Chính bỏ lửng.
Một bài
báo của VnEconomy (“Người trẻ đang chật vật với ước mơ sở hữu nhà”, ngày 31
Tháng Giêng) ghi nhận:
“Năm
2004, một cá nhân thuộc thế hệ 7x phải sử dụng 31.3 năm thu nhập để mua được một
căn chung cư 60m2, giá 600 triệu đồng, trong điều kiện lãi suất huy động là
7.4%. Sau 10 năm, số năm thu nhập để một cá nhân thuộc thế hệ 8x mua được căn hộ
như trên là 22.7 năm, giá căn hộ ước tăng 1.5 tỷ đồng, trong khi lãi suất huy động
giảm còn 6%. Tuy nhiên, đến năm 2024, một cá nhân 9x cần tới 25.8 năm thu nhập
để mua căn hộ như trên (giá 3 tỷ đồng) trong điều kiện lãi suất huy động 4,5%…”
Trên tờ
Dân Việt ngày 3 Tháng Mười (“Vì sao giá nhà, đất cứ cao, cao mãi?”), tác giả viết:
“Tuần
trước, khi tôi đến thăm một đôi vợ chồng người em, họ cứ thở vắn, than dài suốt
cả buổi. Số là sau 10 năm đi làm ở Hà Nội, họ đã dành dụm được 3 tỷ đồng – số
tiền mà nhiều người cùng trang lứa coi là một “gia tài.” Năm ngoái, họ đã đi
xem một căn hộ 70m², thậm chí đặt cọc giữ chỗ. Chỉ cần vay thêm 1 tỷ nữa là đủ,
nhưng cả hai ngần ngại. Nỗi lo trả gốc lãi 20–25 triệu đồng mỗi tháng, trong
khi tiền học hành, tiền thuê nhà, tiền ăn đã chiếm gần hết lương 30 triệu, khiến
họ rụt tay. Họ tin rằng chờ thêm chút nữa, giá nhà sẽ hạ nhiệt. Nhưng đời không
như là mơ. Một năm sau, những căn hộ từng rao bán 3–4 tỷ đã vọt lên 6–8 tỷ đồng.
Giấc mơ an cư biến thành dang dở…”
Vấn đề ở
chỗ, trong hơn một thập niên qua, lương tối thiểu ở Việt Nam tăng trung bình
5–6%/năm nhưng giá nhà ở các đô thị lớn tăng 15–20% mỗi năm, thậm chí cao hơn
trong các đợt “sốt đất”. Mức tăng ấy không phản ánh nhu cầu thật về nhà ở mà đến
từ đầu cơ, thổi giá và găm hàng. Theo Bộ Xây Dựng, hơn 70% giao dịch trên thị
trường bất động sản là để đầu tư, không phải để ở.
Trong khi
đó, hàng triệu người vẫn chen chúc trong những căn trọ 15 m2 ở vùng ven, nơi
giá thuê cũng tăng đều theo đà “phồn vinh” của thành phố. Một nghịch lý bi thảm
đang tồn tại: nhà bỏ trống thì nhiều, người không nhà thì càng đông. Trong khi
đó, Hà Nội lẫn Sài Gòn có rất nhiều khu “đô thị ma” – những nơi được “quy hoạch”
để mở khu dân cư mới, mà mục đích chính là đầu cơ, nay bỏ hoang không một bóng
người. Những đô thị ma này thật sự là biểu tượng của một nền kinh tế lệch lạc
và một chính sách quản lý méo mó.
Bất động sản
ở Việt Nam từ lâu không còn là “nơi để sống,” mà là công cụ tích trữ tài sản và
rửa tiền. Tâm lý ấy khiến mọi dòng vốn đều đổ vào đất, thay vì sản xuất hay
công nghệ. Những kẻ có quan hệ, có vốn, có thông tin nội bộ, họ “săn” đất, “ôm”
dự án, rồi bán lại cho chính những người lao động mà họ bóc lột gián tiếp. Vòng
xoáy ấy khiến giá nhà không bao giờ giảm. Đó là nguyên nhân của mọi nguyên nhân
mà Tô Lâm lẫn Phạm Minh Chính lờ tịt đi.
Tất cả cho
thấy không thể đổ lỗi hoàn toàn cho “quy luật thị trường.” Thị trường vốn chỉ
phản ánh những giá trị và xu hướng mà xã hội chấp nhận. Khi nhà trở thành hàng
hóa “một vốn bốn lời,” đó không chỉ vì lòng tham của một số người mà còn do
chính sách cho phép và dung dưỡng lòng tham đó. Đáng chú ý nhất, những kẻ hốt bộn
nhất từ kinh doanh nhà đất không chỉ là người có tiền mà đa số là thành phần
quan chức. Người dân không có nhà nhưng chẳng “cán bộ” nào phải ở nhà thuê, nhà
trọ cả.
Khi
nhà cầm quyền trở thành “tên địa chủ ác ôn” lớn nhất lịch sử Việt Nam
Từ khi Luật
Đất Đai 1993 ra đời, Việt Nam bước vào kỷ nguyên “kinh tế đất đai.” Câu khẩu hiệu
“đất đai thuộc sở hữu toàn dân, do nhà nước thống nhất quản lý” thực chất đã mở
ra một cơ chế xin-cho cực kỳ sinh lợi cho bộ máy quyền lực.
Nhà nước nắm
quyền định đoạt đất đai: ai được giao đất, giao với giá nào, chuyển đổi mục
đích ra sao – tất cả đều nằm trong tay quan chức. Khi một mảnh đất nông nghiệp
được “phù phép” thành đất đô thị, giá trị của nó có thể tăng gấp trăm lần. Lợi
nhuận khổng lồ ấy không chảy vào ngân sách mà vào túi của những người biết trước
quy hoạch hoặc có quyền điều chỉnh quy hoạch.
Hạ tuần
Tháng Chín, Tô Lâm nói nghe rất xôm, có vẻ “đổi mới” đến nơi rồi, rằng “Nhà nước
quản lý giá từ điện đến xăng dầu nhưng riêng đất đai lại theo thị trường, dẫn đến
tình trạng thao túng, thổi giá” (cứ làm như “lỗi” này là của thị trường chứ
không phải bộ máy nhà nước); thế thì “cần phải sửa Luật Đất Đai”, bởi vì “tôi rất
lo về Luật Đất Đai, quy hoạch.”
Tưởng là
nhà nước đã “ngộ” ra được sai lầm của họ trong chính sách quản lý đất đai nhưng
thật ra sẽ có chẳng có gì mới cả, vì Tô Lâm “nêu rõ”: “Quan điểm nhất quán là đất
đai thuộc sở hữu toàn dân, Nhà nước là đại diện chủ sở hữu và thống nhất quản
lý, không được tư nhân hóa đất đai.” (nguồn: ‘Giá đất theo thị trường nên dễ bị
thao túng, thổi giá’/Thanh Niên, ngày 30 Tháng Chín).
Suốt nhiều
thập niên nay, hầu hết chính quyền địa phương từ Bắc xuống Nam đều sống bằng đất.
Do ngân sách phân bổ hạn hẹp, họ phải tìm cách “bán đất nuôi bộ máy.” Từ đó,
hàng loạt khu đô thị, dự án treo, và cơn sốt đất nối tiếp nhau ra đời. Ở tầng
sâu hơn, đất đai trở thành một công cụ chính trị để kiểm soát xã hội: người dân
không sở hữu đất, chỉ có quyền sử dụng có thời hạn. Khi quyền ấy có thể bị thu
hồi bất cứ lúc nào, họ buộc phải phục tùng. Sự phụ thuộc vào “đất của nhà nước”
khiến cả xã hội bị ràng buộc trong một hình thức lệ thuộc không thể bứt ra được.
Cần nói
thêm, việc chế độ cầm quyền “ôm đất” và trở thành “tên địa chủ ác ôn” lớn nhất
lịch sử Việt Nam, trong thực tế, đã được “luật hóa.”
Điều 53 Hiến
pháp năm 2013 quy định:
Đất đai,
tài nguyên nước, tài nguyên khoáng sản, nguồn lợi ở vùng biển, vùng trời, tài
nuyên thiên nhiên khác và các tài sản do nhà nước đầu tư, quản lý tài sản công
thuộc sở hữu toàn dân do Nhà nước đại diện chủ sở hữu và thống nhất quản lý.
Điều 12 Luật
Đất đai năm 2024 quy định:
“Đất đai
thuộc sở hữu toàn dân do nhà nước đại diện chủ sở hữu và thống nhất quản lý.
Nhà nước trao quyền sử dụng đất cho người sử dụng đất theo quy định của Luật
này.”
Điều 197 Bộ
luật Dân sự năm 2015 quy định:
“Đất
đai, tài nguyên nước, tài nguyên khoáng sản, nguồn lợi ở vùng biển, vùng trời,
tài nguyên thiên nhiên khác và các tài sản do nhà nước đầu tư, quản lý là tài sản
công thuộc sở hữu toàn dân do nhà nước đại diện chủ sở hữu và thống nhất quản
lý.”
Đụng “luật”
nào cũng thấy toàn “luật rừng,” chỗ nào cũng “cài cắm” khái niệm “Nhà nước đại
diện chủ sở hữu”! Gút lại, nguồn gốc vấn đề nằm ở hệ thống đang tồn tại. Tất cả
“lỗi phát sinh” cũng từ hệ thống này. Chính Tô Lâm cũng thừa nhận: “90% những
khiếu kiện là về đất đai, 90% xử lý cán bộ sai phạm vừa qua cũng là về đất đai”
(nguồn: ‘Giá đất theo thị trường nên dễ bị thao túng, thổi giá’/Thanh Niên,
ngày 30 Tháng Chín).
Chỉ
cần… “tu một kiếp”, với điều kiện…
Toàn cảnh,
bức tranh bất động sản Việt Nam cho thấy xã hội không chỉ bị méo mó mà nền kinh
tế còn bị bóp nghẹt. Dòng tiền đổ vào đất là dòng tiền chết. Nó không tạo ra sản
phẩm, không thúc đẩy năng suất, không đổi mới công nghệ. Theo nghiên cứu của Đại
Học Fulbright, trong giai đoạn 2015–2022, tín dụng chảy vào bất động sản chiếm
tới 20–25% tổng dư nợ ngân hàng, tương đương hàng triệu tỉ đồng. Số tiền ấy lẽ
ra có thể đầu tư vào sản xuất, giáo dục, y tế, đổi mới sáng tạo nhưng thay vào
đó, lại bị chôn trong gạch, cát, và những lô đất bỏ hoang.
Đó là lý
do vì sao Việt Nam tăng trưởng GDP nhanh nhưng năng suất lao động vẫn thấp. Của
cải không đến từ sáng tạo mà từ đầu cơ. Khi đất trở thành kênh làm giàu nhanh
nhất, không ai còn muốn đầu tư vào thứ gì khác. Và khi đất “sốt” thì mọi thứ
khác đều phải phục vụ cho nó như ngân hàng, chính quyền, thậm chí cả báo chí.
Trên bề mặt,
nhiều thành phố lớn ở Việt Nam rất lộng lẫy. Các đô thị ngày càng sáng choang,
đầy rẫy cao ốc, trung tâm thương mại, khu đô thị “kiểu mẫu.” Tuy nhiên, đằng
sau những tòa tháp ấy là hàng triệu người sống trong nhà trọ, nhà thuê tạm, hoặc
trở về quê khi không còn trụ nổi. Tất cả bị nghiền vụn bởi một hệ thống khuyến
khích đầu cơ và đồng thời tạo ra tình trạng bất bình đẳng vô cùng nghiêm trọng.
Gút lại, để
trả lời câu hỏi, ở Việt Nam, “tu mấy kiếp” mới mua được nhà, có thể nói rằng chỉ
cần… “tu một kiếp” cũng có được nhà, với điều kiện Việt Nam “hóa kiếp” được bộ
máy cầm quyền đang cai trị quốc gia! [kn]
No comments:
Post a Comment